Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Học kỳ LSNNPL chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.15 KB, 7 trang )

A. MỞ ĐẦU
Dưới thời kỳ phong kiến, nước Việt Nam ta chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư
tưởng độc tôn Nho giáo. Bên cạnh những giá trị đạo đức tốt đẹp mà nó đem lại,
Nho giáo cũng áp đặt một số tư tưởng hạn chế vào tư tưởng của nhân dân ta như
quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Cũng xuất phát từ đó cùng với việc đề cao chữ
“hiếu” trong cuộc sống thường nhật mà những quy định về hôn nhân trong pháp
luật phong kiến có phần bất bình đẳng và không tự do. Trải qua hàng thế kỉ, cho
đến bây giờ, những tư tưởng đó ít vẫn còn ảnh hưởng trong những bộ phận dân cư
nhất định. Với ý nghĩa lịch sử như trên, qua quá trình nghiên cứu, học tập, bài viết
sau trình bày nội dung đề tài: “Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật
phong kiến Việt Nam”.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Theo ý nghĩa thông thường, hôn nhân được hiểu là sự đồng ý của cả hai
người nam và nữ về việc họ về ở chung với nhau, cùng nhau sống chung 1 mái nhà
dựa trên trên nền tảng tình yêu nhằm mưu cầu hạnh phúc cho bản thân mình.
Tuy nhiên, dưới thời kì phong kiến hôn nhân được hiểu là sự tương hợp,
giao hợp giữa hai dòng họ nhằm mục đích trên là để thờ phụng tổ tiên (trong quá
khứ) và dưới là để kế truyền dòng họ ( trong tương lai). Như vậy, thông qua mục
đích của việc hôn nhân, ta đã hiểu được phần nào tính không tự do thể hiện trong
chế độ hôn nhân trong chế độ phong kiến.
Chế độ hôn nhân trong thời kì phong kiến là sự thể chế hóa chế độ hôn nhân
theo lễ nghi nho giáo ( là kinh thứ 3 trong 5 kinh của lễ nghi Nho giáo).
II. Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt Nam
1. Cơ sở pháp lí của nguyên tắc không tự do trong hôn nhân
Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến được đề cập trong 2
loại văn bản là văn bản pháp luật đã được pháp điển hóa và văn bản pháp luật đơn
hành.
Đối với lạo văn bản đã được pháp điển hóa, chế đọ hôn nhân chủ yếu được quy
định trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ ( luật Gia Long). Trong
1




Quốc triều hình luật, các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực hôn nhân và gia
đình chiếm 70 điều. Quyển thứ 7 của Hoàng Việt luật lệ cũng có rất nhiều luật lệ
quy định về “hộ luật hôn nhân”. Các điều lệ này chủ yếu quy định về các vấn đề
như: các trường hợp cấm kết hôn, điều kiện kết hôn, hình thức và nghi lễ kết hôn,
quan hệ nhân thân giưa vợ và chồng, các hình thức chấm dứt kết hôn…cùng với
các hình phạt đi kèm nếu phạm phải.
Ngoài ra, chế độ hôn nhân còn được quy định trong các văn bản đơn hành như :
“Hồng Đức thiện chính thư”, “Thiên Nam dư hạ tập”, “Lê triều hội điển”, “thiên
Nam dư hạ tập”, “Lê triều chính lệnh thiện chí”… Hoặc được ghi rải rác trong các
cuốn sử biên niên như: “Đại Việt sử kí toàn thư”, “Đại Việt thông sử”, “Lịch triều
tạp kỷ”..
2. Chế độ hôn nhân không tự do
Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến thể hiện ở cả 3 góc độ
từ điều kiện thiết lập hôn nhân đến quá trình chung sống (tức quan hệ nhân thân
giữa vợ chồng) và cuối cùng là chấm dứt kết hôn.
a. Điều kiện kết hôn
Chế độ hôn nhân không tự do trong việc thiết lập quan hệ vợ chồng được thể
hiện như sau:
*

Kết hôn có sự đồng ý của cha mẹ:
Điều 314 Quốc triều hình luật quy định “phàm kết hôn không đem sính lễ đến

nhà cha mẹ ( nếu cha mẹ chết cả thì đem đến nhà trưởng họ hay hương chính) để
xin, vợ chồng mà ăn ở với nhau cẩu thả thì phả tội biếm một tư và theo lệ sang hèn
phải nộp tiền tạ cho cha mẹ (nếu cha mẹ chết thì nộp cho trưởng họ hay hương
chính), người con gái phải phạt 50 roi”. Như vậy việc kết hôn nhất thiết phải có sự
đồng ý của cha mẹ hay thân thuộc hai bên. Sự đồng ý của cha mẹ hay thân thuộc

bề trên thể hiện ở việc trao nhận sính lễ, là người ở vị trí chủ hôn trong tất cả các
nghi thức kết hôn… Có thể xem đây là điều kiện kết kết hôn cơ bản và tuyệt đối
của cuộc hôn nhân trong khi sự ưng thuận và ý nguyện của hai bên đương sự nam
nữ tham gia kết hôn không được đề cập như một điều kiện thiết yếu. Người con
trai và người con gái không có quyền tự do tự quyết định người vợ hoặc người
2


chồng cho mình mà phải chấp nhận sự sắp đặtcủa dòng họ, của cha mẹ hai bên mà
người xưa đã vốn có câu “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Điều kiện này xuất phát
từ chính mục đích của cuộc hôn nhân trong thời kì phong kiến, đó là phục vụ
quyền lợi của dòng tộc, gia đình, để thờ cúng tổ tiên, kế tục dòng dõi.
*

Các trường hợp cấm kết hôn
Dưới thời kỳ phong kiến không được tự do kết hôn theo ý muốn của mình,

ngoài việc phải kết hôn theo ý muốn của cha mẹ, nếu rơi vào những trường hợp
sau việc kết hôn cũng là không thể:
- Điều 319 Hoàng Việt luật lệ quy định: “Người vô loại lấy cô, dì, chị, em gái,
kế nữ(con gái riêng của vợ),người thân thích, đều phỏng theo “luật dân gian”, mà
trị tội”. Như vậy, luật cấm những người cùng một dòng hộ, cùng thờ cúng một ông
tổ, dù là quan hệ huyết thống xa hay gần, kể cả những nhười đã ngoài phạm vi để
tang đều không được kết hôn với nhau.
- Cấm kết hôn khi đang có tang nghiêm cấm việc kết hôn khi đang có tang
cha, mẹ hoặc tang chồng. (điều 317- Quốc triều hình luật). Quy định này cốt là để
đề cao chữ “hiếu” của con cái đối với cha mẹ và chữ “tiết” của vợ đối với chồng.
- Cấm kết hôn khi ông bà cha mẹ đang bị giam cầm tù tội. Điều này cũng
nhằm đề cao đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ.
- Cấm anh lấy vợ góa của em, em lấy vợ góa của anh, trò lấy vợ góa của

thầy.(Điều 324- Quốc Triều hình luật). Điều này nhằm bảo vệ đạo anh em, nghĩa
thầy trò theo tư tưởng Nho giáo.
- Cấm quan lại lấy con gián ở địa phương mà minh đương chức (điều 316).
Điều này ngăn ngừa sự lạm dụng quyền thế để cưỡng hôn.
- Cấm con của quan trấn giữ biên ải kết hôn với con của tù trưởng địa
phương (điều 334). Điều này nhằm ngăn ngừa sự cấu kết giữa quan trấn thủ và tù
trưởng địa phương để gây uy thế, phản loạn.
- Cấm các quan, thuộc lại và cháu các quan kết hôn với đàn bà con gái làm
nghề hát xướng, các trường hợp đã kết hôn đều phảo li dị (điều 323) vì việc kết
hôn đó có thể gây ảnh hưởng tới vương quyền của các quan lại.
- Cấm nhà quyền thế ức hiếp để lấy con gái kẻ thương dân (điều 338).
3


- Đàn bà con gái có tội đang trốn tránh thì không được kết hôn (Điều 339).
- ĐIều 309- Luật Hồng Đức cũng quy định: “ Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì
bị xử tội phạt”. Như vậy có nghĩa là. Những nô tỳ, người hầu địa vị thấp trong xã
hội cũng không được phép kết hôn. Điều này nhằm củng cố trật tự đẳng cấp trong
xã hội phong kiến lúc bấy giờ.
Như vậy, dưới chế độ phong kiến, với những điều kiện kết hôn hết sức ngặt
nghèo như vậy, con người dường như mất quyền tự do lựa chọn vị hôn phu, thê tử
cho mình hay chính mất tự do trong việc lựa chọn tương lai, hạnh phúc của mình,
b. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
Trong quan hệ nhân thân tính không tự do được thể hiện ở chỗ:
- Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải thực hiện đầy đủ quan hệ vợ
chồng. Điều 321 Quốc Triều hình luật quy định “Vợ cả, vợ lẽ tự tiện bỏ nhà đi, thì
xử tội đồ làm xuy thất tỳ, đi rồi mà lấy chồng khác thì phải đồ làm thung thất tuỳ,
người và gia sản phải trả về nhà chồng…”. Theo tinh thần của điều luật này, người
vợ phải có nghĩa vụ về ở với nhà chồng tại địa điểm do cha mẹ chồng và người
chồng lựa chon. Người vợ không được tự tiện bỏ nhà chồng ra đi bất kì vì lí do gì

dù là bị ngược đãi, và nếu hành động đó xẩy ra, sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Như
vậy, điều này đã hạn chế phần nào tính tự do trong quan hệ hôn nhân.
- Trong pháp luật phong kiến còn quy định về sự “qua lại” giữa vợ và chồng.
Người chồng hoặc người vợ sẽ phạm tội khi trong khoảng thời gian pháp luật quy
định mà không quan hệ vợ chồng với người còn lại. Đay cũng là một điểm thể hiện
tính không tự do trong chế độ hôn nhân thời kì phong kiến.
c. Chấm dứt kết hôn (ly hôn)
Hoàng Việt luật lệ ghi nhận 3 loại nguyên cớ kết hôn: Do vi phạm những
điều luật cấm kết hôn hoặc trường hợp kết hôn bị lừa dối, nhầm lẫn; do một người
bị chết và do ly hôn và một số trường hợp do luật định. Dưới thời kì phong kiến,
người vợ và người chồng không được tự ý ly hôn theo ý muốn chủ quan của mình;
mà khi phạm phải những điều cấm do pháp luật quy định, thì dù có còn muốn
chung sống cùng nhau cũng đều phải bắt buộc ly hôn. Cụ thể như sau:

4


- Do lỗi của người vợ: Khi vợ bỏ trốn khỏi nhà chồng hoặc thông gian, mưu
sát chồng, đánh chửi cha mẹ chồng, đánh chồng thương tàn tật thì bất luận người
chồng và người vợ muốn ly hôn hay không thì đều bắt buộc phải ly hôn. Nếu
không ly hôn sẽ là phạm pháp. Tính không tự do trong hôn nhân được thể hiện rõ
trong điều này.
- Do lỗi của người chồng: khi chồng bán vợ làm nô lệ, ép vợ thông gian, gả
bán vợ làm thê thiếp cho người khác, cho thuê hay cấm vợ, dung vợ để lừa gạt lừa
tiền bạc, danh vợ thương tàn tật, bỏ vợ đi biệt xứ 3 năm. Những trường hợp người
chồng phạm phải những lỗi trên, cho dù người vợ chấp nhận tha thứ thì cũng đều
phải ly hôn theo luật định.
Bên cạnh đó, tính không tự do trong hôn nhân còn được thể hiện trong cả
giai đoạn đã ly hôn, điển hình như theo quy định trong cuốn Hoàng Việt luật lệ,
trường hợp ly hôn do người vợ có lỗi thì người vợ mất mọi quyền về nhân thân và

tài sản.
- Quốc Triều hình luật cũng quy định 7 trường hợp bắt buộc chồng phải ly
hôn vợ thể hiện rất rõ tính không tự do, cụ thể là:
+ Không con, không con là bất hiếu với cha mẹ nên vì thế phải bỏ vợ.
+ Ghen tuông, không bỏ vợ thì bại hoại gia đình.
+ Ác tật (bị bênh phong, hủi) vì vậy khi có việc cúng giỗ, người vợ không
làm được cỗ để cúng tế.
+ Dâm đãng, không bỏ vợ thì bại hoại gia đình.
+ Không kính cha mẹ..
+ Lắm lời, nên làm cho anh chị em trong gia đình không hòa thuận
+ Trộm cắp, không bỏ vợ thì vạ lây đến nhà chồng.
Tất cả những yếu tố trên đã thiết lập một chế đọ hôn nhân không tự do trong
Nhà nước phong kiến ở Việt Nam lúc bấy giờ.
C. KẾT LUẬN
Qua việc phân tích, tìm hiểu nêu trên, ta thấy được phần nào những quy tắc,
điều lệ khắt khe của chế độ hôn nhân thời kỳ phong kiến, đó là một chế độ hôn
nhân không tự do, ở đó con người không có quyền tự ý lựa chọn vợ hoặc chồng
cho mình. Từ đó, ta càng thêm trân trọng xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội
công bằng, tự do.
5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình “ Lich sư Nhà Nước và pháp luật
Việt Nam”, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, năm 2010.
2. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện Nhà nước và pháp
luật, “Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỉ XV-XVIII”.
3. Quốc triều hình luật.
4. Hoàng Việt luật lệ.


MỤC LỤC
A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Khái quát chung về chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến

Trang
1
1
1

Việt Nam
II. Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt
6

1


Nam
1.
Cơ sở pháp lí của nguyên tắc không tự do trong hôn nhân
2. Chế độ hôn nhân không tự do
a. Điều kiện kết hôn
b.
Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
c. Chấm dứt kết hôn (ly hôn)
C. Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

7


1
2
2
4
4
5
6



×