Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.93 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Bác Hồ, hai chữ thiêng liêng đó đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt
Nam. Người là một vị lãnh tụ vĩ đại, một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh
nhân văn hoá thế giới. Cuộc đời của Người là một tấm gương sáng về nhân cách
cao cả, lòng yêu nước, đạo đức cách mạng... Vì thế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở
thành tư tưởng cốt lõi cho Đảng và dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: “ Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi
trên nền nhân dân”. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân là quan điểm xuyên suốt, cơ bản, bao trùm toàn bộ quá trình phát triển của dân
tộc ta. Chính vì thế, em xin chọn đề tài: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân” làm bài tập lớn học kỳ.
NỘI DUNG
I. Cơ sở hình thành
1. Cơ sở lí luận
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tích lũy
được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước được phản ánh trong các
bộ sử lớn của dân tộc như: “Đại Việt sử kí toàn thư” (Ngô Sĩ Liên), “Lịch triều hiến
chương loạn chí” (Phan Huy Chú) Kinh nghiệm trị nước cũng được ghi lại trong các
bộ luật nổi tiếng như: “Hình thư”, “Quốc triều hình luật”, “bộ luật Hồng Đức”
những yếu tố tích cực của nhà nước thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử dân
tộc “nước lấy dân làm gốc”, “tiếp thu nho giáo” là những hành trang đầu tiên Hồ
Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình nhà nước
tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc lập dân tộc.
2. Cơ sở thực tiễn
Từ truyền thống yêu nước: Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị
Vec-sai “ Bản yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho
dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền
1



tự quyết của dân tộc với quyền tự do dân chủ của nhân dân, kết hợp chặt chẽ giữa
quyền của dân tộc với quyền con người.
Nghiên cứu nhiều mô hình nhà nước trên thế giới: Trên hành trình cứu nước
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều kiểu Nhà nước trong đó có nhà nước tư sản Pháp,
Mỹ. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mĩ về “quyền bình đẳng, quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” đó chính là sự bất bình đẳng,
nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất công khác. Người cho
đó là các “cuộc cách mạng không đến nơi” vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một
số ít người mà không thuộc về toàn thể nhân dân.
Từ thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga và chủ nghĩa Mác- Lênin: Cách
mạng tháng 10 Nga thắng lợi và kết quả là sự ra đời của Nhà nước Liên Xô, Liên
Xô đã có những chính sách như “phát ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ
thuyền, , ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” và
đặc biệt là sự tiếp thu Chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây là những gợi ý cho Hồ Chí Minh
về việc xây dựng một nhà nước thực sự của nhân dân lao động sau khi cách mạng
thắng lợi tại Việt Nam. Ban đầu, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một Nhà nước
công nông binh thể hiện trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” khi thành lập Đảng
đầu năm 1930. Trải qua thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam về sau Hồ Chí
Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam một Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, một nhà
nước do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân và vì dân.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
1. Quan điểm về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán và xuyên suốt về xây dựng Nhà nước
mới ở Việt Nam là một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đó là nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
a) Nhà nước của dân
Nhà nước của dân là nhà nước được nhân dân ủy quyền cho các đại diện do
mình bầu ra, đồng thời nhân dân có quyền bãi miễn những đại diện nào tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm nữa. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 nói rõ: “…Tất cả

2


quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân…” và Điều 32 ghi: “Những việc
quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết…”. Trong nhà nước
của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có
quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp
luật – chính điều này đã tạo ra môi trường cho những hoạt động sáng tạo của người
lao động. Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực
thi quyền làm chủ của người dân. Theo ý nghĩa đó, những người đại diện của dân,
do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của nhân dân , chỉ là “công bộc” của dân theo ý
nghĩa đúng đắn của từ này. Song, có những “vị địa diện” lại nhầm lẫn sự ủy quyền
đó với quyền lực cá nhân nên sinh ra lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền,…
b) Nhà nước do dân
Nhà nước do dân là nhà nước bao gồm những người do nhân dân lựa chọn,
bầu ra để đại diện cho quyền lợi của mình. Do vậy, nhà nước đó luôn được nhân dân
ủng hộ, giúp đỡ và đóng góp, chủ yếu là đóng thuế, để nhà nước có điều kiện thực
hiện những hoạt động của mình; nhà nước đó cũng do nhân dân phê bình, xây dựng
và kiểm soát làm cho các thành viên của nhà nước luôn ý thức rõ trách nhiệm đại
diện của mình trước nhân dân. Có như vậy, nhà nước mới trở nên trong sạch, vững
mạnh và hoạt động có hiệu quả.
c) Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng
và kiểm soát trên thực tế. Nhà nước đó luôn phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của
nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Trong nhà nước đó, cán bộ là công bộc của dân, nên việc gì có lợi cho dân dù nhỏ
mấy cũng phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ mấy cũng phải hết sức
tránh, Và, cán bộ phải là những nguwoif biết đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi
cho dân. Quan điểm về nhà nước vì dân của Hồ Chí Minh đã vượt lên trên những
chủ trương thân dân của các nhà nước thống trị khi còn đang trong giai đoạn tiến bộ

nhất của nó. Thuật ngữ “công bộc” có nghĩa là người đảm trách công việc chung
của xã hội phục vụ nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, dân làm chủ thì cán bộ làm “công
3


bộc” cho dân, với nghĩa vừa là người lãnh đạo vừa là người dày tớ của nhân dân
chứ không phải làm quan cách mạng. Người cán bộ,đảng viên của Đảng phải có đủ
cả đức và tài, hồng và chuyên.
2. Quan điểm về dự thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân và tính
dân tộc của nhà nước
Nhà nước ta là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị. Nó mang bản
chất giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhà nước của ta là Nhà nước
dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân
lãnh đạo”. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta được biểu hiện ở:
Thứ nhất, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo nhà
nước bằng việc đề ra những chủ trương, đường lối và thể chế hóa những quan điểm,
đường lối đó thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của Nhà nước, chứ không bao
biện làm thay.
Thứ hai, tính định hướng đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,bằng
cách cải tạo nền kinh tế cũ và phát triển nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có công,
nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến.
Thứ ba, nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ, nghĩa là
phát huy dân chủ đến cao độ và tập trung cũng phải đến cao độ để thống nhất lãnh
đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, dân chủ cũng cần phải có chuyên chính, chế độ nào cũng có chuyên
chính, vấn đề là ai chuyên chính với ai.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta không làm triệt tiêu tính nhân
dân, tính dân tộc của Nhà nước, trái lại nó thống nhất, hài hòa trong nhà nước đại
đoàn kết dân tộc. Sự thống nhất đó thể hiện: Một là, Nhà nước ta ra đời là kết quả
của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hi sinh xương máu của bao thế hệ cách

mạng, từ các phong trào văn thân, cần vương,… Đến Cách mạng Tháng Tám; Hai
là vì nó bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm nền tảng. Chính
phủ lâm thời là chính phủ đại đoàn kết dân tộc, chính phủ thống nhất quốc gia. Việc
nhường 70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho các tổ chức chính trị và các đảng
4


phái khác là việc làm chững tỏ thiện chí trong sự thống nhất trên. Mặt khác, Hồ Chí
Minh còn dung nạp nhiều nhân sĩ trí thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ tham gia
chính phủ. Khi một số đại biểu của các đảng phái trốn ra nước ngoài, Người được
Quốc hội ủy nhiệm thành lập Chính phủ mới, theo đó Chính phủ mới phải tỏ roc
tinh thần đại đoàn kết,… ; Ba là, Nhà nước đảm đương ngay nhiệm vụ lịch sử là tổ
chức cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả cách
mạng.
Nhờ phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc mà Nhà nước do
Hồ Chí Minh đứng đầu đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình là lãnh đạo cả dân
tộc tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến vĩ đại và bắt tay vào xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm về nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến. Chính vì vậy, sau khi giành
chính quyền, ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra Nhà nước Việt Nam mới – Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong phiên họp
đầu tiên của Chính phủ, ngày 3/9/1945, Người đề nghị tổ chức càng sớm càng tốt
một cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc đã được tổ chức và thành
công tốt đẹp. Một chính phủ hợp hiến của Việt Nam đã ra mắt toàn thể quốc dân
đồng bào và nhân dân thế giới.
Một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là nhà nước quản lý
đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế. Dân chủ
và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau. Điều đó được thể hiện: Trước hết, ở sự

khẳng định về vai trò của pháp luật đối với việc quản lý nhà nước và xã hội. Trong
bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm, Người đòi thực dân Pháp phải cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế
bằng các đạo luật, còn trong Việt Nam yêu cầu ca, Người khẳng định rằng “Trăm
điều phải có thần linh pháp quyền”; Thứ hai, trong các Hiến pháp năm 1946, 1959
và các đạo luật, sắc lệnh khác mà Người ký ban hành đã thể hiện vai trò to lớn của
5


Người trong việc thực hiện lập hiến và lập pháp; Thứ ba, trong việc chăm lo hoàn
thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật, đồng thời cũng quan tâm đến việc đưa pháp
luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm
tra, giám sát việc thi hành đó; Thứ tư, ở sự khẳng định không thể có dân chủ ngoài
pháp luật, còn pháp luật là bà đỡ của dân chủ (Mọi quyền dân chủ của người dân
phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật
phải bảo đảm cho quyền tự do dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế).
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình,
giám sát công việc của Chính phủ.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh
đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán
bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp
vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà nước. Nên, một mặt, Người mạnh dạn sử
dụng những viên chức cũ, mặt khác, đăng báo “tìm người tài đức” để gánh vác việc
nước. Công chức và viên chức là những cán bộ không thuộc các cơ quan dân cử, mà
được bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính thông qua một kỳ thi tuyển với 6 môn thi
là: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử, ngoại ngữ. Trong việc dùng cán bộ,
Người quan tâm trước hết là phẩm chất đạo đức, tinh thần phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quốc và phải tẩy sạch óc bè phái.
4. Quan điểm về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả

a) Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực khác
nhau, nhưng lại kết hợp và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước. Không nên và
không bao giờ được tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào. Song,
trong điều kiện nhất định có thể và cần phải nhấn mạnh vai trò của yếu tố này,
nhưng không được bỏ qua hay xem nhẹ yếu tố kia và ngược lại. Từ kinh nghiệm
lịch sư cho thấy: Nho giáo lấy đạo nhân làm gốc, nhưng không hề loại bỏ hình phạt;
6


pháp trị lấy pháp luật làm yếu tố quyết định, nhưng cũng không bỏ qua tấm gương
của các ông vu sáng, chúa minh, quan đức độ và người hiền tài.
Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật
trong suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu nhà nước. Người vừa chú trọng giáo dục
đạo đức vừa không ngừng nâng cao vai trò và sức mạnh của pháp luật. Trong sự kết
hợp ấy, trước hết, theo Người đạo đức cao nhất là “Hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Hai là,
trong quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, thì pháp luật bao giờ cũng là một biện
pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó và biến nó thành thói quen.
Chuẩn mực đạo đức càng khó bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng
bấy nhiêu. Ba là, trong việc thi hành pháp luật, cái khó nhất là phải bảo đảm được
tính vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng đối với mọi công dân trước pháp luật.
Người hành pháp phải “thiết diện vô tư”, nghĩa là phải kiên quyết, cứng rắn nhưng
không thiên tư, thiên vị. Bốn là, đối với những kẻ bất lương, nhận hối lộ, tham
nhũng,… thì phải dùng pháp luật mà trị cho kỳ hết.
b) Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu
Sức mạnh và hiệu quả của Nhà nước là phải dựa vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm
quyền. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, yêu cầu cấp bách hiện nay là “cán bộ phải thực
hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho nhân dân”; phải tích cực đấu tranh

chống các tệ nạn tham nhũng, tham ô, lãng phí, quan liêu, thoái hóa, biến chất của
một bộ phận cán bộ có chức, có quyền. Chính bộ phận cán bộ ấy đang làm hoen ố
hình ảnh “Chính phủ Cụ Hồ”, làm suy yếu sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước, và
đang phá hoại niềm tin trong nhân dân.
Ngay từ khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cần
phải kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là thâm ô, lãng phí, quan liêu, nếu
không sẽ dẫn đến hậu họa thật khó lường. Theo Người, những tội lỗi ấy cũng nặng
như tội lỗi Việt gian, mật thám và việc đấu tranh chống những tội lỗi ấy cũng cần
kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Người viết: :Tham ô, lãng phí và bệnh quan
7


liêu, dù cố hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến,… Nó
làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức
cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính… Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt
gian, mật thám và “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên
chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
Nguyên nhân của các tội lỗi trên có rất nhiều, như: do cơ chế quản lý lỏng
lẻo, sơ hở về chính sách, pháp luật, thiếu nghiêm minh trong thực thi pháp luật, do
giáo dục còn yếu kém, nạn phe phái, ô dù bao che cho nhau… Song có nguyên nhân
quan trọng không thể bỏ qua là bệnh quan liêu. Đó là thứ bệnh giấy tờ, không sát
công việc thực tế, không gần quần chúng, coi trọng hình thức và phiếm diện, không
kiểm tra đến nơi, đến chốn, không thấy suốt, không nghe thấu, không giữ đúng chế
độ, không nắm vững kỷ luật,… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở
cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn tẩy trừ nạn tham ô, lãng phí thì phải tẩy
sạch bệnh quan liêu.
Về tác hại nghiêm trọng của bệnh quan liêu, C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng
cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các Đảng Cộng sản
cầm quyền đến chỗ đánh mất một lần nữa chính quyền vừa giành được và đi vào
con đường tiêu vong như đã từng xảy ra đối với mọi loại hình nhà nước từng xuất

hiện từ trước đến nay. Còn V.I.lênin viết: “…chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ
quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ
làm tiêu vong chúng thì chính là cái đó”.
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy những quan điểm tư tưởng của Người sẽ mãi là những
kho báu vô giá. Đặc biệt trong thời đại hiện nay khi mà Nhà nước chúng ta đang cố
gắng nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân thì những quan
điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân càng trở nên quý
báu và cần thiết hơn bao giờ hết.

8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, 2005.
2. Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh (Hỏi – đáp), Nxb Giáo dục, 2004.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận thức cơ bản (sách tham khảo), TS Nguyễn
Mạnh Tường, Nxb Chính trị quốc gia – 2009.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân- PGS. Nguyễn Đình
Lộc- Nxb. Chính trị Quốc Gia.
5. Viện nghiên cứu khoa học pháp lí Bộ tư pháp, Chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân, Thông tin khoa học pháp lí, tháng
11/1993;

9


MỤC LỤC
M


10


11



×