DDDDDDDDDDDDDDDDDddddddddddddddddddddddddddddddddd
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
BÙI THỊ HẢI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ
THEO HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2008
DDDDDDDDDDDDDDDDDddddddddddddddddddddddddddddddddd
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
BÙI THỊ HẢI
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ
THEO HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
MÃ SỐ : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS PHẠM HỒNG THÁI
HÀ NỘI - NĂM 2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
Chương I: nhà nước pháp quyền và những yêu cầu đối với tổ
chức, hoạt động của chính quyền xã
1.1
NHỮNG ĐẶC TRƢNG CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
9
1.1.1
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
11
1.1.2
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp
12
1.1.3
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội
bằng pháp luật, đảm bảo vị trí tối thƣợng của pháp luật trong đời
sống xã hội
13
1.1.4
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo
vệ các quyền, tự do của công dân, bảo đảm quyền con ngƣời, nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nƣớc với công dân
14
1.1.5
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền
lực Nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp
15
1.1.6
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo
18
1.2
Chính quyền xã trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam
19
1.2.1
Khái quát chung về chính quyền xã
19
1.2.2
Vị trí, vai trò của chính quyền xã
20
1.2.3
Những yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền đối với tổ chức và hoạt
động của chính quyền xã
22
Chương II: Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở Việt
Nam hiện nay
30
2.1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC BỘ MÁY
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ TỪ NĂM 1945
ĐẾN NĂM 1992
30
2.1.1
Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1959
30
2.1.2
Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở Việt Nam từ năm 1959
đến năm 1980
32
2.1.3
Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở Việt Nam từ năm 1980
đến năm 1992
34
2.1.4
Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở Việt Nam từ năm 1992
đến trƣớc khi có Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân năm 2003
36
2.2
Thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền xã trong giai
đoạn hiện nay
37
2.2.1
Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân xã
38
a
Vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân xã
38
b
Chức năng của Hội đồng nhân dân xã
38
c
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã
39
d
Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã
40
e
Hoạt động của Hội đồng nhân dân xã
42
2.2.2
Thực trạng tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã
49
a
Vị trí, tính chất, chức năng của Uỷ ban nhân dân xã
49
b
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân xã
50
c
Cơ cấu tổ chức của Uỷ ban nhân dân xã
52
d
Hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã
54
2.2.3
Thực trạng về đội ngũ cán bộ - công chức xã
56
2.2.4
Thực trạng về mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân xã trong hoạt động điều hành xã
61
2.2.5
Quy chế dân chủ ở cơ sở
65
Chương III: Mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền xã
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
71
3.1
Nguyên tắc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của chính
quyền xã theo hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
71
3.1.1
Kết hợp lợi ích Nhà nƣớc và lợi ích địa phƣơng
71
3.1.2
Phát huy tính độc lập của chính quyền xã trong việc giải quyết các
vấn đề ở địa phƣơng
72
3.1.3
Đảm bảo sự tƣơng thích giữa các cấp chính quyền địa phƣơng nói
chung và chính quyền xã nói riêng
73
3.1.4
Đảm bảo sự tƣơng thích với các đặc trƣng của cộng đồng dân cƣ,
truyền thống, phong tục tập quán của nhân dân địa phƣơng
74
3.2
PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH QUYỀN XÃ THEO HƢỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN
75
3.2.1
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách có liên quan đến tổ
chức và hoạt động của chính quyền xã
75
3.2.2
Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân xã theo hƣớng làm cho
Hội đồng nhân dân xã thực sự là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa
phƣơng
77
a
Xác định tính chất pháp lý của Hội đồng nhân dân xã một cách
thích hợp để phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
78
b
Hoàn thiện và nâng cao hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
xã
80
3.2.3
Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức của chính quyền xã
84
a
Phân biệt rõ vị trí, tính chất, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của chính
quyền xã với chính quyền phƣờng
87
b
Xây dựng các Ban của Hội đồng nhân dân xã
88
c
Mô hình Thƣờng trực Hội đồng nhân dân xã thực sự vững mạnh
89
d
Mô hình Hội đồng nhân dân xã với các đại biểu Hội đồng nhân dân
đủ mạnh, đủ tài
91
e
Mô hình Uỷ ban nhân dân xã gọn nhẹ, phân định rõ trách nhiệm
của tập thể Uỷ ban nhân dân, cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và
các thành vien Uỷ ban nhân dân
92
g
Mô hình Uỷ ban nhân dân xã thực sự là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân
93
3.2.4
Xây dựng đội ngũ cán bộ - công chức xã trong sạch, vững mạnh
đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nƣớc
94
3.2.5
Phát huy dân chủ, tôn trọng và đảm bảo quyền – tự do của nhân dân
ở địa phƣơng
101
3.2.6
Đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự phối
hợp của hệ thống chính trị trong tổ chức, hoạt động của chính
quyền xã
103
Kết luận
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã xác định, một trong những
phƣơng hƣớng để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa là: “đẩy mạnh
cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc, phát huy dân chủ, tăng cƣờng
pháp chế”. “Cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, phát huy
và tăng cƣờng dân chủ là đòi hỏi khách quan, bức thiết của đời sống xã hội
hiện nay”. Một trong những nội dung quan trọng của công cuộc cải cách
này là cải cách tổ chức - hoạt động của chính quyền cấp xã (xã, phƣờng,
thị trấn) nói chung và của chính quyền xã nói riêng. Điều 2 - Hiến pháp
Việt Nam năm 1992 (đã đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2001) ghi nhận: “Nhà
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền đặt
ra hàng loạt các vấn đề liên quan đến phƣơng thức tổ chức - hoạt động thực
hiện quyền lực nhà nƣớc ở trung ƣơng và địa phƣơng.
Xã là cấp quản lý hành chính thấp nhất, trực tiếp và gần gũi dân
nhất. Yêu cầu nâng cao năng lực hiệu quả của chính quyền xã là đặc biệt
cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “phải đề cao tính chủ động
của chính quyền địa phƣơng”; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện toàn
cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân và bộ máy chính quyền xã,
phƣờng, thị trấn. Chính quyền xã bao gồm Hội đồng nhân dân (cơ quan
quyền lực) và Ủy ban nhân dân (cơ quan chấp hành, cơ quan hành chính
nhà nƣớc ở địa phƣơng). Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân năm 2003 đã có những quy định chuyên biệt nhƣng chƣa đạt đến mức
độ cao thể hiện những đặc thù của đời sống đô thị và nông thôn. Về mặt
2
pháp luật, tổ chức và hoạt động của chính quyền xã đã có những thay đổi
nhất định. Nhƣng trong thực tiễn tổ chức, hoạt động còn nhiều bất cập,
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới hiện nay: cơ cấu mang tính hình thức,
hoạt động kém hiệu quả; nhiều quy định của chính quyền xã còn trái với
Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên và xâm phạm
quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân. Tất cả những điều đó không
phù hợp với quan điểm xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Xuất phát từ những vấn đề nói trên, tôi chọn đề tài: “Tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã theo hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ để
nghiên cứu là đáp ứng yêu cầu đang đặt ra hiện nay.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Về Nhà nƣớc pháp quyền và chính quyền xã đã có rất nhiều công
trình khoa học nghiên cứu: từ đề tài luận văn thạc sỹ, tiến sỹ đến bài báo
khoa học, sách chuyên khảo, đề tài khoa học cấp Bộ, cấp nhà nƣớc. Các
công trình nghiên cứu về Nhà nƣớc pháp quyền và xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam tập trung giải quyết những vấn đề nhận thức luận về
nhà nƣớc pháp quyền nhƣ: nguyên tắc, điều kiện, mô hình Nhà nƣớc pháp
quyền trong điều kiện hoàn cảnh đặc thù của nƣớc ta hiện nay.
* Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa –
GS.TS Hoàng Văn Hảo – Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật số 3/2004.
* Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật –
nhiệm vụ trọng tâm xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân – PGS.TS Trần Ngọc Đƣờng - Tạp chí nhà
nƣớc và pháp luật số 7/2004.
3
* Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng – Tô Xuân Dân, Nguyễn Thanh Bình - Tạp
chí cộng sản tháng 4/2004.
* Bàn về Nhà nƣớc pháp quyền và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc
ta – PGS.TS Phạm Hồng Thái – Nguyễn Quốc Sửu – Tạp chí quản lý nhà
nƣớc số 3/2005.
Đặc biệt, trong những năm gần đây ở nƣớc ta có nhiều công trình
lớn nghiên cứu về Nhà nƣớc pháp quyền nhƣ:
* Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân giai đoạn 2001 –
2010 – GS.TS Đào Trí Úc - Đề tài KX 04 – 02.
* Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – NXB Tƣ pháp 2006 - Đề tài KX 04 – 04.
* Xây dựng mô hình tổ chức, phƣơng thức hoạt động của Quốc hội và
Chính Phủ trong Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân – PGS.TS Trần Ngọc Đƣờng.
* Quốc hội trong điều kiện của việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền –
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung.
* Sự hạn chế quyền lực nhà nƣớc – PGS.TS Nguyễn Đăng Dung.
Trong các công trình nghiên cứu này các tác giả đã tập trung luận
giải sự hình thành, phát triển nhận thức luận về Nhà nƣớc pháp quyền;
nguyên tắc, đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền với tƣ cách là những giá
trị có tính phổ biến; sự hạn chế quyền lực trong Nhà nƣớc pháp quyền; nêu
ra một số đặc thù của Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam; mô hình Nhà nƣớc
pháp quyền, mô hình tổ chức cơ quan lập pháp, hành pháp, tƣ pháp trong
Nhà nƣớc pháp quyền … Nhƣng về chính quyền địa phƣơng nói chung và
chính quyền xã nói riêng chỉ đƣợc điểm qua ở những nét chung nhất mà
4
chƣa có những phân tích xác đáng về tổ chức và hoạt động - đặc biệt là về
tổ chức và hoạt động thực tiễn của những cơ quan này. Hơn nữa, trong các
nghiên cứu nêu trên, các tác giả còn những quan niệm khác nhau về Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính quyền địa phƣơng và về tính chất của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân.
Về chính quyền địa phƣơng, cũng có nhiều công trình nghiên cứu ở
những khía cạnh khác nhau nhƣ:
* Đổi mới thể chế và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nƣớc ở địa
phƣơng – PGS.TS Lê Sỹ Thiệp, năm 2006.
* Tổ chức chính quyền nhà nƣớc ở địa phƣơng – PGS.TS Nguyễn Đăng
Dung, NXB Đồng Nai, năm 1997.
* Cải cách hành chính địa phƣơng – Lý luận và thực tiễn – Tô Tử Hạ, TS.
Nguyễn Hữu Trị, TS. Nguyễn Hữu Đức đồng chủ biên, năm 1998.
* Đổi mới tổ chức bộ máy đô thị trong cải cách nền hành chính quốc gia
hiện nay – Luận án Phó tiến sỹ của Đỗ Xuân Đông, năm 1996.
* Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân các cấp – Lê Minh Thông – Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật số 6/1999.
* Một số vấn đề cần hoàn thiện trong tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân các cấp – Tạp chí nhà nƣớc và pháp luật số 7/2000.
* Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã -
Luận án tiến sỹ Trần Nho Thìn, năm 2000.
* Quyền lực nhà nƣớc và quyền công dân - Đinh Văn Mậu – NXB Tƣ
pháp, năm 2003.
* Vài nét về hành chính Việt Nam từ cách mạng tháng 8 đến nay - Đinh
Văn Mậu, Phạm Hồng Thái – Tạp chí quản lý nhà nƣớc số 10/2001.
* Nghiên cứu mô hình bộ máy chính quyền thành phố Hồ Chí Minh năm
1997 – Kỷ yếu hội thảo.
5
* Các mô hình tổ chức chính quyền nhà nƣớc trên địa bàn thành phố Hà
Nội – TS. Lê Anh Sắc.
* Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền thành phố – TS. Vũ Đức
Đán.
Các công trình nghiên cứu này, tập trung nghiên cứu những vấn đề
chung: sự hình thành, phát triển, đặc điểm của chính quyền địa phƣơng;
phân biệt chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn; mô hình chính
quyền 2 cấp ở đô thị, 3 cấp ở nông thôn; quan điểm tổ chức chính quyền
nói chung; phân công, phân cấp quyền lực nhà nƣớc; tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phƣơng… Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị
để hoàn thành luận văn này.
Hiện nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt,
có hệ thống về tổ chức và hoạt động của chính quyền xã theo hƣớng xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân ở Việt Nam. Đặc biệt là chƣa có những khảo sát cụ thể thực tiễn
của chính quyền xã trên các mặt hoạt động.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, chuyển dần từ nền
hành chính truyền thống – hành chính cai quản sang nền hành chính phục
vụ, nhân dân với tƣ cách là khách hàng của nền hành chính, càng đặt ra
những đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp,
trong đó có chính quyền xã. Vì vậy, việc nghiên cứu đặt ra những khuyến
nghị khoa học nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền xã là
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
a. Mục đích nghiên cứu
6
Trên cơ sở phân tích những đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền,
luận văn đƣa ra những yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền đối với tổ chức
và hoạt động của chính quyền xã. Đồng thời, từ việc phân tích tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã từ năm 1945 đến nay, luận văn đƣa ra các
giải pháp đổi mới tổ chức – hoạt động của chính quyền xã trong giai đoạn
hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
b. Nhiệm vụ của luận văn
Thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
*
1
Nghiên cứu những đặc trƣng chung, đặc thù về tổ chức và hoạt động của
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó khẳng định
những yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam đối với tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã.
*
2
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của chính quyền xã từ năm 1945 đến
nay. Từ đó, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của chính quyền
xã trên các phƣơng diện khác nhau: phƣơng diện về thể chế, phƣơng diện
thực tiễn… trên cơ sở những tiêu chí, những yêu cầu của Nhà nƣớc pháp
quyền Việt Nam.
*
3
Nêu các khuyến nghị khoa học về mô hình tổ chức và hoạt động của
chính quyền xã theo hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền xã đƣợc tiếp
cận từ nhiều góc độ khác nhau. Luận văn này đƣợc nghiên cứu từ góc nhìn
của Lý luận Nhà nƣớc và pháp luật; dƣới sự tác động của những triết lý về
Nhà nƣớc pháp quyền đối với Lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật. Luận văn
nghiên cứu tổ chức và hoạt động của chính quyền xã (bao gồm Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân); nghiên cứu tổ chức, hoạt động của chính
7
quyền xã từ khi có Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 2003 tới nay.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ
nghĩa Mác – Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; các quan điểm chính trị –
pháp lý ở nƣớc ta về Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu có tiếp thu, chọn lọc các quan điểm
tƣ tƣởng tiến bộ của nhân loại về Nhà nƣớc pháp quyền và mô hình tổ
chức chính quyền địa phƣơng.
Luận văn đƣợc nghiên cứu bằng phƣơng pháp sau: phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê, dự báo, khảo sát thực tiễn và điều tra xã hội học.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
a. Về lý thuyết
*
1
Hình thành quan niệm về thiết chế tổ chức thực hiện quyền hành pháp ở
địa phƣơng, trong đó chính quyền xã có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng.
*
2
Hình thành quan niệm, tiêu chí, điều kiện đảm bảo tính độc lập của Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã.
*
3
Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chính sách có liên quan đến tổ
chức và hoạt động của chính quyền xã.
*
4
Giải pháp mở rộng quy chế dân chủ ở cơ sở.
*
5
Xác định vị trí, tính chất pháp lý của Hội đồng nhân dân xã một cách
thích hợp để phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân xã.
*
6
Hoàn thiện và nâng cao hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân xã.
*
7
Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ - công chức xã trong sạch, vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nƣớc.
b. Về thực tiễn
8
Luận văn đƣa ra khuyến nghị mô hình tổ chức và hoạt động của
chính quyền xã theo hƣớng xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam:
*
1
Xây dựng các Ban của Hội đồng nhân dân xã.
*
2
Xây dựng Thƣờng trực Hội đồng nhân dân xã thực sự vững mạnh.
*
3
Xây dựng Hội đồng nhân dân xã với các đại biểu đủ mạnh, đủ tài.
*
4
Hoàn thiện tổ chức của Uỷ ban nhân dân xã để Uỷ ban thực sự là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân xã.
*
5
Tổ chức Uỷ ban nhân dân xã gọn nhẹ, phân định rõ trách nhiệm của tập
thể Uỷ ban nhân dân, cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên
của Uỷ ban nhân dân xã.
Những kết luận, kiến nghị đƣa ra trong luận văn có thể có ý nghĩa
đối với việc tìm ra mô hình tổ chức và phƣơng thức hoạt động hợp lý của
chính quyền xã cũng nhƣ hoàn thiện pháp luật về chính quyền xã trong
điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đồng thời, luận văn có thể giúp ích
phần nào cho cán bộ - công chức chính quyền xã trong việc tìm hiểu cũng
nhƣ áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật trong tổ chức và hoạt
động của mình.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm 3 chƣơng.
CHƢƠNG I: NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHỮNG YÊU CẦU
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN XÃ
9
1.1. NHỮNG ĐẶC TRƢNG CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
Nhà nƣớc pháp quyền là một hình thức chính trị pháp lý hợp lý để
quản lý, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ. Trong lịch sử
tƣ tƣởng của nhân loại, tƣ tƣởng về Nhà nƣớc pháp quyền đã xuất hiện từ
thời cổ đại nhƣng đến thế kỷ XVIII mới xuất hiện học thuyết về Nhà nƣớc
pháp quyền. Theo quan điểm của phƣơng Tây: Nhà nƣớc pháp quyền là vị thế
pháp lý hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi ngƣời đều phải phục tùng và tôn
trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công quyền. Nhà nƣớc
pháp quyền liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy
phạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà
nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc nơi những ngƣời đƣợc ủy quyền giao trọng
trách thông qua phiếu bầu phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ ban
ra. Lý thuyết phân quyền của Montesquieu vốn là nền tảng cho phần lớn Nhà
nƣớc phƣơng Tây hiện đại khẳng định sự phân chia 3 quyền (lập pháp, hành
pháp và tƣ pháp) và những giới hạn của 3 thứ quyền lực này. Theo các nhà
luật học Liên bang Nga thì có ba dấu hiệu cơ bản nhất của Nhà nƣớc pháp
quyền: tổ chức quyền lực nhà nƣớc khoa học; phân định giữa các quyền lập
pháp, hành pháp, tƣ pháp trong cơ chế kiểm soát lẫn nhau, tự do dân chủ của
công dân, bảo vệ quyền con ngƣời; tính tối cao của luật, sự thống trị của pháp
luật, nhà nƣớc phải tự đặt mình dƣới pháp luật. Tại Hội nghị quốc tế về nhà
nƣớc pháp quyền đƣợc tổ chức tại Bê-nanh, năm 1992, các luật gia đã đƣa ra
nhiều khái niệm, tiêu chí về một nhà nƣớc pháp quyền và đƣợc đông đảo dƣ
luận quốc tế đồng tình, bao gồm: sự thừa nhận tính tối cao của pháp luật; việc
xác định quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp trong bộ máy quyền lực nhà
10
nƣớc; việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con ngƣời, tôn trọng pháp
luật quốc tế v.v
Ở Việt Nam, ngay từ buổi đầu đƣợc thành lập cũng nhƣ trong suốt quá
trình xây dựng – phát triển của mình, Nhà nƣớc ta đã mang những yếu tố của
Nhà nƣớc pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng và Nhà
nƣớc ta đã có những nỗ lực to lớn nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Lần đầu
tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã đƣợc sửa đổi, bổ
sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng nhà nƣớc pháp quyền: "Nhà
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân , vì nhân dân" (Điều 2). Việc ghi nhận
đó là cơ sở pháp lý xác định mục tiêu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt
Nam. Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý luận về
nhà nƣớc pháp quyền hiện nay, chúng ta có thể xác định, Nhà nƣớc pháp
quyền là nhà nƣớc trong đó phƣơng thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ
máy nhà nƣớc do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật;
bao hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp, với hệ
thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất
là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con
ngƣời nói chung).
Thực tiễn của 20 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định, yêu cầu xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền dƣới sự lãnh đạo của Đảng nhƣ một xu thế khách
quan, tất yếu, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
việc nghiên cứu các đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền là định
hƣớng, là mô hình quan điểm cho việc xây dựng các thiết chế Nhà nƣớc và
11
pháp luật cụ thể nói chung cũng nhƣ tổ chức, hoạt động của chính quyền xã
nói riêng.
1.1.1. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Cái gốc của chế độ trong Nhà nƣớc pháp quyền là xác lập dân chủ, tức
là thừa nhận và đảm bảo thực hiện quyền lực của nhân dân. Nội dung này
luôn đƣợc khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây
dựng Nhà nƣớc ta. Hiến pháp 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên đã quy định tại
Điều 1: “Nƣớc Việt Nam là một nƣớc dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bình
trong nƣớc là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp và tôn giáo”. Nguyên tắc đó đƣợc khẳng định trong
các Hiến pháp tiếp theo và đến Hiến pháp 1992 đƣợc hoàn thiện hơn: “Nhà
nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”
(Điều 2).
Khẳng định quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân không chỉ là
nguyên tắc cơ bản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp mà còn gắn liền với việc
thành lập các cơ chế đảm bảo thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân. Nhân
dân tạo lập nên Nhà nƣớc, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho
mình thực thi quyền lực Nhà nƣớc. Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có
thể tác động một cách tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực nhà nƣớc.
Trong các phạm vi khác nhau của hoạt động nhà nƣớc, pháp luật cũng đã tạo
ra những điều kiện về mặt pháp lý để thu hút sự tham gia rộng rãi, sự đóng
góp tích cực của công dân vào quản lý nhà nƣớc và xã hội (Điều 53 Hiến pháp
1992): quyền tham gia các tổ chức xã hội, quyền khiếu nại – tố cáo…Về bản
chất, các thiết chế chính trị và quyền lực nhà nƣớc đều đặt mình dƣới sự giám
12
sát của nhân dân (Điều 8 Hiến pháp 1992). Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam
đã ghi rõ: “Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”.
1.1.2. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp
Trong Nhà nƣớc pháp quyền, ý chí của nhân dân, sự lựa chọn chính trị
đƣợc xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến
pháp. Chính vì vậy, Hiến pháp đƣợc coi là đạo luật cơ bản của Nhà nƣớc và
có hiệu lực pháp lý cao nhất. Do vị trí đặc biệt quan trọng của Hiến pháp
trong hệ thống pháp luật, trong sinh hoạt của nhà nƣớc và trong sinh hoạt của
một xã hội nói chung nên Hiến pháp đƣợc xem là luật cơ bản của nhà nƣớc xã
hội chủ nghĩa. Điều này đƣợc thể hiện ở các nội dung sau đây:
Thứ nhất, Hiến pháp không phải là một loại văn bản pháp lý thông thƣờng,
do cơ quan nhà nƣớc bất kỳ ban hành mà do một cơ quan nhà nƣớc có vị trí
đặc biệt thông qua. Ở Việt Nam, Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao
nhất có quyền thông qua Hiến pháp, tức là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến
pháp.
Thứ hai, Hiến pháp là một văn bản có hiệu lực cao nhất quy định việc tổ chức
quyền lực Nhà nƣớc, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tƣ
tƣởng của giai cấp lãnh đạo.
Thứ ba, đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp rất rộng, có tính chất bao quát tất
cả các lĩnh vực của sinh hoạt xã hội: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, đƣờng
lối phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, đƣờng lối quốc phòng
toàn dân, cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nƣớc, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân.
13
Thứ tư, các quy định của Hiến pháp là nguồn, là căn cứ cho tất cả các ngành
luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. Các luật và các văn bản dƣới luật
không đƣợc mâu thuẫn mà phải phù hợp với tinh thần, nội dung của Hiến
pháp; đƣợc ban hành trên cơ sở Hiến pháp, để thi hành Hiến pháp. Vì thế
trong Nhà nƣớc pháp quyền, các quy định của Hiến pháp phải thực sự ổn
định, có tính pháp lý cao nhất và có khả năng phát huy hiệu lực trực tiếp.
1.1.3. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội
bằng pháp luật, đảm bảo vị trí tối thƣợng của pháp luật trong đời sống xã
hội
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do Nhà nƣớc đặt ra hoặc
thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội điển
hình, phổ biến giữa các chủ thể với nhau, thiết lập trật tự, kỷ cƣơng xã hội.
Pháp luật của Nhà nƣớc ta là kết quả của sự thể chế hóa đƣờng lối, chính sách
của Đảng cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí nguyện
vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Vì vậy, nói đến pháp luật Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nói đến tính khách quan của các quy định pháp luật chứ không phải
chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một
cách chung chung. Pháp luật của Nhà nƣớc ta là phƣơng tiện thể hiện đƣờng
lối chính sách của Đảng cộng sản, bảo vệ chế độ chính trị, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật xác định bản chất, cơ cấu, nội dung,
phƣơng hƣớng, mục tiêu hoạt động của hệ thống chính trị và mỗi tổ chức
thành viên. Đối với kinh tế, pháp luật cụ thể hóa các chính sách giá, tài chính,
thuế, tín dụng, các quan hệ hàng hóa – tiền tệ, quan hệ hợp đồng kinh tế; tạo
lập khung pháp lý cho các thành phần kinh tế hoạt động trên các nguyên tắc
14
chung thống nhất; thiết lập và đảm bảo cơ chế quản lý mới… Đối với xã hội
nói chung và các quy phạm xã hội nói riêng, pháp luật giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội; tạo lập khung pháp lý để các cá nhân, cơ quan, tổ chức… hoạt động vì
lợi ích của nhân dân. Pháp luật ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền - lợi ích hợp pháp của công dân, xác lập và đảm bảo cơ chế pháp lý để
công dân thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Pháp luật xử lý nghiêm
minh, kịp thời, nhanh chóng mọi hành vi xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, các
quyền – lợi ích hợp pháp của công dân và những giá trị xã hội khác…
Nhà nƣớc pháp quyền đặt ra một nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp
luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội; làm cơ sở cho sự tồn tại một
trật tự pháp luật, kỷ luật của xã hội. Pháp luật thể chế hóa các nhu cầu quản lý
xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội cũng nhƣ của các
thiết chế Nhà nƣớc. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp - pháp luật là
một yêu cầu mà tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải nghiêm chỉnh
chấp hành.
1.1.4. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo
vệ các quyền, tự do của công dân, bảo đảm quyền con ngƣời, nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nƣớc với công dân
Đây là một đặc trƣng mà kể từ khi thành lập nƣớc Việt Nam dân chủ
cộng hòa cho đến nay Nhà nƣớc ta luôn đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, nguyên
tắc này chƣa đƣợc thể chế hóa một cách cụ thể ở các Hiến pháp trƣớc đây.
Với Hiến pháp 1992, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nƣớc ta, nguyên tắc
tôn trọng các quyền con ngƣời đƣợc thể chế hóa trong đạo luật cơ bản của
Nhà nƣớc. Đây là một bƣớc phát triển quan trọng của chế định quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp (Điều 50). Và cũng theo Hiến pháp
1992, Nhà nƣớc ta xây dựng chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
dựa trên các nguyên tắc sau:
15
Thứ nhất, quyền công dân xuất phát từ quyền con ngƣời trong các lĩnh vực
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội hay còn gọi là nguyên tắc tôn trọng
các quyền con ngƣời.
Thứ hai, nguyên tắc quyền không tách rời nghĩa vụ của công dân. Điều 51
của Hiến pháp 1992 đã khẳng định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ
của công dân. Nhà nƣớc bảo đảm các quyền của công dân, công dân phải làm
tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nƣớc và xã hội.” Nguyên tắc này đã tạo
nên tính thống nhất hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của Nhà nƣớc và công
dân: quyền và nghĩa vụ của bên này là quyền và nghĩa vụ của bên kia. Nhà
nƣớc đảm bảo cho các công dân những quyền và lợi ích hợp pháp nhƣng mặt
khác cũng đòi hỏi mọi công dân phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ mà
pháp luật quy định.
Thứ ba, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Bản chất của
bình đẳng thể hiện ở sự công nhận giá trị bình đẳng của tất cả mọi ngƣời trong
các lĩnh vực dời sống, kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật không phân biệt giới
tính, tình trạng giai cấp, giàu nghèo….
Thứ 4, nguyên tắc hiện thực các quyền và nghĩa vụ của công dân. Nguyên tắc
này đòi hỏi các quyền - nghĩa vụ cơ bản của công dân đƣợc ghi nhận trong
Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác phải là các quyền - nghĩa vụ có cơ
sở, phải đƣợc đảm bảo thực hiện trong thực tế.
Ngày nay, khi chúng ta xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền thì vấn đề tôn
trọng và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền cơ bản của công dân là một trong
những yêu cầu cấp bách. Nó không những phản ánh phù hợp với các điều kiện
kinh tế – xã hội liên quan trong thời kỳ hiện nay mà còn phù hợp với nội dung
của pháp luật quốc tế, nhất là những Công ƣớc của Liên hợp quốc về vấn đề
quyền con ngƣời.
16
1.1.5. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền
lực Nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp
Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc ta,
vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy
Nhà nƣớc. Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) cùng với cƣơng lĩnh
xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan điểm về sự
tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó
của Nhà nƣớc mới đƣợc chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa,
phát triển và vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức
của nhân loại. Đến Hội nghị trung ƣơng lần thứ 8 (Khóa VII, 1995) quan điểm
của Đảng về sự tồn tại của ba quyền đã có sự bổ sung quan trọng: quyền lực
Nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền
lập pháp, hành pháp, tƣ pháp. Đây là một quan điểm chính trị pháp lý khái
quát và có ý nghĩa rất to lớn. Quán triệt quan điểm quyền lực Nhà nƣớc là
thống nhất sẽ tác động trực tiếp đến việc tăng cƣờng trách nhiệm và sự phối
hợp của các cơ cấu thực hiện quyền lực của bộ máy Nhà nƣớc, bảo đảm cho
bộ máy vận hành đồng bộ, thống nhất, có hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, tăng
cƣờng việc phân công, phân nhiệm rành mạch, rõ ràng và chú trọng việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tƣ pháp chính là điều kiện để phát huy tốt
hiệu lực của quyền lực Nhà nƣớc thống nhất.
Với tính chất là cơ quan quyền lực Nhà nƣớc cao nhất trong hệ thống
các cơ quan Nhà nƣớc của Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đƣợc Hiến pháp
dành cho một vị trí quan trọng nhất: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và
lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối
17
ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nƣớc, những
nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, về quan hệ
xã hội và hoạt động của công dân.” Thông qua chức năng lập pháp của mình,
Quốc hội đảm đƣơng các nhiệm vụ khác với tƣ cách là cơ quan quyền lực tối
cao trong hệ thống các cơ quan tạo thành bộ máy Nhà nƣớc.
Chính phủ tại Hiến pháp 1992 đã đƣợc xây dựng theo hƣớng tập trung
vào lĩnh vực hành chính nhà nƣớc, quản lý điều hành đất nƣớc một cách chủ
động, độc lập: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính Nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Trong Nhà nƣớc pháp quyền, Chính phủ phải đƣợc coi là trung tâm của bộ
máy Nhà nƣớc vì hoạt động của Chính phủ có sự ảnh hƣởng rất lớn đến toàn
bộ hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc khác. Chính phủ phải nhận thức rõ vai
trò, trách nhiệm trong việc phải phân tích chính sách, đề ra các chủ trƣơng
thông qua các hoạt động trình dự án luật và lập quy. Mặt khác, Chính phủ
không chỉ thụ động trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật mà còn chủ
động trong việc đề ra các chủ trƣơng, chính sách làm nền tảng cho sự hoàn
thiện của pháp luật và thực hiện pháp luật.
Vị trí, vai trò của cơ quan tƣ pháp của nƣớc ta mà trọng tâm là hệ thống
các Tòa án luôn đƣợc đề cao. Trong giai đoạn hiện nay, cải cách tƣ pháp đã và
đang đƣợc coi là chủ trƣơng lớn của Đảng, Nhà nƣớc ta nằm trong định hƣớng
chung của việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền. Nhà nƣớc pháp quyền là một
mô hình tổ chức Nhà nƣớc chống lại sự lạm quyền, tùy tiện của công quyền
để bảo vệ con ngƣời. Do đó, Nhà nƣớc pháp quyền yêu cầu chính quyền phải
chịu sự kiểm soát của pháp luật bởi pháp luật là để bảo vệ con ngƣời. Muốn
làm đƣợc điều này thì yêu cầu hệ thống Tòa án phải hoàn thiện, độc lập, công
minh và chỉ tuân theo pháp luật. Sự độc lập của quyền tƣ pháp, sự kiểm tra
của nó với hai nhánh quyền lập pháp – hành pháp, sự vận hành có hiệu quả
18
của cơ chế phối hợp - chế ƣớc của ba nhánh quyền lực chính là những điều
kiện cần thiết và quan trọng đảm bảo cho sự thành công của công cuộc cải
cách tƣ pháp nói riêng cũng nhƣ xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền nói chung ở
Việt Nam.
Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phƣơng đƣợc thể hiện qua
các Hiến pháp với việc hình thành Hội đồng nhân dân mà các đại biểu Hội
đồng nhân dân do nhân dân địa phƣơng trực tiếp bầu ra và việc Hội đồng nhân
dân bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân.
Quyền lực Nhà nƣớc ở nƣớc ta là thống nhất. Sự thống nhất đó không
phải là sự tập trung quyền lực cao độ vào một nhánh quyền lực nào theo kiểu
phân lập quyền lực mà là sự thống nhất ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích
của nhân dân, của đất nƣớc, của dân tộc. Thực tiễn chứng minh rằng, việc
phân công và phối hợp trong thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở Việt Nam mấy
chục năm qua đã tạo điều kiện để bộ máy Nhà nƣớc vận hành thông suốt.
Đồng thời đảm bảo tăng cƣờng ngày càng có chất lƣợng hơn cơ chế kiểm tra,
tự kiểm tra, thanh tra của hệ thống cơ quan hành chính Nhà nƣớc; cơ chế kiểm
soát đối với hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát; cơ chế giám sát của Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp và cơ chế giám sát thƣờng xuyên của nhân
dân.
1.1.6. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Trong hệ thống chính trị nƣớc ta, Đảng cộng sản Việt Nam vừa là một
bộ phận hợp thành, vừa là tổ chức lãnh đạo hệ thống. Sự lãnh đạo của Đảng
đƣợc chính thức ghi nhận trong Hiến pháp, đó là sự khẳng định thành quả đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta. Hiến pháp 1992 khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nƣớc và xã hội; đồng thời cũng quy
định rõ các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
19
luật. Các đƣờng lối, chính sách của Đảng là kim chỉ nam cho hoạt động của
Nhà nƣớc và xã hội. Nhiều chính sách của Đảng đƣợc thể chế thành pháp luật.
Tuy vậy, là Đảng lãnh đạo trong hệ thống chính trị nhƣng Đảng không can
thiệp trực tiếp vào công việc Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội mà Đảng chỉ
định ra đƣờng lối, phƣơng hƣớng cho hoạt động của Nhà nƣớc và kiểm tra các
cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện đƣờng lối của mình. Trong quá trình
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cũng nhƣ
khẳng định mối quan hệ mật thiết của Đảng với nhân dân là một trong những
nội dung vô cùng quan trọng.
Qua những nội dung trình bày ở trên đây, ta có thể thấy, yêu cầu xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân là một xu thế
khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
1.2. CHÍNH QUYỀN XÃ TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.2.1. Khái quát chung về chính quyền xã
Bộ máy nhà nƣớc cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc tổ chức
trên cơ sở các quy định của Hiến pháp 1992, là một bƣớc phát triển quan
trọng trong lịch sử tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc kể từ năm 1945
đến nay. Hiến pháp 1992 đã xác định mô hình nhà nƣớc phù hợp với các mục
tiêu của quá trình chuyển đổi cơ chế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa. Để thực hiện chức năng cai trị của mình và để thuận tiện hơn trong việc
thực hiện các quyết định của cơ quan cấp trên, Nhà nƣớc trung ƣơng tiến hành
phân chia theo vùng trên toàn bộ lãnh thổ. Với bản chất là Nhà nƣớc của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân nên ở nƣớc ta việc tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nƣớc trên từng vùng lãnh thổ địa phƣơng còn nhằm mục đích chính là