Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Bài cuối kì môn Tâm Lý Học Tôn Giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.28 MB, 121 trang )

Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn
Khoa : Tâm Lý Học
(Niên Khóa 2015-2019)

Môn: Tâm lý học tôn giáo
Giảng Viên: TS Dương Ngọc Dũng

Bài kiểm tra cuối kì
Chủ đề:
Tại sao một người lại chuyển từ tôn giáo này sang tôn giáo khác?


Nhóm : VHVL K07b
Họ và Tên
Nguyễn Thị Yến Ngọc - MSSV :


Mục Lục :
I.

Tóm tắt về những lý do người ta đổi từ tôn giáo này sang tôn giáo khác mà

nhóm đã tìm được.
II.
Tài liệu và tóm từ sách báo Việt Nam và nước ngoài về việc cải đạo
 Phật giáo sẽ ra sao trước xu hướng biến đổi trên thế giới .
 Sự Thay Đổi - Bức Tranh Tôn Giáo Toàn Cầu
 Biến đổi tôn giáo truyền thống ở các tộc người thiểu số miền núi
phía Bắc Việt Nam hiện nay.
 Vì sao nhiều người bỏ đạo Hindu?


 Những biến đổi cơ bản trong tôn giáo, tín ngưỡng ở người Mông












miền núi phía Bắc
Hiện tượng người mông theo đạo tin lành và các tôn giáo mới
Indonesia: người orang rimba phải cải đạo để sinh tồn
Sự Cải đạo và những động cơ
Sự chuyển đổi tôn giáo trong người khmer ở tỉnh Trà Vinh
Châu âu: số người rời bỏ tôn giáo ngày càng đông
Why do people convert to religion?
The pysbehind religious belief.
Why do some people change religious?
High cost religion, religious Switching , and Health
Religious switching for marriage reasons.
Family Structure, Market Competition and Local Culture: The

Mechanisms of Religious mobility beyond Christianity.
 Religious conversion compared .
 Parental Divorce and Religious Involvement among Young Adults.
 Reconceptualizing Religious Change: Ethno-Apostasy and Change

in Religion Among American Jews.
 A Comparison of Self-Acceptance of Disability between Thai
Buddhists and American Christians
 Faith in Flux -changes in religious affiliation in the u.s
 Religious Beliefs, Religious Participation and Cooperation
 Personality change following religious conversion: perceptions
of converts and their close acquaintance.


 Religious Switching: Preference Development,
Maintenance, and Change.
 The Phenomenon of religious switching among
university
students: the case of nairobi and kenyatta universities,
Kenya.
Những quan điểm cá nhân được nêu trên mạng của những người chuyển đổi tôn
giáo .

Phần I : Tóm Tắt


Phần II : Lý do vì sao người ta chuyển từ tôn giáo
này sang tôn giáo khác .
PHẬT GIÁO SẼ RA SAO


TRƯỚC XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI TÔN GIÁO TRÊN THẾ
GIỚI?
Tóm tắt :
Điều làm cho tốc độ cải đạo sang Tin Lành ở châu Á không cao như ở châu

Mỹ là vì ở châu Mỹ La Tinh người ta chuyển đổi trong khuôn khổ đạo Ky tô (hay
còn gọi là đạo Cơ đốc), cùng thờ chúa trời, cùng dùng một kinh thánh
Biến đổi tôn giáo được xem là một bộ phận của biến đổi xã hội, và nó diễn ra hàng
ngày hàng giờ trên thế giới.
Bài viết dưới đây ghi nhận các hướng biến đổi các tôn giáo chính từ cái nhìn của
người theo đạo Phật, xem xét trong quan hệ với đạo Phật và thử phác thảo những xu
hướng biến đổi trong quan hệ với Phật giáo.
Có thể kể đến 3 hướng biến đổi tôn giáo chính:
1. Hướng cải đạo từ đạo Ca tô La Mã sang đạo Tin Lành. Nơi diễn ra biến đổi tôn
giáo này chủ yếu này là ở các nước châu Mỹ. Cuộc viếng thăm mới đây của Giáo hoàng
Phan Xi Cô đến Brasil được coi là để đối phó, chặn đứng hướng biến đổi này.
2. Hướng từ bỏ Cơ đốc giáo (gồm cả - Ca tô La Mã, Tin Lành và một phần Chính
thống giáo). Hướng biến đổi tôn giáo này diễn ra ở phương Tây (châu Âu, Bắc Mỹ).
3. Hướng cải đạo từ Phật giáo và các tôn giáo truyền thống sang đạo Tin Lành.
Hướng biến đổi này diễn ra chủ yếu ở châu Á.
Dưới đây, chúng ta khảo sát, tìm hiểu tập trung vào 2 hướng 2 và 3.
Hướng biến đổi tôn giáo thứ 2 thường được gọi là “dechristianiser”, tạm dịch “giải
cơ đốc giáo”.


Từ “dechristianiser” là từ mới dùng gần đây, tra trên Google không thấy. Có thể
hình dung “dechristianiser” là cảnh nhà thờ tu viện bỏ không, vắng hoe, lạnh tanh, treo
bản bán nhà. Cảnh chỉ còn những tu sĩ già nua, ốm yếu, đối mắt thất thần, tuyệt vọng.
Cảnh những cuốn Thánh kinh bụi bặm, vứt bỏ…
Linh mục Thiện Cẩm, trong Nguyệt San Công giáo và Dân tộc, số tháng 8/2013,
miêu tả như sau: “Nhưng nay thì xem ra đã hết thời tôn giáo có thể thống trị được thế
giới. Sự suy thoái của tôn giáo, nhất là ở những nước truyền thống tôn giáo như ở phương
Tây, cách riêng là tại Âu châu, như Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan… tại
những nơi này, dù không ai cấm đạo hay tích cực chống tôn giáo như thời như thời
Voltaire của thời đại mệnh danh là Ánh Sáng, hay như thời của Staline bên Liên Xô cũ,

nhưng chính những người tôn giáo lại đang thực hiện một cuộc gọi là
“dechristianiser”khử trừ Ki tô giáo, xóa bỏ mọi dấu vết của một tôn giáo đã từng thống trị
và làm nên nền văn hóa chung của Âu châu trong vòng gần hai ngàn năm” (đây là phát
biểu của linh mục nói trên trong hội thảo khoa học “Nhà nước pháp quyền và tôn giáo”).
Như thế, một khoảng trống tôn giáo đang hình thành ở châu Âu. Không gian Cơ
đốc giáo đang tan rã. Nó như rữa nát dần dần, chứ không phải biến dạng, và xu hướng đó
không thể đảo ngược được dù cố gắng cách mấy.
Một trong những cách đối phó với giải Cơ đốc giáo ở châu Âu là di tản nó, đưa nó
qua châu lục khác. Mục tiêu nhắm tới là châu Á, với hoạt động cải đạo những tôn giáo
bản địa, trước hết là Phật giáo. Người ta đã thành công ở Mông Cổ, Hàn Quốc, Trung
Quốc…, và cả Việt Nam. Cải đạo tại châu Á được tiến hành bằng tất cả phương tiện:
thuyết phục, mua chuộc, dụ dỗ. Các hoạt động cải đạo ngày càng tăng lên, không hề có
dấu hiệu giảm bớt. Trước đây, hoạt động cải đạo do những người Âu Mỹ thực hiện đối
với đối với dân bản xứ, thỉ bây giờ chuyển sang người bản xứ làm với người bản xứ.
Hoạt động cải đạo sang Tin Lành vẫn nhắm vào người theo đạo Ca tô La Mã như
ở châu Mỹ La Tinh chứ chẳng phải không. Có nghĩa là tôn giáo phương Tây, thờ cùng
một thượng đế. Điều này cho thấy hoạt động cải đạo là vô cùng khốc liệt.


Từ các ghi nhận kể trên Phật giáo còn có thể rút ra nhiều điều.
Đối với Phật giáo châu Á, cải đạo sang Tin Lành rõ ràng là mối đe dọa hàng đầu,
và thực tế đã là tác động mạnh mẽ nhất làm suy giảm tín đồ Phật giáo. Cần xác minh rõ
điều này, vì hiện nay, nhất là ở Việt Nam, còn không ít phật tử coi đạo Ca tô La Mã là
nguy cơ cải đạo chính.
Tin Lành hoạt động cải đạo mạnh mẽ ở chính những quốc gia đa số theo đạo Ca tô
La Mã như Brasil. Đạo Ca tô La Mã có tổ tổ chức chặt chẽ, chú trọng nhiều vào niềm tin,
còn tỏ ra bị động, chịu sự uy hiếp của Tin Lành, huống chi là Phật giáo, với tổ chức lỏng
lẻo, dễ dãi trong sinh hoạt tôn giáo, chú trọng thực hành hơn là niềm tin.
Giáo hội Ca tô La Mã hiện đã có kế hoạch đối phó, hết sức quan tâm đến việc cải
đạo sang Tin Lành ở châu Mỹ. Trong khi đó, mức độ quan tâm đối phó như vậy dường

như chưa có ở các giáo hội, đoàn thể, tổ chức Phật giáo châu Á. Điều làm cho tốc độ cải
đạo sang Tin Lành ở châu Á không cao như ở châu Mỹ La Tinh là vì ở châu Mỹ La Tinh
người ta chuyển đổi trong khuôn khổ đạo Ky tô (hay còn gọi là đạo Cơ đốc), cùng thờ
chúa trời, chúa Jesus, cùng dùng một kinh thánh.
Trong khi đó, ở châu Á, là chuyển đổi từ một tôn giáo hoàn toàn khác về văn hóa,
Phật giáo thường có gốc rễ truyền thống bền chắc trong các dân tộc Á Đông.
Nhưng trông cậy vào truyền thống văn hóa là việc trông cậy thụ động. Phật giáo
châu Á nên quan tâm nghiên cứu đến hoạt động để chọn lọc ra những yếu tố có ích đối
với Phật giáo.

Nói chính xác, Tin Lành không phải mất chỗ đứng trên toàn Châu Âu, mà việc cải
đạo sang Tin Lành cũng khá phát triển ở Đông Âu, là khu vực của chính thống giáo. Tin
Lành suy giảm ở Tây Âu, nhưng lại phát triển ở nhiều châu lục. Châu Phi cũng là đối
tượng của Tin Lành, nhất là châu Phi theo Ca tô La Mã.


Như vậy, biến đổi tôn giáo trên thế giới là biến đổi theo hướng Tin Lành chiếm ưu
thế, mặc dù sự gia tăng tín đồ Hồi giáo cũng đáng ghi nhận.
“Dechristianiser” tại Tây Âu và khoảng trống tôn giáo do nó tạo ra là một điều
đáng chú ý đối Phật giáo. Tây Âu là chỗ mà bên cạnh Ca tô La Mã, Tin Lành đang thoái
trào. Từ đó, cần thấy hoằng pháp bằng thiền học (không phải bằng nghi lễ du nhập từ
phương Đông) là một cơ duyên thuận lợi cho Phật giáo.
Vì vậy, Phật giáo, nên vừa chú trọng môi trường hoằng pháp ở Tây Âu, Bắc Mỹ)
nơi đang có khoảng trống tôn giáo, vừa nên quan quan tâm đối phó cải đạo ở những nước
Phật giáo truyền thống.
Linh mục Thiện Cẩm giải thích sỡ dĩ có “dechristianiser” là do người châu Âu
theo tôn giáo thờ “tiền”: “Nhưng không phải chỉ có Ki tô giáo, đặc biệt là Công giáo đang
tự mình đi xuống dốc, mà chủ nghĩa không tôn giáo hay vô thần cũng chẳng làm gì được
hơn. Có thể nói, cả hai khuynh hướng Hữu thần Vô thần đang cùng nhau lùi bước,
nhường ngôi cho một niềm tin mới vào Thần Mam môn, hay Thần Tài, hay là Thần Tiền,

mà chỉ cần là in bằng giấy cũng được, khỏi tạc, khỏi đúc hay vẽ thành ảnh, vả lại khỏi
cần đặt trên bàn thờ, mà bỏ ngay túi mà chẳng phạm tội phạm thượng, bất kính! Vấn đề
hữu thần hay vô thần chẳng còn ý nghĩa với người thời đại hôm nay, nhất là giới trẻ.
Hơn thế nữa, cả những ý thức hệ cũng không còn hấp dẫn được ai. Thần Tài đã
thực sự lên ngôi, và không có quyền lực tôn giáo hay chính trị nào có thể thắng được
quyền lực của nó.
Bây giờ tôi càng hiểu rõ tại sao đức Giesus lại quyết liệt chống đối quyền lực của
Mam môn, hay là Thần Tài, và Người đã đòi hỏi các môn đệ phải dứt khoát chọn lựa một
trong hai “ông chủ”: hoặc là Thiên Chúa, hai là Mam môn!
Điều mà tôi thực sự băn khoăn và tự hỏi, liệu thế giới chúng ta sẽ đi về đâu, khi
mà cả thế giới xem ra chẳng còn nghĩ đến chuyện gì khác, hơn là phát triển kinh tế, nghĩa
là làm giầu. Hữu thần hay vô thần không còn có ý nghĩa gì, mà hình như chỉ còn có tiền


bạc mới có ý nghĩa và được mọi người yêu mến tôn thờ, vì nó mới là cứu cánh, là mục
tiêu, là lẽ sống của con người trong Thiên niên kỷ này! ”
Tôi nghĩ là một cách chống chế. Tiền đã hớp hồn con người từ khi mới có, chứ
không phải đợi đến thế kỷ XXI. Đổ thừa tiền là tìm cách trốn tránh việc lý giải vấn đề ở
chính đạo Cơ đốc. Chính Cơ đốc giáo đã bộc lộ các nhược điểm của mình, làm các tín đồ
châu Âu mất tin tưởng, thất vọng, đi đến đào thải, vứt bỏ. Có hay không có Cơ đốc giáo
người ta vẫn xài tiền, quý tiền đó thôi.
Hơn nữa, trong thời đại mới, hậu công nghiệp, quyền lực đồng tiền đã lui bước
trước quyền lực của tri thức (xem Alvin Toffler về thuyết “làn sóng thứ ba”). Chính sự
lên ngôi của tri thức đã đánh đổ đạo Ca tô La Mã ở những châu lục mà tri thức lên đến
đỉnh cao (Tây Âu, Bắc Mỹ). Phật giáo, tôn giáo duy nhất không mâu thuẫn với tri thức
hiện đại, cần chú ý đến điểm này.
Làn sóng mới về tri thức, theo A. Toffler, sớm hay muộn gì cũng lan đến châu Á.
Mức gia tăng đạo Tin Lành ở Hàn Quốc có vẻ chững lại trong thời gian gần đây như là
một minh chứng cho việc này.
Tri thức không làm bớt đi nhu cầu tôn giáo, nhưng tri thức đòi hỏi những yêu cầu

cao hơn đối với tôn giáo. Đây là một thuận lợi hết sức cơ bản đối với Phật giáo, hứa hẹn
làn sóng thứ ba là làn sóng Phật giáo.
Tuy nhiên, điều này đòi hỏi nỗ lực của chính Phật giáo, không phải cơ hội là một
sự diễn tiến tự nhiên. Trước hết, những nhà hoằng pháp Phật giáo cần quan tâm nhiều
hơn đến biến đổi xã hội.


Sự Thay Đổi Bức Tranh Tôn Giáo Toàn Cầu
Tóm tắt :
Những đứa trẻ sinh ra từ Hồi giáo sẽ bắt đầu vượt hơn con số những ca sinh Kitô
giáo vào năm 2035; Những người không tôn giáo sẽ đối mặt với sự sụt giảm về số lượng
trẻ sơ sinh.


Số lượng trẻ được sinh ra từ những người mẹ Kitô Giáo vượt hơn bất cứ tôn giáo
nào trong những năm gần đây, đã phản ánh rằng Kitô Giáo đang tiếp tục giữ vị thế là
nhóm tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Nhưng điều này sẽ thay đổi trong tương lai không
xa. Không đến 20 năm nữa, con số trẻ mới sinh từ Hồi giáo được dự đoán sẽ cao hơn
Kitô giáo, theo một biểu đồ dự đoán mới nhất của trung tâm nghiên cứu Pew Research
Center.
Hồi giáo được dự đoán là nhóm tôn giáo lớn phát triển mạnh nhất trong những
thập kỉ tới, theo trung tâm nghiên cứu Pew, và những dấu hiệu của việc phát triển nhanh
chóng này đã trở nên rõ ràng. Trong giai đoạn từ 2010 đến 2015, các ca sinh Hồi giáo
được ước tính chiếm 31% trẻ em được sinh ra trên toàn thế giới – vượt xa tỷ lệ người Hồi
giáo ở mọi độ tuổi trên toàn thế giới trong năm 2015 (24%).


Số lượng người Kitô giáo trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng nhưng khiếm tốn hơn.
Trong những năm gần đây, trẻ em sinh từ Kitô giáo chiếm 33%. Tỷ lệ này chỉ nhỉnh hơn
một chút so với phần trăm số người Kitô giáo trên toàn thế giới năm 2015 (31%).

Trong khi con số người Kitô hữu tương đối trẻ ở một khu vực như vùng hạ Sahara
Châu Phi được dự kiến sẽ gia tăng trong những thập kỷ tới, số lượng Kitô hữu ở khắp
mọi nơi trên thế giới lại đang giảm sút. Thật vậy, trong những năm gần đây, Kitô hữu đã
chiếm tỷ lệ phần trăm lớn trong tổng số người chết trên toàn thế giới (37%) – phần lớn là
do độ tuổi của các Kitô hữu ở một số nơi tương đối cao. Điều này đặc biệt đúng ở Châu
Âu, nơi mà con số người Kitô giáo chết vượt quá số ca mới sinh trong thời gian từ 2010
đến 2015. Ví dụ, chỉ riêng ở Đức, ước tính số lượng người Kitô giáo đã chết cao hơn
khoảng 1,4 triệu người so với số ca sinh ra trong khoảng từ năm 2010 đến năm 2015 và
điều này được dự đoán là sẽ tiếp tục diễn ra trên khắp châu Âu trong những thập kỷ tới.
Lưu ý về thuật ngữ
Cụm từ “trẻ được sinh từ Kitô giáo” và “ca sinh Kitô giáo” được sử dụng cách luân
phiên trong báo cáo này để chỉ các ca sinh có mẹ là người Kitô giáo. Cũng vậy đối với các
nhóm tôn giáo khác (ví dụ: những trẻ sinh từ Hồi giáo, các ca sinh Hồi giáo).
Báo cáo này tránh thuật ngữ “các trẻ Kitô giáo” hay “trẻ em Hồi giáo” vì những từ này
có thể ám chỉ các em đã bị áp đặt tôn giáo ngay từ khi sinh.
Nhận định trong những ước tính và dự báo ở đây là các trẻ có khuynh hướng kế thừa
bản sắc tôn giáo từ mẹ (hoặc ít nhất là vậy) cho đến khi trưởng thành và một số lựa chọn
chuyển đổi bản sắc tôn giáo. Các biểu mẫu dự báo trong báo cáo này tính đến các ước lượng
về tỷ lệ chuyển đổi tôn giáo (hoặc cải đạo) trong các nhóm tôn giáo lớn dựa trên cơ sở dữ liệu
có được từ 70 quốc gia.


Trên bình diện toàn cầu, dân số tương đối trẻ và tỷ lệ sinh cao của người Hồi giáo
dẫn đến dự đoán rằng từ năm 2030 đến 2035, số trẻ sinh từ Hồi giáo sẽ là (225 triệu) cao
hơn so với Kitô giáo (224 triệu), mặc dù tổng số người Kitô giáo vẫn sẽ đông hơn. Vào
thời gian từ 2055 đến 2060, khoảng cách ca sinh giữa hai nhóm được dự kiến sẽ đạt đến
con số 6 triệu (232 triệu trẻ sinh từ Hồi giáo so với 226 triệu từ Kitô giáo). 1
Ngược lại với sự bùng nổ tỷ lệ trẻ sơ sinh của Hồi giáo, những người không theo
bất kì một tôn giáo nào đang có một xu hướng rất khác. Mặc dù số người không tôn giáo
hiện chiếm 16% dân số toàn cầu, nhưng ước tính chỉ có khoảng 10% số trẻ em sinh ra từ

các bà mẹ không tôn giáo. Sự thiếu hụt số lượng trẻ sơ sinh ở những người không tôn
giáo (bao gồm cả người vô thần, người theo thuyết bất khả tri và những người không có


một tôn giáo cụ thể) giúp giải thích lý do vì sao họ được dự đoán sẽ sụt giảm số lượng
trên toàn thế giới trong những thập niên tới.
Vào khoảng năm 2055 đến 2060, chỉ có 9% trẻ em sẽ được sinh ra bởi người mẹ
không tôn giáo, trong khi có đến hơn bảy-trên-mười trẻ sinh ra sẽ là từ Hồi giáo (36%)
hoặc (Kitô giáo 35%).
Trên đây là một trong những phát hiện quan trọng nhất từ phân tích dữ liệu nhân
khẩu học của trung tâm nghiên cứu Pew. Phân tích này được căn cứ và xây dựng trên cơ
sở dữ liệu của hơn 2,500 cuộc tổng điều tra, khảo sát và sổ đăng kí dân số được sử dụng
trong một báo cáo năm 2015 với chủ đề “Tương lai của các tôn giáo trên toàn thế giới:
Dự báo sự gia tăng dân số giai đoạn 2010 – 2050”.
Thêm vào đó, báo cáo này cung cấp những ước tính dân số thế giới mới nhất tính
đến 2015 đối với Kitô giáo, Hồi giáo, người không tôn giáo và những người thuộc các
nhóm tôn giáo khác. Và các dự báo về gia tăng dân số trong bài báo cáo này kéo dài đến
năm 2060, hơn một thập kỉ so với báo cáo ban đầu.


Các dự báo ở đây không áp đặt rằng tất cả các trẻ mới sinh đều sẽ tiếp tục theo tôn
giáo của người mẹ, nhưng còn cố gắng tính đến việc chuyển đổi tôn giáo (trong mọi
phương diện), tuy các trường hợp cải đạo luôn là đa dạng và phức tạp. Ở một số quốc gia,
bao gồm cả Hoa Kỳ, việc một người trưởng thành chuyển từ tôn giáo thời thơ ấu của
mình sang một tôn giáo khác (hoặc không tôn giáo) là rất phổ biến. Ví dụ, nhiều người
sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ là Kitô hữu có thể không còn theo Kitô giáo nữa khi trưởng
thành, và ngược lại – nhiều người lớn lên không theo bất cứ một tôn giáo nào lại gia nhập
một nhóm tôn giáo trong suốt phần đời còn lại của họ. Tuy vậy, ở một số quốc gia, những
sự thay đổi tôn giáo là thực sự hiếm thấy hay thậm chí bất hợp pháp. 2



Hiện nay, nguồn dữ liệu tốt nhất mà chúng tôi có thể tiếp cận đã chỉ ra rằng nếu
chỉ tính riêng các tác động toàn cầu của việc
chuyển đổi tôn giáo, không tính đến các yếu
tố khác, sẽ dẫn đến kết quả là số lượng
người Hồi giáo gia tăng nhẹ, số người không
tôn giáo sẽ gia tăng đáng kể và sự giảm
sút mạnh về số lượng người Kitô giáo trong
những thập niên tới. Tuy nhiên, trên bình
diện toàn cầu, tác động của việc chuyển đổi
tôn giáo không rõ nét và mạnh mẽ bằng các
tác động của sự khác biệt về mức sinh và tỷ
lệ tử vong. Kết quả là những người không
tôn giáo được dự đoán sẽ suy giảm tỷ lệ trên
tổng dân số thế giới dù vẫn có sự gia tăng từ
những người rời bỏ Kitô giáo và các nhóm
tôn giáo khác ở Châu Âu, Bắc Mỹ và một
vài nơi khác trên thế giới. Và số lượng
người Kitô hữu được dự đoán sẽ gia tăng dù
không nhanh bằng số lượng người Hồi giáo.
Dự báo dân số thế giới từ 2015 đến
2060
Kitô giáo là nhóm tôn giáo lớn nhất trên thế giới năm 2015, chiếm gần một phần
ba (31%) dân số trong 7,3 tỷ người trên trái đất. Hồi giáo đứng thứ hai, với 1,8 tỷ người,
chiếm 24% dân số toàn cầu. Kế đến là nhóm người không tôn giáo (16%), Ấn Độ giáo
(15%) và Phật giáo (7%). Những người theo các tín ngưỡng dân gian, Do Thái giáo và
một số tôn giáo khác chiếm một phần nhỏ trong tổng số người trên thế giới.


Trong khoảng thời gian từ 2015 đến

2060, dân số thế giới được dự đoán sẽ gia tăng
32%, thành 9,6 tỷ người. Trong cùng thời gian
đó, con số người Hồi giáo – nhóm tôn giáo
lớn với dân số trẻ nhất và tỷ lệ sinh cao nhất –
được dự đoán sẽ gia tăng 70%. Số lượng
người Kitô giáo được dự đoán sẽ tăng 34%,
tăng nhanh hơn các nhóm dân số khác trên
toàn cầu nhưng chậm hơn nhiều so với Hồi
giáo.
Ngoại trừ Hồi giáo và Kitô giáo, tất cả
các nhóm tôn giáo lớn trên thế giới được dự
báo sẽ chiếm phần trăm nhỏ hơn trong tổng
dân số thế giới vào năm 2060 so với năm
2015.4 Mặc dù Ấn Độ giáo, Do Thái giáo và những người theo các tín ngưỡng dân gian
được dự báo sẽ gia tăng đến một số lượng nhất định trong những thập kỉ tới, nhưng
không có nhóm nào theo kịp với đà tăng trưởng dân số toàn cầu.
Trên toàn thế giới, số lượng người Ấn Độ giáo được dự báo sẽ tăng lên 27%, từ
1,1 tỷ người lên đến 1,4 tỷ, hơi thấp hơn so với nhịp tăng trưởng dân số toàn cầu. Do Thái
giáo, nhóm tôn giáo nhỏ nhất có dự báo riêng được đưa ra, dự kiến tăng 15% từ 14,3 triệu
người năm 2015 thành 16,4 triệu người trên toàn cầu năm 2060. 5 Những người theo các
tín ngưỡng dân gian – bao gồm các tín ngưỡng truyền thống Châu Phi, tín ngưỡng dân
gian Trung Hoa, tín ngưỡng người da đỏ Châu Mỹ và thổ dân Châu Úc – được dự báo sẽ
gia tăng 5% từ 418 triệu lên 441 triệu người.
Phật giáo, ngược lại, được dự báo sẽ sụt giảm ở một con số nhất định, giảm 7% từ
gần 500 triệu vào năm 2015 còn 462 triệu người năm 2060. Tỷ lệ mức sinh thấp và sự già
hóa dân số ở các quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan và Nhật Bản là những lý do chính


mang tính nhân khẩu học đối với dự báo về sự sụt giảm của dân số Phật giáo trong những
năm tới.

Tất cả các tín ngưỡng còn lại – cũng được thể hiện trong biểu đồ hình tròn ở trên
bao gồm Baha‘I giáo,Kỳ na giáo, Sikh giáo, Lão giáo và nhiều những tín ngưỡng nhỏ
khác – cũng được dự báo sẽ giảm nhẹ về số lượng, từ khoảng 59,7 triệu năm 2015 xuống
còn 59,4 triệu vào năm 2060.6
Nhóm dân số không tôn giáo được dự đoán sẽ sụt giảm phần trăm trong tổng dân
số toàn cầu, cho dù có sự gia tăng cách khiêm tốn ở một con số nhất định. Vào năm 2015,
có gần 1,2 tỷ người vô thần, người theo thuyết bất khả tri và những người không xác định
theo một tôn giáo nào trên khắp thế giới. 7 Đến năm 2060, số dân không tôn giáo được dự
đoán sẽ đạt 1,2 tỷ người. Nhưng nếu tính tỷ lệ đối với dân số toàn cầu, những người
không tôn giáo được dự báo sẽ giảm từ 16% trên tổng dân số thế giới năm 2015 xuống
còn 13% vào năm 2060. Trong khi tỷ lệ dân số không tôn giáo ở Châu Âu và Bắc Mỹ
được dự đoán sẽ tiếp tục gia tăng thì ở Châu Á – nơi có tới 75% người không tôn giáo
đang sinh sống được dự đoán là sẽ sụt giảm.
Những sự khác biệt về địa lý như trên đây đóng một vai trò quan trọng trong các
mô hình phát triển tôn giáo. Thật vậy, một trong những yếu tố chính quyết định tương lai
phát triển của một nhóm tôn giáo chính là vị trí địa lý của nhóm đó ở thời điểm hiện tại.
Ví dụ, nhóm dân số không tôn giáo tập trung chủ yếu ở những nơi có dân số già và mức
sinh thấp như Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu và Bắc Mỹ. Ngược lại, các nhóm tôn giáo
có nhiều tín đồ tập trung ở các nước đang phát triển – nơi tỷ lệ sinh cao và tỷ lệ trẻ sơ
sinh tử vong nhìn chung đang giảm – thì có khuynh hướng gia tăng cách nhanh chóng.
Điển hình như phần lớn sự gia tăng toàn cầu của Hồi giáo và Kitô giáo được dự đoán sẽ
diễn ra ở khu vực cận Sahara thuộc Châu Phi.



Sự thay đổi về mật độ phân bố của các nhóm tôn giáo
Sự phân bố theo khu vực của các nhóm tôn giáo cũng được dự báo sẽ thay đổi
trong những thập niên tới. Ví dụ, tỷ lệ người Kitô giáo sống ở cận Sahara Châu Phi được



dự đoán sẽ gia tăng mạnh mẽ trong khoảng thời gian từ 2015 đến 2060, từ 26% lên 42%,
nhờ vào tỷ lệ sinh cao ở khu vực này. Trong khi đó, tỷ lệ người chuyển đổi tôn giáo tăng
và mức sinh thấp sẽ kéo giảm tỷ lệ người Kitô giáo sống ở khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ
trên tổng dân số Kitô giáo toàn cầu.
Vùng cận Sahara Châu Phi cũng được dự đoán sẽ là trung tâm của sự gia tăng tỷ lệ
người Hồi giáo trên thế giới. Vào năm 2060, 27% dân số Hồi giáo toàn cầu được dự đoán
sẽ đến từ khu vực này, từ chỉ có 16% ở thời điểm năm 2015. Ngược lại, tỷ lệ người Hồi
giáo sống ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong cùng khoảng thời gian này được
dự đoán sẽ giảm từ 61% xuống còn 50%. Tỷ lệ người Hồi giáo ở Trung Đông và Bắc Phi
được dự đoán sẽ duy trì ở mức 20%.
Vào năm 2015, cứ 4 người không tôn giáo thì có 3 người sống ở Châu Á và khu
vực Thái Bình Dương. Nhưng tỷ lệ đó được dự đoán sẽ giảm xuống còn 66% vào năm
2060 vì mức sinh thấp và dân số đang bị già hóa. Đồng thời, tỷ lệ người không tôn giáo
sinh sống ngoài khu vực Châu Á– Thái Bình Dương đang gia tăng, đặc biệt là ở khu vực
Châu Âu và Bắc Mỹ. Theo dự báo, đến năm 2060, chỉ riêng Hoa Kỳ sẽ chiếm đến 9%
người không tôn giáo trên toàn cầu.
Một số lượng đông đảo những người theo Ấn Độ giáo và Phật giáo (98-99%) sẽ
tiếp tục sống ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong nhiều thập niên tới. Hầu hết
những người theo các tín ngưỡng dân gian cũng sẽ ở tại khu vực Châu Á và Thái Bình
Dương (khoảng 79% vào năm 2060), dù một bộ phận được dự đoán là đang gia tăng của
nhóm này sống ở khu vực cận Sahara Châu Phi (từ 7% năm 2015 lên đến 16% năm
2060). Tỷ lệ người Do Thái giáo sống ở Israel (42%) gần như cân bằng với ở Hoa Kỳ
(40%). Tuy nhiên, vào khoảng năm 2060, hơn một nửa số người theo Do Thái giáo (53%)
được dự đoán sẽ sống ở Israel, trong khi ở Hoa Kỳ sẽ chiếm một phần nhỏ hơn (32%).


Độ tuổi và mức sinh là các yếu tố chính đằng sau sự phát triển của các nhóm tôn
giáo
Sự phân bố theo độ tuổi của mỗi nhóm tôn giáo ở thời điểm hiện tại là một yếu tố
quan trọng quyết định sự phát triển nhân khẩu của nhóm đó. Một số nhóm có tín đồ chủ

yếu là trẻ đang ở độ tuổi sinh sản, trong khi tín đồ của một số nhóm khác có độ tuổi lớn
hơn và hầu hết là đã qua độ tuổi sinh sản. Độ tuổi trung bình của người theo Hồi giáo (24
tuổi) và Ấn Độ giáo (27 tuổi) trẻ hơn độ tuổi trung bình của toàn thể dân số thế giới (30
tuổi). Trong khi độ tuổi trung bình của người Kitô giáo (30 tuổi) vừa bằng với độ tuổi
trung bình của dân số trên toàn cầu.8


Hơn nữa, Hồi giáo có tỷ lệ sinh cao nhất so với bất kì nhóm tôn giáo nào khác –
trung bình 2,9 trẻ trên một phụ nữ, cao hơn hẳn mức sinh thay thế (2,1), mức tối thiểu cần
thiết để duy trì một dân số ổn định. 9 Kitô giáo đứng thứ hai với mức 2.6 trẻ trên một phụ
nữ. Tỷ lệ sinh của người theo Ấn Độ giáo và Do Thái giáo (2,3) đều ở dưới mức trung
bình trên toàn cầu là 2,4 trẻ trên một phụ nữ. Tất cả các nhóm tôn giáo còn lại đều có tỷ
lệ sinh quá thấp để có thể duy trì dân số của họ cách bền vững.


Ngoài tỷ lệ sinh và sự phân bố về độ tuổi, việc chuyển đổi tôn giáo cũng đóng một
vai trò trong sự thay đổi quy mô của các nhóm tôn giáo.
Các dự báo của trung tâm nghiên cứu Pew đã cố gắng kết hợp các mô hình chuyển
đổi tôn giáo ở hơn 70 quốc gia có cung cấp thông tin về số lượng những người cho biết
họ không còn thuộc về nhóm tôn giáo mà họ đã theo. 10Trong biểu đồ dự báo, tất cả những
trường hợp chuyển hướng sang tôn giáo khác đều có thể xảy ra và các tôn giáo có thể bổ
sung phần nào số lượng cho nhau. Điển hình như tại Hoa Kỳ, các cuộc khảo sát đã chỉ ra
rằng những trường hợp người Kitô hữu trưởng thành và trở thành người không tôn giáo là
tương đối phổ biến, nhưng ngược lại cũng có một số người không tôn giáo chuyển đổi
thành Kitô giáo.11 Các trường hợp này được dự đoán sẽ tiếp tục xảy ra với các thế hệ
tương lai khi chúng bước vào độ tuổi trưởng thành. (Để biết thêm chi tiết về cách thức và
nơi thực hiện nghiên cứu về những sự chuyển đổi tôn giáo này, xem thêm Phụ lục B:
Phương pháp)



×