Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán phân loại, nguyên nhân và các quy định pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.14 KB, 18 trang )

ĐỀ BÀI
Rủi ro trong kinh doanh chứng khoán: phân loại, nguyên nhân và
các quy định pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro.

1


MỤC LỤC

A/Lời mở đầu………………………………………………………………
B/Nội dung…………………………………………………………………
1/Khái quát chung về rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán….
2/Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán…………….
3/Nguyên nhân của rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán……
4/Các quy định của pháp luật về hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong

trang
2
2
2
4
5

hoạt động kinh doanh chứng khoán………………………………………...
5/Những vấn đề trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về

8

hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán……..
6/Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hạn chế và phòng ngừa


14

rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán……………………………
C/Kết luận………………………………………………………………….
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………..

16
16
17

A/LỜI MỞ ĐẦU
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động thương mại đặc biệt, diễn ra trên
một thị trường đặc biệt – thị trường mua bán, chuyển dịch quyền sở hữu các loại
2


chứng khoán và tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp, từ đó có những tác động đến nền kinh tế. Với mỗi nhà đầu tư khi
tham gia thị trường chứng khoán thì điều quan tâm đầu tiên chính là lợi nhuận và
để đạt được lợi nhuận cao nhất thì cần phải tìm cách hạn chế cũng như là phòng
ngừa những rủi ro có thể có. Trong phạm vi bài viết này sẽ tiến hành tìm hiểu về
rủi ro trong kinh doanh chứng khoán: phân loại, nguyên nhân và các quy định
pháp luật để hạn chế, phòng ngừa rủi ro.
B/NỘI DUNG
1/ Khái quát chung về rủi ro trong kinh doanh chứng khoán.
1.1.Khái niệm về rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Trước khi tìm hiểu thế nào là rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán
ta cần phải nắm được kinh doanh chứng khoán là hoạt động như thế nào? Ở Việt
Nam, theo quy định tại Khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán thì: kinh doanh chứng
khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, bảo lãnh phát hành

chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu kí chứng khoán, quản lí quỹ đầu tư
chứng khoán và quản lí danh mục đầu tư chứng khoán.
Như đã nêu ở trên kinh doanh chứng khoán là một hoạt động thương mại đặc
biệt bởi nó diễn ra trên một thị trường đặc biệt và đối tượng kinh doanh cũng vô
cùng đặc biệt – chứng khoán, một đối tượng kinh doanh mà bản thân nó cũng
mang tính rủi ro cao và do vậy hoạt động kinh doanh chứng khoán luôn có tính
nhạy cảm và gắn liền với yếu tố rủi ro. Hiểu theo cách thông thường, rủi ro là khả
năng xảy ra những tổn thất, mất mát ngoài dự kiến. Khi xảy ra rủi ro, người chịu
tác động có thể bị thiệt hại về mặt tài chính, không thu được lợi nhuận như dự kiến
hoặc không đạt được mục tiêu, kế hoạch đã đề ra. Và như vậy, rủi ro trong hoạt
động kinh doanh chứng khoán là những tình huống ngoài ý muốn, xảy ra trong
quá trình các chủ thể kinh doanh chứng khoán thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán gây ra hậu quả xấu, làm thiệt hại đến lợi nhuận của chủ thể kinh
3


doanh thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển ổn định của thị trường chứng
khoán.
1.2. Đặc điểm của rủi ro trong hoạt động kinh doanh của thị trường chứng
khoán.
- Thứ nhất, khả năng phát sinh rủi ro cao. Kinh doanh chứng khoán cũng như
bất cứ một loại hình đầu tư vốn nào khác đều luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro bởi quá
trình đầu tư luôn chứa đựng rất nhiều yếu tố có nguy cơ gây tác động xấu khiến
giá chứng khoán sụt giảm như sự thay đổi chính sách, pháp luật của nhà nước,
việc tăng giảm lãi suất của ngân hàng trung ương,… và những nguy cơ này lại rất
khó kiểm soát. Thêm vào đó, chứng khoán là loại tài sản đặc biệt bởi giá trị thực
của chứng khoán không đi liền với bản thân nó do vậy mà tính rủi ro của thị
trường kinh doanh chứng khoán càng cao.
- Thứ hai, rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán có phạm vi tác
động lớn, ảnh hưởng đến nhiều chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Ở dĩ

phạm vi tác động lớn là bới vì liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của thị
trường chứng khoán. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán xảy ra với
một chủ thể kinh doanh (ví dụ như một công ty có cổ phiếu niêm yết hay một công
ty chứng khoán) không chỉ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận thu được, gây tổn hại đến
hình ảnh hay uy tín của bản thân chủ thể mà còn có thể ảnh hưởng đến những chủ
thể khác là đối tác hay nhà đầu tư chứng khoán. Thậm chí nếu rủi ro có tính chất
hệ thống hoặc có thiệt hại lớn thì còn có thể có những tác động xấu đến toàn bộ thị
trường chứng khoán.
- Thứ ba, rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán có thể dự báo trước
hoặc không thể dự báo trước. Sở dĩ như vậy là bởi vì hoạt động kinh doanh chứng
khoán chịu sự chi phối của rất nhiều yêu tố từ chủ quan đến khách quan và do vậy
tùy thuộc vào từng yếu tố mà có thể dự đoán trước được hay không. Có thể lấy ví
dụ như với những yếu tố: báo cáo tài chính hàng năm của công ty cho thấy công ty
đang trong tình trạng làm ăn thua lỗ hay đang vướng phải một vụ kiện nào đó,…
4


thì ta có thể dễ dàng dự đoán được rủi ro nhưng với những yếu tố nằm ngoài sự
kiểm soát của con người thì ta không thể nào dự đoán trước được những rủi ro có
thể có. Chính vì tính chất phức tạp như thế mà tất cả các chủ thể tham gia kinh
doanh chứng khoán đều phải hết sức lưu ý, cân nhắc đến tất cả các yếu tố để có
được những quyết định sang suốt.
2/ Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Có rất nhiều cách phân loại rủi ro, tùy theo những căn cứ mà ta dựa vào đó để
xác định thì ta lại có những loại rủi ro khác nhau:
2.1.Căn cứ vào mức độ tác động của rủi ro ta có:
+ Rủi ro mang tính chất hệ thống, là những rủi ro liên quan đến thị trường
chứng khoán, tác động đến tất cả các chủ thế tham gia thị trường (ví dụ như rủi ro
thị trường xuất hiện do sự rút vốn đồng loạt của các nhà đầu tư hay rủi ro sức mua
đây là loại rủi ro xuất hiện do tác động của lạm phát tới các khoản đầu tư làm

giảm lợi tức thực tế,…đây là một số loại rủi ro mang tính chất hệ thống) với
những loại rủi ro này, các chủ thể tham gia thị trường khó có thể tránh được mà
chỉ có thể áp dụng các biện pháp làm giảm mức độ rủi ro mà thôi.
+ Rủi ro không có tính chất hệ thống, đây là những rủi ro mà khi xảy ra nó chỉ
tác động đến một hoặc một nhóm chủ thể tham gia thị trường chứng khoán (ví dụ
rủi ro kinh doanh, đây là loại rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh của chủ thể
kinh doanh chứng khoán,…) với loại rủi ro không có tính chất hệ thống này thì tùy
từng loại mà chủ thể tham gia thị trường có thể sử dụng những giải pháp đề phòng
tránh hoặc làm giảm mức độ thiệt hại do tác động của rủi ro.
2.2.Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến rủi ro, theo đó ta có các loại:
+ Rủi ro từ nguyên nhân khách quan, đây là những rủi ro xảy ra ngoài tầm
kiểm soát của chủ thể tham gia thị trường bởi nguyên nhân khách quan là yếu tố
khó có thể hạn chế cũng như là dự đoán một cách chính xác được ví dụ như động
đất, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, chính trị,…

5


+ Rủi ro phát sinh từ nguyên nhân chủ quan là những rủi ro xuất hiện do lỗi
của các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Đó có thể là
những rủi ro về mặt pháp lí xuất hiện do việc tiến hành các hành vi kinh doanh vi
phạm điều cấm của pháp luật hay rủi ro xuất hiện trong quá trình thực hiện nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán do các chủ thể không thực hiện nghĩa vụ của mình,…
2.3.Căn cứ vào tính chất của rủi ro có thể phân loại rủi ro thành:
+ Rủi ro pháp lý là những rủi ro xảy ra bởi các tranh chấp, kiện tụng giữa các
chủ thể kinh doanh chứng khoán hay giữa chủ thể tham gia hay của chính công ty
có cổ phiếu niêm yết trên thị trường khiên cho giá trị cổ phiếu bị sụt giảm,…
+ Rủi ro đối tác kinh doanh là rủi ro phát sinh giữa chủ thể kinh doanh chứng
khoán với đối tác của mình những rủi ro này có thể đối tác không đủ tiền hoặc
chứng khoán khi đến hạn thanh toán,…

+ Rủi ro thị trường là loại rủi ro phát sinh khi có biến động về giá và tính
thanh khoản của chứng khoán trong giao dịch khến cho khách hàng không thể
mua hay bán một số lượng lớn chứng khoán trong thời gian nhất định,…
+ Rủi ro từ hoạt động là những rủi ro xảy ra trong quá trình chủ thể kinh doanh
chứng khoán tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Có thể do lỗi của
nhân viên hành nghề, có thể do sự hạn chế về khả năng tài chính của chính chủ thể
hoặc do trục trặc của hệ thống máy tính, hệ thống thanh toán của Sở giao dịch,…
3/ Nguyên nhân của rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
3.1. Các nguyên nhân mang tính khách quan.
- Môi trường kinh tế không ổn định. Như đã nêu ở trên, thị trường chứng
khoán là một thị trường vô cùng nhạy cảm luôn chịu sự chi phối từ rất nhiều yếu
tố, bản thân thị trường này lại diễn ra trong một bối cảnh kinh tế cụ thể và do vậy
một môi trường kinh tế không ổn định (khi chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, lạm phát
khó kiểm soát, lãi suất ngân hàng tăng, những rủi ro từ khủng hoảng tài chính toàn
cầu,…) sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh chứng khoán không có một môi trường
thuận lợi để phát triển, khi đó rủi ro là điều dễ hiểu. Trong số các tác động từ môi
6


trường kinh tế ảnh hưởng của thị trường chứng khoán là nguyên nhân có tác động
trực tiếp và rõ ràng nhất, nếu thị trường bấp bênh, thiếu tính công khai, minh bạch
thiếu sự quản lí và giám sát thì khả năng xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể là rất cao.
- Môi trường chính trị bất ổn định, hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà
nước bất cập, chưa hoàn thiện. Thị trường chứng khoán rất nhạy cảm với các yếu
tố chính trị, pháp luật do vậy nếu các yếu tố này bất ổn thì đương nhiên thị trường
chứng khoán không thể phát triển một cách ổn định và bền vững và khi đó hoạt
động kinh doanh chứng khoán chắc chắc sẽ chịu những tác động tiêu cực. Sở dĩ có
tình trạng như vậy là bởi vì những chính sách pháp luật có vai trò tạo nên một môi
trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể tham gia thị trường cũng như là

định hướng cho sự phát triển của thị trường do đó hệ thống các quy định pháp luật
điều chỉnh các hoạt động trên thị trường chứng khoán nếu không phù hợp, xa rời
thực tế, chống chéo, mâu thuẫn thì hoạt động kinh doanh chứng khoán khó mà
phát triển một cách thuận lợi, rủi ro luôn có nguy cơ phát sinh bất cứ lúc nào.
- Bên cạnh đó hoạt động cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể hay sự
quản lí và giám sát thị trưởng lỏng lẻo tạo điều kiện cho các hành vi tiêu cực phát
sinh gây nên những rủi ro không đáng có.
- Ngoài ra nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán còn xuất phát từ những yếu tố như động đất, thiên tai,…đây là những
yếu tố thuộc về thiên nhiên do vậy rất khó dự đoán được một cách chính xác được
khi nào thì xảy ra đôi khi đến rất bất ngờ gây thiệt hại lớn về cơ sở vật chất tạo
nên những rủi ro khó lường trước cho chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh
chứng khoán.
3.2.Các nguyên nhân mang tính chất chủ quan.
- Do bản thân chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán ví dụ như
do khả năng tài chính, trình độ của đội ngũ nhân viên còn hạn chế chưa đáp ứng
7


được những yêu cầu của thị trường. Như chúng ta đã biết, kinh doanh chứng
khoán là một loại đầu tư vốn do vậy khả năng tài chính tốt là một yêu cầu không
thể bỏ qua đối với các chủ thể tham gia. Nếu chủ thể thực hiện các hoạt động kinh
doanh trong tình trạng tiềm lực tài chính hạn chế, lượng vốn có sẵn và khả năng
khai thác sử dụng các nguồn lực tài chính trong và ngoài công ty không đủ mạnh,
không đáp ứng được các yêu cầu của các giao dịch thì công ty sẽ luôn gặp khó
khăn và rủi ro là điều không thể tranh khỏi. Chất lượng đội ngũ nhân viên cũng
cần phải được đảm bảo bởi kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự
chi phối rất lớn của nhân tố con người, trình độ kiến thức, kĩ năng hành nghề, đạo
đức kinh doanh của nhân viên là những yếu tố có tác động trực tiếp đến kết quả
kinh doanh. Do vậy nếu năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm của người

hành nghề còn hạn chế thì việc đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ một cách hiệu
quả, không có sai sót đem lại hiệu quả tốt nhất là rất khó, đây thường là nguyên
nhân làm xảy ra các rủi ro gây thiệt hại đến lợi nhuận của nhà đầu tư. Ngoài ra
năng lực quản trị kinh doanh, khả năng tổ chức hoạt động của bản thân chủ thể
không tốt cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt
động. Các rủi ro cũng có thể xuất hiện do việc tiến hành các hành vi kinh doanh vi
phạm điều cấm của pháp luật hay rủi ro xuất hiện trong quá trình thực hiện nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán do các chủ thể không thực hiện nghĩa vụ của mình,…
đó là những rủi ro về mặt pháp lí.
- Nguyên nhân từ phía đối tác kinh doanh, khách hàng. Đó là trường hợp
khách hàng bị mất khả năng thanh toán (không đủ tiền hoặc chứng khoán khi đến
hạn thanh toán) hoặc không có trình độ, thông tin để đánh giá tình hình dẫn đến
đưa ra những quyết định sai lầm gây thiệt hại về lợi nhuận cho chính khách hàng
đó và bản thân chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng gặp phải
những rủi ro nhất định.
4/ Các quy định của pháp luật về hạn chế, phòng người rủi ro.

8


4.1. Cơ sở hình thành pháp luật về hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong kinh
doanh chứng khoán.
Sở dĩ Nhà nước ban hành pháp luật phòng ngừa và hạn chế rủi ro là bởi vì hoạt
động kinh doanh chứng khoán là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro do vậy để bảo
vệ quyền lợi của các nhà đầu tư - các chủ thể thực hiện hoạt động này cũng là đảm
bảo sự phát triển ổn định của thị trường chứng khoán nói chung và nền kinh tế nói
riêng mà pháp luật về phòng ngừa và hạn chế rủi ro được ban hành. Sau đây là
những cơ sở cụ thể:
- Xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế và thị trường chứng khoán của
Việt Nam. Bắt đầu từ năm 2006 thị trường chứng khoán của Việt Nam phát triển

một cách vượt bậc và được đánh giá là một trong những thì trường có tốc độ phát
triển cao nhất với sự gia tăng một cách ồ ạt các nhà đầu tư (tính đến thàng 12-2006
có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở trong đó có gần 2000
tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước chủ yếu là các nhà
đầu tư nhỏ tự phát không có chuyên môn và thiếu hiểu biết về thị trường chứng
khoán, cùng với sự ra đời của hàng loạt các công ty chứng khoán có quy mô vừa
và nhỏ và trên thực tế có nhiều công ty không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về
trang thiết bị cũng như trình độ chuyên môn. Chính sự phát triển ồ ạt này đã tạo
nên những rủi ro tiềm ẩn mang lại cho chính các nhà đầu tư cũng như các công ty
thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Tuy vậy trong những
năm gần đây thị trường chứng khoán của nước ta lại rơi vào tình trạng phát triển ỳ
ạch, cùng với sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã
khiến cho thị trường chứng khoán càng trở nên ảm đạm. Những diễn biến bất
thường trên của thị trường chứng khoán đã có tác động tiêu cực đến nền kinh tế,
số lượng các nhà đầu tư bị giảm mạnh, nhiều nhà đầu tư bị rơi vào tình trạng phá
sản. Đứng trước những vấn đề như vậy với vai trò quản lí chung đòi hỏi Nhà nước
phải có những biện pháp nhằm hạn chế tối thiểu những rủi ro xảy đến với chủ thể
tham gia vào thị trường chứng khoán. Một trong những biện pháp được ưa tiên đó
9


là cần phải đưa ra khung pháp lí phù hợp đảm bảo phòng ngừa và hạn chế các rủi
ro có thể thấy trước và các rủi ro tiềm ẩn.
- Xuất phát từ yêu cầu quản lí Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh chứng
khoán. Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao hiệu quả quản lí của nhà
nước đối với nền kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhằm đạt tới mục đích phát triển
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã
đặt ra. Quản lí Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán cũng như đối với
sự vận hành của thị trường chứng khoán cũng không nằm ngoài quy luật này. Điều
này càng trở nên quan trọng khi thị trường chứng khoán ở nước ta mới được hình

thành và đang đứng trước bối cảnh khó khăn.
- Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia vào hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Khi tham gia vào thị trường chứng khoán các chủ
thể kinh doanh luôn đứng trước những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, bảo vệ các chủ thể
kinh doanh cũng là đảm bảo an toàn cho thị trường chứng khoán cũng như là cho
toàn bộ nền kinh tế và do vậy việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư là việc làm cấp
thiết cần phải tiến hành.
4.2.Nội dung cơ bản của pháp luật hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
kinh doanh chứng khoán.
- Các quy định của pháp luật về quản lí Nhà nước nhằm hạn chế và phòng
ngừa rủi ro trong kinh doanh chứng khoán tức là những quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán mà thông qua đó
đảm bảo được sự ổn định, thống nhất quản lí cho thị trường chứng khoán. Cụ thể,
theo Điều 7 Luật Chứng khoán quy định cho Chính phủ thống nhất quản lí nhà
nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Ủy ban chứng khoán nhà nước –
cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan trực tiếp quản lí hoạt động kinh doanh
chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung. Về nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban chứng khoán thì theo Điều 8 Luật chứng khoán thì UBCKNN có
hai chức năng chính là tổ chức xây dựng thị trường chứng khoán và quản lí, giám
10


sát sự vận hành của thị trường chứng khoán. Để thực hiện chức năng này,
UBCKNN có các quyền hạn sau: cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận
liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; chấp thuận
những thay đổi liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán;
quản lý, giám sát hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch
chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán và các tổ chức phụ trợ; tạm đình chỉ
hoạt động giao dịch, hoạt động lưu ký của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm
giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán trong trường hợp có dấu

hiệu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; thanh tra, giám sát,
xử phạt vi phạm hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động chứng
khoán và thị trường chứng khoán; thực hiện thống kê, dự báo về hoạt động chứng
khoán và thị trường chứng khoán; hiện đại hoá công nghệ thông tin trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán; tổ chức, phối hợp với các cơ quan, tổ
chức liên quan đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành
chứng khoán; phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho
công chúng; Hướng dẫn quy trình nghiệp vụ về chứng khoán và thị trường chứng
khoán và các mẫu biểu có liên quan; thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Các quy định của pháp luật về điều kiện trở thành chủ thể kinh doanh chứng
khoán và các nghiệp vụ được phép thực hiện.
+ Quy định về điều kiện trở thành chủ thể kinh doanh chứng khoán. Kinh
doanh chứng là một loại hình kinh doanh đặc biệt với đối tượng kinh doanh là
chứng khoán và được diễn ra trong một thị trường chứa đựng nhiều rủi ro bởi vậy
để hạn chế những rủi ro và để đảm bảo an toàn cho bản thân chủ thể kinh doanh
chứng khoán, pháp luật nước ta đã đặt ra nhiều điều kiện cụ thể để một pháp nhân
được công nhận là chủ thể kinh doanh chứng khoán.

 Thứ nhất, về hình thức pháp lí. Công ty quỷ lí quỹ phải là các công ty
được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần
11


(khoản 1 Điều 59 LCK), công ty đầu tư chứng khoán chỉ có thể tồn tại dưới hình
thức công ty cổ phần (khoản 1 Điều 96 LCK). Sở dĩ có những quy định này là bởi
vì hai loại hình công ty này có những ưu thế hơn so với các loại hình công ty khác
về chế độ sở hữu, quản trị, khả năng huy động vốn,…do đó độ an toàn của các chủ
thể kinh doanh chứng khoán này cũng cao hơn.


 Thứ hai, điều kiện về cơ sở vật chất, kĩ thuật. Theo quy định tại điểm a,
khoản 1 Điều 62 Luật chứng khoán thì doanh nghiệp cần phải có: có trụ sở; có
trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, đối với nghiệp vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp
ứng điều kiện về trang bị, thiết bị. Sở dĩ lại có những quy định như vậy là bởi vì
thị trường chứng khoán là một thị trường đòi hỏi chất lượng hạ tầng kĩ thuật cao,
tiên tiến như yêu cầu về mặt bằng giao dịch, hệ thống trang thiết bị điện tử như
cáp dữ liệu, máy tính kết nối internet, bảng điện tử,…

 Thứ ba, điều kiện về vốn pháp định. Hoạt động kinh doanh chứng khoán là
một loại hình kinh doanh đặc biệt đòi hỏi phải có số vốn lớn nhằm kịp thời giải
quyết những rủi ro có thể xảy đến trong quá trình diễn ra hoạt động chính vì vậy
mà pháp luật hạn chế và phòng ngừa rủi ro có quy định rất cụ thể về số vốn pháp
định mà các chủ thể pháp đáp ứng khi đăng kí thực hiện một trong các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán. Cụ thể theo nghị định 14/2007/NĐ-CP, với CTCK,
CTCK có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh CTCK nước ngoài tại Việt Nam thì
vốn pháp định cần có cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán là 25 tỉ đồng Việt Nam,
tự doanh chứng khoán là 100 tỉ đồng Việt Nam, bảo lãnh phát hành chứng khoán
là 165 tỉ đồng Việt Nam, trong trường hợp tổ chức đề nghị cấp giấy phép để được
hoạt động nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán thì vốn pháp định sẽ là tổng
số vốn pháp định tương ứng với mỗi nghiệp vụ xin cấp phép. Đối với công ty quản
lí quỹ, công ty quản lí quỹ có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty quản lí
quỹ nước ngoài tại Việt Nam thì số vốn pháp định phải đạt 25 tỉ đồng Việt Nam.
Đối với công ty đầu tư chứng khoán số vốn pháp định phải đạt 50 tỉ đồng.
12


 Điều kiện về đội ngũ nhân viên. Như đã phân tích ở phần những nguyên
nhân của rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán ta có thể thấy chất lượng
của đội ngũ nhân viên là vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả công

việc cũng như là hạn chế những rủi ro trong quá trình thực hiện hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Về cơ bản đối với cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh
chứng khoán trước hết cần đáp ứng được yêu câif có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự, có chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Đối với CTCK và công ty quản lí quỹ
đầu tư chứng khoán, pháp luật quy định giám đốc hoặc tổng giám đóc và các nhân
viên thực hiện nghiệp vụ KDCK phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán (điểm
c, khoản 1 Điều 62 luật Chứng khoán). Đối với công ty đầu tư chứng khoán thì
giám đốc hoặc tổng giám đốc và nhân viên quản lí có chứng chỉ hành nghề chứng
khoán trong trường hợp công ty đầu tư chứng khoán tự quản lí vốn (điểm b khoản
1 Điều 97 Luật Chứng khoán).
+ Các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán được phép tiến hành. Theo luật
chứng khoán thì gồm: nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán,
bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu kí chứng khoán,
quản lí quỹ đầu tư chứng khoán, quản lí danh mục đầu tư chứng khoán. Cụ thể các
nghiệp vụ kinh doanh mà các chủ thể được phép tiến hành được quy định như sau:
CTCK được phép thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh,
tư vấn, lưu kí chứng khoán và các nghiệp vụ tài chính khác. Riêng với nghiệp vụ
bảo lãnh phát hành chứng khoán CTCK chỉ được thực hiện khi được tự doanh
chứng khoán do đây là một nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất và đòi hỏi phải
có nguồn vốn, kinh nghiệm lớn. Công ty quản lí quỹ được phép tiến hành quản lí
quỹ và quản lí danh mục đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán được tiến
hành tự doanh chứng khoán. Việc phân định như vậy giúp đảm bảo hiệu quả kinh
doanh đồng thời để đảm bảo tính minh của thị trường qua đó hạn chế rủi ro, đảm
bảo sự bình ổn và phát triển bền vững của thị trường.

13


- Các quy định về nghĩa vụ thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro của chủ thể
kinh doanh chứng khoán. Hạn chế, ngăn ngừa rủi ro là những hoạt động mang lại

trực tiếp cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán và do vậy mà ngăn ngừa rủi ro
không chỉ là nhiệm vụ của riêng cơ quan quản lí nhà nước, chính các chủ thể trực
tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán phải là người đầu tiên có trách
nhiệm bảo vệ mình trước những rủi ro có thể xảy ra.
+ Thứ nhất, quy định về cơ chế quản lí vốn. Đó là, trong quá trình kinh doanh
chứng khoán vốn khả dụng là một tiêu chí định mức an toàn vốn, nếu vốn khả
dụng giảm xuống dưới mức 120% mức quy định chủ thể kinh doanh chứng khoán
sẽ bị cảnh cáo và yêu cầu khắc phục. Ngoài ra trong thời kì hoạt động, mọi giao
dịch làm thay đổi quyền sở hữu cổ phần hay phần vốn góp chiếm từ 10% vốn điều
lệ thì đều phải được UBCK chấp nhận. Thêm vào đó cổ đông sáng lập, thành viên
sáng lập không được chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp của mình trong
thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động. Họ phải
cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ của CTCK trong vòng 3 năm kể từ khi
được cấp phép thành lập và hoạt động.
+ Thứ hai, quy định về hạn chế đầu tư. Hạn chế đầu là một yếu tố lớn trong
quản lí vốn của chủ thể kinh doanh chứng khoán. Hạn chế đầu tư giúp các chủ thể
phân tán rủi ro trong kinh doanh chứng khoán đặc biệt là trong hoạt động tự doanh
chứng khoán. Một số quy định cụ thể như sau: đối với CTCK không được đầu tư
vào cổ phiếu của công ty là cổ đông lớn chiếm tỉ lệ vốn điều lệ của công ty, đầu tư
từ 20% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết và
đầu tư hoặc góp vốn từ 15% trở lên tổng số vốn góp của một công ty trách nhiệm
hữu hạn. Đối với công ty quản lí quỹ không được đầu tư vào quỹ do mình quản lí,
không đầu tư vào công ty quản lí quỹ khác hoặc CTCK khác. Những hạn chế trên
không chỉ phân tán rủi ro trong quá trình đầu tư mà còn hạn chế CTCK, công ty
quản lí quỹ đầu tư và công ty đầu tư chứng khoán đầu tư vào các tổ chức tài chính
liên quan, nhằm tránh sự đổ vỡ hệ thống, ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia.
14


+ Thứ ba, quy định về chế độ báo cáo và công bố thông tin. Theo đó các chủ

thể phải tuân thủ việc báo cáo tài chính định kì, bảo cáo hoạt động bất thường. Với
chế độ báo cáo giúp cơ quan quản lí chứng khoản kiểm soát được tình hình hoạt
động của các chủ thể để từ đó có những biện pháp xử lí kịp thời phù hợp với tình
hình chung của thị trường để hạn chế rủi roc ho chính những chủ thể đó.
+ Thứ tư, quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ dựa trên nguyên tắc được quy
định tại Điều 28 luật chứng khoán bao gồm: kiểm soát việc tuân thủ quy trình
nghiệp vụ của các bộ phận kinh doanh và của người hành nghề chứng khoán, kiểm
toán báo cáo tài chính, giám sát tỷ lệ vốn khả dụng và các tỉ lệ an toàn tài chính,…
việc quy định như vậy nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác của hoạt động
kiểm soát của doanh nghiệp cũng như của các cơ quan quản lí nhà nước về kinh
doanh chứng khoán từ đó hạn chế được tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
- Các quy định về xử lí vi phạm trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Mặc dù đây là những chế tài được áp dụng với những đối tượng vi phạm pháp luật
về kinh doanh chứng khoán nhưng với khả năng răn đe vốn có thì việc xử lí vi
phạm này cũng góp phần khiến cho các chủ thể kinh doanh chứng khoán thận
trọng hơn trong quá trình hoạt động và từ đó các rủi ro cũng được hạn chế phần
nào.
5/Những vấn đề trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về hạn
chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
- Thứ nhất, UBCKNN là cơ quan trực tiếp quản lí thị trường cũng như hoạt
động kinh doanh chứng khoán như vậy phạm vi quản lí và khối lượng công việc
của cơ quan này là quá lớn dẫn đến tình trạng quá tải trong công tác quản lí. Thêm
vào đó, UBCKNN là cơ quan thuộc Bộ Tài chính và do vậy thẩm quyền của cơ
quan này cũng bị giới hạn ít nhiều từ đó làm cho các rủi ro trong hoạt động kinh
doanh chứng khoán không được kiềm chế kịp thời dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng, tác động xấu tới toàn bộ thị trường.

15



- Thứ hai, việc quản lí nhiều tầng lớp của nhà nước đối với thị trường chứng
khoán và hoạt động kinh doanh chứng khoán làm cho những quyết định quan
trọng bị hạn chế và hậu quả của vấn đề này là vô cùng nghiêm trọng khi mà thị
trường chứng khoán nước ta diễn biến nhanh và phức tạp.
- Thứ ba, tính minh bạch của việc công bố thông tin trên thị trường chứng
khoán ở nước ta còn rất mập mờ. Nhiều chủ thể kinh doanh chứng khoán đã
không thực hiện đúng hoặc tìm cách lách luật trong quá trình báo cáo công bố
thông tin.
- Thứ tư, hiện nay vẫn chưa có quy định nào cho phép UBCKNN thực hiện
hoạt động thanh tra điều này rất gây khó khăn cho cơ quan này trong việc xác định
đúng sự thật và từ đó dẫn đến hậu quả là khó có thể hạn chế được những rủi ro
tiềm ẩn trong quán trình kinh doanh chứng khoán của các công ty kinh doanh
chứng khoán.
- Thứ năm, pháp luật chứng khoán mới chỉ có các quy định điều chỉnh hoạt
động của ba chủ thể kinh doanh là CTCK, công ty quản lí quỹ đầu tư chứng khoán
và công ty đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên trên thực tế có rất nhiều chỉ thể khác là
tổ chức và cá nhân tham gia các hoạt động kinh doanh chứng khoán và những rủi
ro mà nhóm chủ thể này mang lại cũng không phải là nhỏ.
6/ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hạn chế và phòng ngừa rủi
ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
-Thứ nhất, đối với quy định về vị trí, vai trò và chức năng của UBCKNN.
Trước tiên cần để UBCKNN trở thành một cơ quan độc lập có thẩm quyền riêng
biệt và có chức năng ban hành các văn bản pháp luật đề hướng dẫn điều chỉnh các
vấn đề pháp sinh trong hoạt động quản lí của mình. Điều này giúp cho việc quản lí
của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trở nên chặt chẽ hơn,
thích ứng tốt hơn với sự thay đổi và phải triển mau lẹ của thị trường chứng khoán.
- Thứ hai, quy định về hoạt động thanh tra. Theo đó các quy định về thanh tra,
giám sát phải được bổ sung cụ thể hơn như có thể lập một cơ quan mới hoặc giao
16



trách nhiệm cho chủ thể khác hỗ trợ UBCKNN trong việc thực hiện hoạt động
thanh tra.
- Thứ ba, cần hoàn thiện và có thêm các quy định để điều chỉnh hoạt động của
cá nhân, tổ chức khác tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm tăng
cường sự quản lí của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán và hạn
chế những rủi ro mà chủ thể này mang lại.
C/KẾT LUẬN
Rủi ro trong kinh doanh là điều không thể tránh khỏi và nhất là trong hoạt
động kinh doanh chứng khoán lại đặc biệt tiềm ẩn nhiều nguy cơ và rủi ro cho chủ
thể hoạt động. Do vậy việc hạn chế và phòng ngừa rủi ro là đặc biệt quan trọng đòi
hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật về hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng
khoán.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán, trường đại học Luật Hà Nội.
2. Luật chứng khoán năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010.
3. Pháp luận phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, khóa
luận tốt nghiệp, Vũ Thị Ngọc Ánh, người hướng dẫn, Ts. Phạm Thị Giang
Thu.
4. Pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của công
ty chứng khoán, thực trạng và kiến nghị hoàn thiện. Khóa luận tốt nghiệp,
Dương Thị Thu Nga, người hướng dẫn, Ths. Nguyễn Quang Việt.

18




×