Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

tiểu luận V.I.LENIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.53 KB, 61 trang )

QUY ĐỊNH VIẾT TẮT
CSCN
GCCN
GCTS
XHCN

Cộng sản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân
Giai cấp tư sản
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong những bộ phận cấu thành nên học
thuyết Mác- Lenin, đây là cơ sở luận chứng về các điều kiện kinh tế xã hội của quá
trình nảy sinh, hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, về
sứ mệnh lịch sử của GCCN. Đồng thời, thực tiễn đấu tranh các mạng của GCCN,
nhân dân lao động là tiền đề để bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin. Sự hoàn
chỉnh, cân đối thống nhất gắn bó chặt chẽ này đã thể hiện tính khoa học cách mạng
của học thuyết Mác-Lenin, lý luận gắn liền vài thực tiễn và tổng kết thực tiễn để phát
triển lý luận.
Những lý luận về Đảng của giai cấp vô sản là một trong những nội dung cơ bản
và quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học. thông qua sự nghiên cứu về quy luật ra
đời, đặc điểm của chính đảng giai cấp vô sản, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lenin đã
chứng minh rằng sứ mệnh lịch sử của GCCN chỉ có thể giành được thắng lợi khi có
sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản- đội tiên phong của GCCN.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con đường cách


mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác nhưng trong tình hình thực tiễn hiện nay,
có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, một bộ phận không nhỏ các
cán bộ đảng viên trong Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy thoái về tư tưởng, lối sống
đạo đức. Vì vậy, việc nghiên cứu các quan điểm về đảng của chủ nghĩa Mác-Lenin
một việc hết sức cấp bách và cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay. Là một sinh viên
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học thì việc nghiên cứu về sự bảo vệ và phát
triển các quan điểm về đảng của V.I.Lenin đối vài chủ nghĩa Mác là phù hợp với
ngành học và cần thiết cho sự bổ sung, củng cố thêm kiến thức. Vì vậy, tôi xin chọn
đề tài “ V.I.Lenin bảo vệ và phát triển Chủ nghĩa Mác về Đảng của GCCN và sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam’’ làm đề tài nghiên cứu để kết thúc học phần môn


Tác phẩm V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học. Bài nghiên cứu của em còn nhiều
thiếu xót rất mong nhận được sự góp ý và sửa đổi bổ sung của thầy. Em xin cảm ơn !
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam tính đến nay, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các quan điểm về
Đảng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, có thể kể đến một số công trình như:
- Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS. Đỗ Công Tuấn (chủ biên), khoa
CNXHKH-Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nhà xuất bản chính trị-hành chính ,Hà
Nội 2012. Tài liệu đã khái quát lý luận về CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó
tác giả đã khái quát những luận điểm về Đảng của GCCN
- Tác phẩm V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS.Đỗ Công Tuấn, khoa
CNXHKH, Hà Nội 1/2013. Tác giả đã nêu nêu hệ thống những quan điểm của chủ
nghĩa xã hội khoa học qua từng tác phẩm của Lênin, trong đó có đề cập đến nhưng lý
luận về Các luận điểm về Đảng kiểu mới. Đây là nguồn tài liệu chủ yếu đề tác giả
phát triển và thực hiện đề tài này
- Đề cương bài giảng: Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và Ph.Ăngghen
về CNXHKH, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, TS. Nguyễn Thọ Khang, khoa
CNXHKH,Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Tài liệu khái quát lý luận về CNXH
của Mác và Ăngghen thông qua các tác phẩm tiêu biểu của hai ông. Trong đó có

những luận điểm của Mác và Ph.Ăngghen về Đảng của GCCN
- Bài viết: V.I. Lê-nin với vấn đề xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh của
Đại tá, ThS Nguyễn Đức Thắng, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc
phòng, đăng trên Tạp chí Cộng sản 26/6/2012. Tác giả đã nêu lên sự vận dụng của chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về vấn đề xây dựng Đảng trên quan điểm của Lênin.
/>- Bài báo: Thấm nhuần tư tưởng của Lênin về xây dựng Đảng của PGS.TS Nguyễn
Hoàng Giáp ngày trên Báo mới ngày 22/4/2012. Tác giả đã nêu lại những quan điểm
của Lênin về xây dựng Đảng và Đảng ta đã học tập để xây dựng đội ngũ cán bộ.


/>- Bài viết: Vận dụng tư tưởng của C.Mác về chính đảng và Đảng Cộng sảnvào xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ở Việt Nam hiện nay của PGS.TS Lưu Văn An, Phó Giám đốc
Học viện Báo chí và Tuyên truyền trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số
5/2018. Tác giả đã khái quát lại hệ thống quan điểm của C.Mác về chính đảng và
Đảng Cộng sản và việc vận dụng trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện
nay.
Bên cạnh những sách báo, tạp chí, thông tin trên internet, với tư cách là sinh
viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, em còn được tiếp cận, được học tập,
nghiên cứu những tài liệu và trao đổi với giảng viên về những vấn đề có liên quan đến
đề tài Đảng. .Nhưng tính đến thời điểm hiện nay, chưa có công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu cụ thể về sự bảo vệ, phát triển của V.I.Lenin đối vài chủ nghĩa Mác về
đảng của GCCN và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì vậy, trong tiểu luận
này sẽ trình bày những vấn đề đặt ra đối vài lý luận về đảng của chủ nghĩa Mác, sự
bảo vệ và phát triển lý luận về Đảng của V.I.Lenin và sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam về những lý luận đó trong thực tiễn hoàn cảnh đất nước Việt Nam
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm rõ công lao của V.I.Lenin trong việc bảo vệ, phát triển những lý luận về Đảng
của chủ nghĩa Mác và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt nam trong thực tiễn hoàn


-

cảnh đất nước
Nhiệm vụ
Khái quát lại những quan điểm về đảng của Mác-Ph.Ăngghen
Hệ thống hóa những quan điểm của V.I.Lenin về đảng của GCCN
Phân tích những quan điểm của V.I.Lenin về đảng của GCCN để thấy rõ sự bảo vệ

-

của V.I.Lenin đối vài chủ nghĩa Mác về quan điểm này
Phân tích sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về lý luận của Lênin về đảng của

3.2.
-

GCCN
4. Đóng góp của tiểu luận


-

Tiểu luận góp phần làm làm rõ công lao của V.I.Lenin trong việc bảo vệ, phát triển
những lý luận về Đảng của chủ nghĩa Mác và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt

nam trong thực tiễn hoàn cảnh đất nước
- Đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo trong môn học
5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận: Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
-


về Đảng
Khách thể nghiên cứu: Quá trình hình thành và phát triển lý luận của V.I.Lenin về

-

đảng của GCCN.
Giới hạn khảo sát: Để hoàn thành tiểu luận, em đã đọc và nghiên cứu các tác phẩm
của V.I.Lênin sau: Làm gì? Những vấn đề cấp bách trong phong trào chúng ta, Một
bước tiến, hai bước lùi(Cuộc khủng hoảng trong đảng ta), Hai sách lược của Đảng dân
chủ-xã hội trong cách mạng dân chủ-xã hội, Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào
cộng sản. Và một số tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen như: Tuyên ngôn của Đảng

Cộng sản, Gia đình thần thánh
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Cơ sở lý luận: Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin về đảng của GCCN
- Phương pháp luận: Dựa trên các nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem
6.2.
6.2.1.

6.2.2.

xét, đánh giá vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của tiểu luận
Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp phân tích-tổng hợp tài liệu, đồng
thời có kết hợp vài phương pháp logic lịch sử
Phương pháp cụ thể

Phương pháp cụ thể gồm các phương pháp: Phân tích lược thuật, phân tích tổng hợp

tài liệu,… để làm rõ quan điểm của V.I.Lenin về đảng của GCCN
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận có kết cấu gồm 3
chương, 7 tiết và các tiểu tiết.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ CHÂU ÂU, NƯỚC NGA VÀ NHỮNG

1.1.

VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC VỀ ĐẢNG CỦA
GIAI CẤP CÔNG NHÂN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XX
Tình hình chính trị Châu Âu, nước Nga
Cuối thế kỉ XIX, nhất là vào những năm đầu của thập niên thứ nhất của thế kỉ
XX, tình hình kinh tế và chính trị thế giới có những biến động sâu sắc, tác động mạnh
mẽ đến các quan hệ chính trị giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các giai cấp và lực
lượng chính trị-xã hội. Chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, các nước
đế quốc phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược nhằm giành lại thị trường và làm
suy yếu lẫn nhau.
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trở nên sâu sắc, trong đó có mâu thuẫn NgaNhật. Bên cạnh đó, các chính phủ của các dân tộc đi xâm lược áp dụng những chính
sách bóc lột, cai trị tàn bạo đối vài các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc vài nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa trở nên hết sức gay gắt. Cuộc
khủng hoảng kinh tế 1900-1903 đã diễn ra ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa Châu Âu
vài số người thất nghiệp tăng nhanh. Mâu thuẫn bên trong các quốc gia đế quốc, mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản vài GCCN và nhân dân lao động càng thêm sâu sắc.
Đến đầu thế kỷ XX và trước thế chiến thứ nhất, Nga vẫn là nước theo chế
độ quân chủ chuyên chế dưới sự cai trị của Nga hoàng Nikolai II. Sự tồn tại của chủ

nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, sự kết hợp giữa hình
thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi tập trung
cao độ các mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc: Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Nga
vài chế độ quân chủ chuyên chế của Nga hoàng; mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân;
mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản; mâu thuẫn giữa nhân dân các dân tộc thuộc địa của
Nga vài chế độ đế quốc Nga; mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các đế quốc khác.
Với tình trạng kinh tế và tình hình xã hội tồn tại nhiều mối mâu thuẫn như vậy
làm cho đế quốc Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế


quốc. Sự khủng hoảng trong các quốc gia dân tộc trong hệ thống thế giới của chủ
nghĩa tư bản đã làm dấy lên phong trào công nhân, phong trào yêu nước mạnh mẽ và
rộng khắp, đòi hỏi phải có một chính đảng vô sản của GCCN đứng ra để lãnh đạo
phong trào. Vì vậy, tháng 3.1898 trên cơ sở hợp nhất các "Liên minh đấu tranh vì giải
phóng GCCN" ở Pêtecbua (Peterburg), Matxcơva và một số nơi khác, Đảng công
nhân dân chủ-xã hội Nga đã ra đời, tạo nên tiền đề chủ quan và khách quan
cho cách mạng XHCN nổ ra và giành thắng lợi.
1.2. Những vấn đề đặt ra với lý luận của chủ nghĩa Mác về đảng của GCCN
1.2.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác về Đảng của GCCN
1.2.1.1. Quy luật ra đời và đặc điểm của Đảng của GCCN [Xem 43]
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ
bản về chính Đảng, đồng thời các ông cũng đưa ra những luận điểm để chứng minh sự
ra đời của Đảng vô sản là một tất yếu khách quan. Những tư tưởng đó bắt nguồn từ
luận điểm khoa học về vai trò lịch sử thế giới của GCCN vài tư cách là người đào
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, sáng tạo ra xã hội mới không còn người bóc lột người.
Hai ông chỉ rõ GCCN là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội.
Nhưng GCCN chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức
ra được chính Đảng độc lập của nó.
Ph.Ăngghen viết: “Để cho GCCN có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong
giờ phút quyết định thì điều cần thiết là C.Mác và tôi đã bảo vệ quan điểm này từ năm

1847 - phải tổ chức được một đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các đảng khác và đối
lập vài các đảng đó, nhận thức rõ mình là đảng của giai cấp” [21, tr35]
Quy luật ra đời của Đảng là sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào
công nhân và hai ông là một trong những người đầu tiên đã được thực hiện sự kết hợp
ấy. Hai ông coi việc trang bị lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cho GCCN là yếu tố
quan trọng để nâng cao giác ngộ cho họ và việc giáo dục chủ nghĩa xã hội khoa học
cho đội ngũ đảng viên, là nội dung đặc biệt quan trọng của việc xây dựng Đảng về tư
tưởng.


Dưới sự lãnh đạo của hai ông, Điều lệ của “Đồng minh những người cộng sản”
đã được khởi thảo, trong đó những tư tưởng cơ bản về tổ chức xây dựng Đảng đã
được thể hiện. Ngoài ra, tư tưởng của hai ông còn mở rộng ra tầm quốc tế. Khẩu hiệu
“Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” [16,tr586]
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đã trở thành phương châm hoạt động cho
phong trào công nhân toàn thế giới. Những tư tưởng trên của C.Mác và Ph.Ăngghen
về chính đảng có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sự phát triển của toàn bộ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó đã góp phần làm phát triển ngày càng to lớn
của phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trên toàn thế giới. Từ
lý luận trên cho ta thấy, sự cần thiết phải thành lập một chính Đảng độc lập của giai
cấp vô sản là một tất yếu khách quan, có vai trò và nhiệm vô vô cùng quan trọng, thể
hiện trách nhiệm cụ thể của người chiến sĩ cộng sản nói riêng cũng như toàn thể tổ
chức Đảng cộng sản nói chung trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử lớn lao của mình.
Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” (1844), khi phê phán quan điểm của
Bru- nô Bau-ơ và đồng bọn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò có ý nghĩa
lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản không phải do thần thánh tạo ra, không phải
tự nhiên mà có, mà là do điều kiện kinh tế và sinh hoạt dưới chế độ tư bản tạo ra. Bởi
vì “Trong điều kiện sinh hoạt của họ thì mọi điều kiện sinh hoạt xã hội hiện đại đã đạt
tới điểm cao nhất của tình trạng phi nhân tính; vì trong giai cấp vô sản thì con người
đã mất đi chính bản thân mình, đồng thời con người không những có ý thức, trên mặt

lý luận, về sự mất mát đó mà còn có sự bức bách của sự bần cùng không tránh khỏi,
không che dấu nổi và tuyệt đối không gì chống lại được” [19, tr55-56]
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra, trong
quá trình đấu tranh chống giai cấp tư sản, dần dần, GCCN đã “thành lập những liên
minh chống lại bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình. Thậm chí, họ đi tới chổ
thành lập những đoàn thể thường trực để sẵn sàng đối phó, khi những cuộc xung đột
bất thần xảy ra. Ở một số nơi, cuộc đấu tranh của công nhân đã trở thành những cuộc


bạo động công khai” [16, tr 608]
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản cũng như sau này trong thư Mác gửi
Bôn-te (11-1871) và trong bài “Về lịch sử của Liên đoàn những người cộng sản” của
Ph.Ăngghen (1885), hai ông đều cho rằng: “phong trào chính trị của GCCN muốn
giành thắng lợi trước hết cần có tổ chức của GCCN đạt đến một trình độ phát triển
nào đó” [27, tr55]. Sự tổ chức thành chính đảng của GCCN như vậy là hết sức cần
thiết, tuy lúc đầu luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân phá vì, “nhưng nó luôn luôn
được tái hợp và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững chắc hơn, hùng mạnh hơn” [18, tr609]
Ngay trong “Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn những
cộng sản” (3-1850), C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Liên đoàn phải cố gắng để
thành lập bên cạnh phái dân chủ chính thống, một tổ chức đảng công nhân bí mật và
công khai độc lập và biến mỗi một chi bộ của mình thành hạt nhân của các hội liên
hiệp công nhân” [28, tr248]
Đảng của giai cấp vô sản phải đào tạo ra một đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ
của Đảng là người tuyên truyền tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản vào GCCN để
GCCN thấy được bản chất bóc lột của chế độ tư bản, thấy được sứ mệnh lịch sử của
mình; đồng thời thoát khỏi ảnh hưởng của các đảng tư sản. C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định: “Xưa nay, tư tưởng không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới
cũ được, trong bất cứ tình huống nào, tư tưởng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài
phạm vi tư tưởng, trật tự thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản không thể
thực hiện cái gỡ hết. Muốn thực hiện tư tưởng cần có những con người sử dụng lực

lượng thực tiễn” [18,tr154]
Bên cạnh nhiệm vô đào tạo ra đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền thì đòi
hỏi đối vài Đảng vô sản là phải ra đời “Báo đảng”, nó có nhiệm vụ: “Như vậy là, báo
chớ phải làm rõ những nguyên nhân của sự áp bức của tầng lớp quan lại, tầng lớp quý
tộc và giai cấp tư sản mà những người vô sản, những người tiểu nông và tiểu tư sản
thành thị phải chịu vì chính họ hình thành “nhân dân” ở Đức; phải làm sáng tỏ cái gì


đã quyết định sự xuất hiện không những của ách áp bức chính trị mà trước hết là của
ách áp bức xã hội và việc áp bức đó có thể bị thủ tiêu bằng những thủ đoạn gỡ; phải
chứng minh rằng việc những người vô sản, tiểu nông và tiểu tư sản thành thị giành
chính quyền là điều kiện tiên quyết để vận dụng những thủ đoạn đó”
[26, tr.384-385]
Đảng vô sản là tổ chức và lãnh đạo GCCN và nhân dân lao động tiến hành cuộc
đấu tranh giai cấp, trong cuộc đấu tranh đó: một mặt hướng các nội dung đấu tranh
vào đấu tranh chính trị, mặt khác phải sử dụng đấu tranh kinh tế làm phương tiện và
cơ sở để đấu tranh chính trị nhanh chúng giành được thắng lợi. C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định: “…Bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng là một cuộc đấu tranh chính trị…”
[26, tr608]
Đảng vô sản phải giành lấy chính quyền, lãnh đạo chính quyền để xây dựng xã
hội mới. “…giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự
vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc,…hãy xóa bỏ tình
trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị
xóa bỏ…” [26, tr624]
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, Đảng là đội tiên phong do đó, trước hết Đảng
phải có lý luận tiên phong dẫn đường. Thực tiễn cách mạng đó cho thấy bất cứ vấn đề
lớn nhỏ nào nếu chưa được sáng tỏ về mặt lý luận thì hoạt động cụ thể sẽ đi vào trong
lúng túng. Thậm chí có thể rơi vào bế tắc, khi đó có thể hoang mang mất phương
hướng. Ngay trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (1845- 1846), sau khi nghiên cứu, tổng
kết lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: “trong mọi thời đại,

những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có ý nghĩa
là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh
thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì
cũngg chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần” [30, tr66]
Trong khi tuyên truyền, quảng bá để xác lập hệ tư tưởng khoa học - cách mạng
của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng rất chú trọng lý giải một cách khoa


học về chủ nghĩa cộng sản trong phong trào công nhân. Trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản một lần nữa C.Mác và Ph.Ăngghen lại khẳng định: Những quan điểm lý luận
của những người cộng sản về chủ nghĩa cộng sản “tuyệt nhiên không dựa trên những
ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra.
Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một
cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt
chúng ta” [17, tr614-615]
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ: “Nhưng để giành được thắng lợi cuối
cùng, tự do sẽ phải làm nhiều hơn tất thảy; phải khai sáng cho bản thân mình về
những lợi ích của giai cấp mình, phải chiếm lĩnh càng nhanh càng tốt vị trí độc lập
của Đảng mình và không một phút giây nào để người phải dân chủ tiểu tư sản dựng
những luận điệu bịp bợm đẩy mình đi chệch con đường tổ chức độc lập của Đảng của
giai cấp vô sản. Khẩu hiệu chiến đấu của họ phải là “ Cách mạng không ngừng”
[18, tr185-189]
Để bảo vệ hệ tư tưởng khoa học - cách mạng của Đảng cộng sản, trong suốt quá
trình xây dựng và tuyên truyền quan điểm lý luận của Đảng, C.Mác và Ph.Ăngghen
cũng luôn đấu tranh phê phán các trào lưu tư tưởng phản động như: Chủ nghĩa xã hội
chân chính (Đức), Chủ nghĩa xã hội bảo thủ, chủ nghĩa cơ hội,...
C.Mác và Ph.Ăngghen đó chỉ ra rằng: “Họ đã lấy tài ba cá nhân của họ để thay
thế cho hoạt động xã hội; lấy những điều kiện tư tưởng thay cho những điều kiện lịch
sử của sự giải phóng; đem một tổ chức xã hội do bản thân họ hoàn toàn, thay thế cho
sự tổ chức một cách tuần tự và tự phát giai cấp vô sản thành giai cấp. Đối vài họ

tương lai của thế giới sẽ được giải quyết bằng cách tuyên truyền mọi hành động chính
trị và nhất là mọi hành động cách mạng; họ tìm cách đạt mục đích của họ bằng
phương pháp hòa bình và thử mở một con đường đi tới kinh phúc âm xã hội mới”
[17, tr640-641]
Từ sự vạch trần những quan điểm mơ hồ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa


cộng sản không tưởng như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đó kết luận: “chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản không tưởng - phê phán là theo tỷ lệ nghịch vài sự phát triển
của lịch sử. Đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt và càng có hình thức xác định thì
cái ý định ảo tưởng vài đấu tranh giai cấp ấy, cái thái độ đối lập một cách ảo tưởng vài
đấu tranh giai cấp ấy, càng mất hết mọi giá trị thực tiễn, mọi căn cứ lý luận của
chúng” [17,tr. 642]

1.2.1.2. Những nguyên tắc tổ chức của Đảng [Xem 39]
Đối với Đảng của GCCN tổ chức như thế nào là trong sạch, vững mạnh đó trở
thành vấn đề quan trọng nhất và quyết định trong xây dựng Đảng.
Đảng hoạt động theo nguyên tắc và hình thức nhất định, do đó C.Mác và Ph.Ăngghen
luôn luôn khẳng định vai trò to lớn, mang ý nghĩa quyết định của tổ chức Đảng. Hai
ông cho rằng Đảng cộng sản là đội tiên phong có tổ chức của GCCN, toàn bộ đời
sống và hoạt động của Đảng được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội
khoa học. Do vậy, Đảng cộng sản phải được tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật bắt buộc
đối vài mọi đảng viên, phải có sự thống nhất chặt chẽ về mặt tư tưởng và tổ chức
trong Đảng.
Thứ nhất, xây dựng Đảng cộng sản thành một đảng độc lập, thống nhất, có hệ
thống tổ chức chặc chẽ và kỷ luật nghiêm minh
Đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng được C.Mác và
Ph.Ăngghen đề cập trong nhiều tác phẩm từ cuối những năm 40 của thế kỷ XIX, ngay
khi tổ chức liên đoàn những người cộng sản vừa mới ra đời.
Ngay trong “Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn những

người cộng sản” (3-1850), C.Mác và Ph.Ăngghen đó chỉ ra nguyên nhân khiến liên
đoàn bị suy yếu là do có những khu bộ, chi bộ tổ chức lỏng lẻo, bỏ lửng và nhân dân
cắt đứt mối liên hệ Ban Chấp hành Trung ương, do đó bị giai cấp tư sản lợi dụng. Từ
đó, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng: “Đảng công nhân phải hành động sao cho
thật có tổ chức, thật thống nhất, thật độc lập” [28, tr343]


Nghiên cứu các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen cho thấy, nội dung tư
tưởng, quan điểm xây dựng Đảng về tổ chức gồm nhiều vấn đề hết sức cơ bản như:
vấn đề xây dựng Điều lệ; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng; vấn đề cán bộ; đảng viên;
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng: Một là, vài quan điểm xây dựng Đảng về
tổ chức của C.Mác và Ph.Ăngghen, vấn đề quan trọng đầu tiên là phải xây dựng Điều
lệ của Đảng, phải xây dựng một “ bộ luật” của Đảng để làm cơ sở, nguyên tắc cho
mọi tổ chức và hoạt động của Đảng. Chính vì vậy, ngay sau khi thành lập Liên đoàn
những người cộng sản cũngg như sau khi thành lập Hội liên hiệp công nhân quốc tế,
cùng vài việc soạn thảo các Điều lệ của Liên đoàn và Hội Liên hiệp công nhân, ngay
trong Điều lệ đầu tiên của Liên đoàn những người cộng sản (12-1847) đó có 10
chương, 50 điều. Trong đó quy định tương đối cụ thể về các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của toàn Đảng, từng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Hai là, hệ thống tổ chức của Đảng đó được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập
trong các bản Điều lệ.
Nhìn chung, các bản Điều lệ đó quy định rõ chức năng, nhiệm vô, trách nhiệm
và quyền hạn của mỗi bộ phận trong hệ thống tổ chức của Liên đoàn cũngg như của
Hội liên hiệp công nhân. Trong đó, chi bộ (tối thiểu gồm 3 đảng viên) được coi là tổ
chức hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, Ban Chấp hành Trung ương (tối thiểu gồm
3 ủy viên) là cơ quan chấp hành quyền lực và Đại hội là cơ quan “quyền lực lập pháp”
của toàn liên đoàn cũngg như của Hội liên hiệp công nhân.
Ba là, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập trong nhiều tác phẩm, cụ thể và tập trung nhất là
trong các bản Điều lệ của Liên đoàn những người cộng sản và Hội Liên hiệp công

nhân quốc tế. Mặc dự trong tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa sử khái niệm “tập
trung dân chủ”. Song, tư tưởng, quan điểm về nguyên tắc này đó được hai ông thể
hiện một cách khá rõ trong các bản Điều lệ, đó là:
Nguyên tắc cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương, (Chi bộ phục tùng khu bộ; Khu bộ phục tùng Tổng khu bộ; Tổng khu bộ phục


tùng Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Trung ương phục tùng Đại hội Điều lệ Liên hiệp những người cộng sản); “các chi bộ của Hội Liên hiệp công nhân
quốc tế bị cấm có những Điều lệ và quy chế mâu thuẫn vài Điều lệ và quy chế của
Hội Liên hiệp công nhân” [30, tr357]
Bốn là, vấn đề đảng viên. Đây cũng là một vấn đề được C.Mác và Ph.Ăngghen
đề cập ở nhiều tác phẩm, trong đó, cụ thể nhất là trong các bản Điều lệ của Liên đoàn
những người cộng sản (1847) và Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (1864)
vài nhiều tên gọi khác nhau: “người cộng sản”, “hội viên”, Liên đoàn những người
cộng sản và Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế. Lần đầu tiên, trong Điều lệ
Liên đoàn những người cộng sản (văn bản có ghi chú của Mác - tháng Giêng 1851),
Mác đã dùng thuật ngữ “đảng viên”. Nhìn chung, vấn đề đảng viên đó được C.Mác và
Ph.Ăngghen đề cập một cách cụ thể, trong đó có các vấn đề cơ bản như: điều kiện,
tiêuchuẩn và thủ tục kết nạp đảng viên; trách nhiệm, nghĩa vụ của đảng viên… theo tư
tưởng, quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, đảng viên phải là những người có: lối
sống và hoạt động phù hợp vài mục đích của Đảng; có tinh thần cách mạng và lòng
nhiệt thành, khả năng trong công tác tuyên truyền; thừa nhận chủ nghĩa cộng sản, kiên
định lập trường, không theo bất cứ thứ tôn giáo nào; am hiểu những điều kiện, tiến
trình phát triển và mục đích cuối cùng của phong trào vô sản; đảng viên có trách
nhiệm phục tùng các Nghị quyết, Điều lệ của Đảng phục tùng tổ chức và kỷ luật của
Đảng; đóng Đảng phí đầy đủ và có nghĩa vô giúp đỡ các đảng viên khác “như anh
em” trong Đảng.
Năm là, vấn đề cán bộ.
Mặc dù chưa có những tác phẩm chuyên biệt, bàn riêng về vấn đề cán bộ một
cách cụ thể. Song, tư tưởng, quan điểm về vấn đề cán bộ đó được C.Mác và

Ph.Ăngghen sớm đề cập ở một vài tác phẩm ngay từ đầu những năm 40 của thế kỷ
XIX, trước khi Liên đoàn những người cộng sản ra đời. Đó là khi các ông nghiên cứu
về vấn đề vai trò của cỏ nhân đối vài xã hội và vai trò của vĩ nhân trong lịch sử.


Trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” (1844), C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra vai trò
quan trọng của người lãnh đạo, người tổ chức trong xã hội, rằng “xưa nay, tư tưởng
không thể đưa người ra ngoài trật tự thế giới cũ được…tư tưởng cơ bản không thể
thực hiện được cái gỡ hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những người sử dụng
lực lượng thực tiễn” [19, tr181]
Sáu là, vấn đề phê bình, tự phê bìnhvà đoàn kết thống nhất trong Đảng.
C.Mác và Ph.Ăngghen coi tự phê bìnhvà phê bìnhlà một phương pháp phát
triển và sửa chữa thiếu sót, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, cũngg là biện pháp
căn bản củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Theo hai ông, tự phê
bìnhvà phê bìnhlà rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của một Đảng.
Việc Đảng phê bình hoạt động đó qua của mình là việc tuyệt đối cần thiết và bằng
cách đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn. Và, chính bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen
trong suốt nửa thế kỷ hoạt động cách mạng, khoa học cũngđó để lại những tấm gương
sáng ngời về tinh thần đấu tranh phê bình, tự phê bìnhvà giữ gìn sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng.
Hai ông đã thấy rõ sức mạnh của sự đoàn kết thống nhất của nhà kinh điển rất
coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng,
Tháng 10-1864, trong “Điều lệ chung của Đại hội Liên hợp công nhân quốc tế”,
C.Mác và Ph.Ăngghen đó khẳng định: “Thành công của phong trào công nhân mỗi
nước chỉ có thể bảo đảm bằng lực lượng đoàn kết và tổ chức” [31, tr586]
Và C.Mác – Ph.Ăngghen cũng nêu lên tính quốc tế của phong trào cộng sản là
tất yếu, bởi vì “chủ nghĩa tư bản cũng mang tính quốc tế cả về kinh tế và chính trị
(liên kết quốc tế chống giai cấp vô sản). “Công nhân quốc tế của giai cấp vô sản
không chỉ thể hiện bằng tinh thân, lời nói “tình hữu nghị” suông như cương lĩnh nêu
mà phải có “chức năng quốc tế” phải có sự phối hợp hành động thực tế” [26, tr484]

1.2.1.3. Vai trò của Đảng
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột giai
cấp gắn liền vài cuộc đấu tranh xóa bỏ tình trạng nô dịch dân tộc. C.Mác và


Ph.Ăngghen khẳng định: “Hãy xỏa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng
dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai
cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng
thời mất theo” [26,tr 624]
Khi có chính quyền, Đảng phải tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng, Đảng phải thường xuyên tự đấu tranh trong nội bộ Đảng nhằm để tăng cường
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong quần chúng.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đề đề cập đến nội dung cơ
bản về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản và khẳng định rằng, giai cấp vô
sản không thể tự giải phóng mình nếu không đồng thời giải phóng toàn xã hội. Song,
giai cấp vô sản không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức thành chính
đảng của giai cấp. Đảng được hình thành và phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử
của giai cấp vô sản. Quan điểm cơ bản về chủ nghĩa duy vật, về đấu tranh giai cấp, về
sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, về xây dựng chính đảng của GCCN đã
được Mác – Ăngghen trình bày từ trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.
Giai cấp vô sản hiện đại là người có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và
sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Giai cấp vô sản cũng là sản phẩm của nền đại
công nghiệp, cùng vài sự phát triển của đại công nghiệp các giai cấp khác dần bị phân
hóa, suy tàn và tiêu vong, chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng vài sự phát triển của
công nghiệp. Để đảm bảo cho sự thắng lợi, giai cấp vô sản phải có những điều kiện
đảm bảo cho công cuộc tự giải phóng mình, điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính những cuộc đấu tranh đó tạo điều kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết lại
thành tổ chức, là chính Đảng, sự tồn tại và phát triển của Đảng về sứ mệnh của giai

cấp vô sản.
Trong cuộc đấu tranh đó, Đảng cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng ngũ của
mình giai cấp vô sản mà cùng cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu công nghiệp


tiểu thương, thợ thủ công, nông dân, họ đó tự nguyện từ bỏ quan điểm của giai cấp họ
để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích tương lai của họ. Thực tiễn
đó khẳng định rằng, các tầng lớp trung gian và cả giai cấp thống trị cũngg có thể từ bỏ
lập trường giai cấp của mình để tham gia vào hàng ngũ của giai cấp vô sản.
Sự trưởng thành của giai cấp vô sản được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng
cộng sản, nhưng đảng khác vài toàn bộ giai cấp vô sản ở tính tiên phong. Tính tiên
phong của Đảng là tiên phong trong hành động thực tiễn, tiên phong về lý luận. Tuyên
ngôn Đảng cộng sản đó trình bày: “Vậy là, về mặt thực tiễn những người cộng sản là
bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn
luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận họ hơn bộ phận cũngg lại của giai cấp
vô sản ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào
vô sản” [26,tr. 614- 615]
Vai trò tiên phong của Đảng đảm bảo cho Đảng tập hợp được giai cấp vô sản.
Từ cơ sở lý luận của hai tác phẩm trên mà chúng ta thấy rõ mối quan hệ gắn bó chặt
chẽ giữa Đảng vài quần chúng nhân dân, vài GCCN là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản. Đây là các nhân tố không thể tách
rời nhau, nó phải đồng thời cùng tồn tại mới phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của nỳ
nhằm hướng tới mục tiêu chung là giải phóng giai cấp, giải phóng toàn nhân loại.
Vị trí, vai trò lãnh tụ chính trị và sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ
mật thiết vài quần chúng. Đảng muốn có sức mạnh, muốn có lực lượng cách mạng thì
phải liên hệ mật thiết vài giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân. Đó là sự thể
hiện bản chất GCCN và là vấn đề có ý nghĩa sống cũng của Đảng cộng sản.
Đảng phải kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa cộng sản và đứng vững trên
lập trường giai cấp công nhân, đề ra đường lối, sách lược đỳng đắn để lãnh đạo cuộc
cách mạng vô sản giành thắng lợi. Vai trò lãnh đạo của Đảng không phải dễ dàng

được giai cấp công nhân và quần chúng thừa nhận chỉ qua lời tuyên bố, mà điều quan
trọng phải đề ra được đường lối chính trị đúng đắn mới có thể đoàn kết xung quanh
mình mọi giai cấp, mọi tầng lớp có ý thức và quan từm đến việc lật đổ chế độ tư hữu.


Đảng phải là một khối thống nhất, có kỷ luật nghiêm minh. Đảng bao gồm những
phần tử ưu tú, giác ngộ cách mạng nhất của GCCN.

1.2.2. Những vấn đề đặt ra với lý luận của chủ nghĩa Mác về đảng của GCCN
V.I.Lênin người kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời kỳ
chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Thời kỳ chiến tranh và cách
mạng đã bắt đầu, bước sang giai đoạn cách mạng vô sản đã trở thành vấn đề trực tiếp.
Nhiệm vô chuẩn bị tiến hành cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vô trước mắt của
GCCN. Trong giai đoạn này GCCN đã lớn mạnh về số lượng và cả về tổ chức và chính
trị, ý thức giác ngộ về giai cấp và vai trò của các chính Đảng của GCCN đã được nâng
cao. Trong tình hình như vậy, chủ nghĩa đế quốc buộc phải tăng cường việc tuyên truyền
những quan điểm tư tưởng tư sản vào phong trào công nhân, chúng luôn luôn ráo riết tìm
mọi cách đẩy mạnh sự phát triển của chủ nghĩa cơ hội, xét lại trong các Đảng công nhân
và nhằm chia rẽ phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Trong khi đó, những người đứng đầu của các Đảng dân chủ xã hội chủ yếu ở
các nước Tây Âu ngày càng lún sâu vào chủ nghĩa cơ hội, chúng đòi xét lại chủ nghĩa
Mác, và luôn luôn tìm mọi cách để hạn chế phong trào cách mạng của GCCN trong
khuôn khổ đấu tranh đòi cải cách cục bộ, không đã động, ảnh hưởng đến nền móng
của CNTB. Vài tình hình hoạt động của phong trào công nhân và các Đảng dân chủ
xã hội như vậy. Đã làm xuất hiện yêu cầu cấp thiết là phải đấu tranh kiên quyết vài
chủ nghĩa cơ hội bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, tổ chức ra Đảng kiểu mới
của GCCN. Thông qua hoạt động thực tiễn, V.I.Lênin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
đó, Người đã vạch trần bản chất xét lại của bọn cơ hội chủ nghĩa trong các Đảng dân chủ
xã hội ở Tây Âu. Qua đó V.I.Lênin đã nhận thấy cần phải thành lập ra một Đảng kiểu
mới, một Đảng thực sự cách mạng đủ sức lãnh đạo phong trào quần chúng giành chính

quyền thực hiện cuộc cách mạng vô sản, cải tạo xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới
xã hội - XHCN và CSCN.


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới và ở nước Nga, đòi hỏi
phải phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới để phù hợp với thực tiễn
đã thay đổi trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. Giai
cấp tư sản âm mưu xuyên tạc, xóa bỏ chủ nghĩa Mác, bên cạnh đó, phong trào đấu tranh
của quần chúng nhân dân ở Nga nói riêng và trên toàn thế giới phát triển mạnh mẽ, có
những đòi hỏi bức thiết phải có một tổ chức Đảng Cộng sản chân chính đứng ra lãnh đạo.
Trước những đòi hỏi đó,V.I.Lênin, người học trò xuất sắc của Mác và Ph.Ăngghen
đã đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi những phần tử cơ hội, không chỉ thế, ông còn
làm sáng tỏ và phát triển thêm chủ nghĩa Mác,trong đó có những luận điểm về Đảng của
GCCN được trình bày trong chương II


CHƯƠNG 2: LENIN BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1. Về quy luật ra đời của Đảng Cộng sản và các đặc điểm cơ bản của Đảng

Quy luật ra đời của Đảng, theo Lênin trước tiên bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn
cần phải có một lý luận cách mạng khoa học và cách mạng soi đường cho cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Trong tác phẩm Làm gì Lênin viết:
“Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai
trò chiến sĩ tiền phong” [16,tr32]. Lý luận cách mạng khoa học ấy là “ý thức dân
chủ-xã hội”, là sản phẩm của lao động sáng tạo khoa học của các nhà lý luận chính trị
vô sản, nó được hình thành ngoài phong trào công nhân “Như vậy là đồng thời vừa có
sự thức tỉnh tự phát của quần chúng công nhân, thức tỉnh về sinh hoạt tự giác và về
đấu tranh tự giác, lại vừa có một lớp thanh niên cách mạng được vũ trang bằng lý luận

dân chủ - xã hội nóng lòng gần gũi công nhân.”[16,39]
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác, để tiến hành đấu tranh giai cấp, thì
phải có một tổ chức mạnh mẽ để lãnh đạo phong trào cách mạng liên tục và triệt
để.
Trong tác phẩm Làm gì, Lênin đã nêu: “Cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp
vô sản sẽ không trở thành cuộc "đấu tranh giai cấp" thực sự của giai cấp vô sản,
chừng nào nó chưa được một tổ chức mạnh mẽ gồm những người cách mạng lãnh
đạo.” [16,tr173]
“Nhiệm vô trước nhất và cấp bách nhất là: lập ra một tổ chức những người
cách mạng có khả năng bảo đảm cho cuộc đấu tranh chính trị có được nghị lực, tính
triệt để và tính liên tục.” [16, tr134]
Theo Lênin, tổ chức đó phải có khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng của
quần chúng, biết tập hợp quần chúng, tổ chức ra những cuộc tấn công vào chế độ


tư sản thật sự chứ không phải chỉ là những cuộc tấn công trong ý nghĩ, trong giấy
tờ. Một chính đảng phải hoạt động trong mọi lĩnh vực, đấu tranh trên mọi mặt trận,
giáo dục, rèn luyện, tập hợp đội ngũ những người làm công việc đấu tranh đó:
“Một chính đảng đấu tranh chống mọi ách áp bức về kinh tế, chính trị, xã hội,
dân tộc, chúng ta có thể và phải tìm ra, tập hợp, huấn luyện, huy động và đưa vào hoạt
động cái đạo quân những người biết tất cả mọi việc ấy” [16,tr191]
“Cần phải "kêu gọi lập ra một tổ chức cách mạng có khả năng đoàn kết mọi
lực lượng và lãnh đạo phong trào, lãnh đạo không những trên danh nghĩa, mà cả trên
thực tế nữa, nghĩa là một tổ chức phải luôn luôn sẵn sàng ủng hộ mọi sự phản kháng
và mọi sự bùng nổ, và sử dụng những sự phản kháng và sự bùng nổ đó để mở rộng
và củng cố các lực lượng quân sự cần thiết cho trận quyết chiến"” [16,tr206]
“Cần phải nói đến một tổ chức duy nhất của những người cách mạng cho
toàn nước Nga, và từ nay cho đến tận ngày nổ ra cuộc tấn công thật sự, chứ không
phải tấn công trên giấy, thì nói đến một tổ chức như vậy cũng không phải là quá
muộn.” [16,tr222]

Theo Lênin, sự ra đời của Đảng không để giành những quyền lợi trước mắt mà
mục đích cuối cùng đó là thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu sự áp bức, bóc lột
“Đảng dân chủ - xã hội lãnh đạo cuộc đấu tranh của GCCN, không những là để đạt
được những điều kiện có lợi trong việc bán sức lao động, mà còn là để thủ tiêu cái chế
độ xã hội nó bắt buộc những người tay trắng phải bán mình cho bọn nhà giàu. Đảng dân
chủ - xã hội đại diện cho GCCN không phải trong mối quan hệ của họ đối vài một
nhóm chủ thuê nhất định, mà là trong mối quan hệ vài tất cả các giai cấp trong xã hội
hiện đại, vài nhà nước, một lực lượng chính trị có tổ chức.” [16, tr71-72]
Để có thể trở thành một lực lượng tiên phong thực sự, phải cho nhân dân thấy
rõ được bộ mặt bóc lột, phản động của giai cấp cầm quyền thông qua những cuộc tố
cáo trước toàn dân: “Đảng nào tổ chức được những cuộc tố cáo thực sự trước toàn


dân mới có thể trở thành đội tiền phong của các lực lượng cách mạng” [16,tr114] và
“Những người dân chủ - xã hội là những người tổ chức những cuộc tố cáo ấy; ở
chỗ tất cả những vấn đề mà công tác cổ động đề ra đều sẽ làm sáng tỏ theo một
tinh thần dân chủ - xã hội kiên quyết, không tha thứ một chút nào những sự xuyên
tạc chủ nghĩa Mác một cách vô tình hay hữu ý; ở chỗ cuộc cổ động chính trị toàn
diện ấy sẽ được tiến hành bởi một đảng hợp nhất được thành một khối không gì phá vì
nổi việc nhân danh toàn dân mà tiến công chính phủ, việc giáo dục cách mạng cho giai
cấp vô sản, đồng thời bảo vệ sự độc lập chính trị của giai cấp vô sản, sự lãnh đạo cuộc
đấu tranh kinh tế của GCCN, sự lợi dụng những xung đột tự phát của GCCN vài những
kẻ bóc lột họ, những sự xung đột làm cho có thêm nhiều lớp của giai cấp vô sản nổi dậy
và nhập vào phía chúng ta!” [16, tr115]
2.2. Về nguyên tắc tổ chức của Đảng [Xem 38]

Thứ nhất, Đảng là đội tiên phong của GCCN.
Nguyên lý Đảng là đội tiên phong của GCCN đã được C.Mác và P.h.Ăng ghen
nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản từ năm 1848. nhưng phái thiểu số ( tức
phái Men sê vích) chủ trương xoá nhoà ranh giới giữa Đảng với giai cấp , theo phái

thiểu số họ cho rằng: “Dĩ nhiên, trước hết, chúng ta thành lập một tổ chức, gồm
những phần tử tích cực nhất của đảng, một tổ chức những ngời cách mạng; nhưng, là
đảng của giai cấp, chúng ta cần chú ý đừng bỏ ở ngoài đảng những người có ý thức
gắn bó với đảng, dù họ có thể không tỏ ra tích cực lắm”[19, tr289]
Như vậy theo quan điểm của phái thiểu số thì số lượng đảng viên càng đông
càng tốt, và có xu hướng hạ thấp vị trí của đảng . V.I.Lênin đã kịch liệt phản đối diều
đó và xác định : “Thật vậy, không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của
GCCN, với toàn bộ giai cấp” [19, tr289]
Đảng là một bộ phận của giai cấp, nhưng phải phân biệt với toàn bộ giai cấp.
Theo V.I. Lênin, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt
chẽ, có giác ngộ cách mạng nhất của giai cấp, Đảng là người mang yếu tố tự giác vào


phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động viên,
tổ chức quần chúng hành động cách mạng. Đảng phải cải tổ toàn bộ công tác của
mình, không được hạ thấp Đảng ngang trình độ của quần chúng bình thường. V.I.
Lênin viết: “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của GCCN, với toàn bộ
giai cấp... Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la
của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau
giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiền phong đó; nếu chúng
ta quên mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp
ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến.” [19, tr.289 – 290]
“Chúng ta là đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong thời
kỳ chiến tranh, trong thời kỳ nội chiến thì toàn bộ giai cấp không một người nào cả)
cần phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để siết thật chặt hàng ngũ
chung quanh đảng.” [19,tr289]
Theo Lênin, nếu trong tổ chức đảng tập hợp được những người càng mạnh mẽ,
chân chính, chiến đấu vì lý tưởng của đảng chứ không phải vì lợi ích cá nhân thì nội
bộ đảng sẽ ít mâu thuẫn xảy ra và từ đó, tổ chức đảng sẽ trong sạch, lôi kéo, tập hợp
được nhiều quần chúng tin tưởng và đi theo: “Các tổ chức đảng của chúng ta bao gồm

những người dân chủ - xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ bao nhiêu, và trong nội bộ
đảng càng ít có tình trạng dao động và không kiên định bao nhiêu, thì ảnh hưởng của
đảng đối vài những người trong quần chúng công nhân chung quanh đảng và chịu sự
lãnh đạo của đảng, sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt, càng phong phú, càng hiệu quả
bấy nhiêu. Thật vậy, không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của GCCN, vài
toàn bộ giai cấp”

[19, tr288-289]. Không chỉ thế, khi một người đã được giác ngộ lý

tưởng chân chính của đảng thì họ sẽ gạt bỏ những chủ nghĩa theo đuôi khác: “Người
vô sản, khi đã trở thành một người dân chủ - xã hội giác ngộ và tự cảm thấy mình là
đảng viên, thì họ sẽ bác bỏ chủ nghĩa theo đuôi trong vấn đề tổ chức, cùng vài một thái
độ khinh bỉ mà họ đã tỏ ra đối vài chủ nghĩa đó trong vấn đề sách lược” [19, tr457]
Cũng như C. Mác khẳng định trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản, V.I. Lênin đã nhấn mạnh vai trò tiên phong của Đảng cộng sản được thể hiện


trước hết trên lĩnh vực lý luận, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Chỉ đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong. Đối
với người đảng viên Đảng cộng sản ( ĐCS), điều đòi hỏi đầu tiên về tư cách là phải
giác ngộ lý tưởng CSCN, có trình độ lý luận nhất định về chủ nghĩa xã hội khoa học,
nắm được đường lối, chính sách của Đảng. “Với một tổ chức như thế, một tổ chức
xây dựng trên một cơ sở lý luận thật vững chắc và có một cơ quan ngôn luận dân
chủ - xã hội thì không có gì phải sợ rằng phong trào sẽ bị nhiều phần tử "bên ngoài"
đã gia nhập làm cho lạc hướng”
[16, tr166]
Lênin còn chỉ ra đó không chỉ là lý luận suông do đầu óc chủ quan tự xuất hiện
mà đó là lý luận được đúc kết từ thực tiễn, do những điều kiện khác quan tạo thành và
được đưa vào lý luận, có như thế nó mới là lý luận cách mạng đúng đắn: “Chỉ có trải
qua một công tác lâu dài, một kinh nghiệm gian khổ, mới tạo ra được những điều kiện

ấy, nhờ có lý luận cách mạng đúng đắn, nó không phải là giáo điều và chỉ hình thành
hẳn được do có sự liên hệ chặt chẽ vài thực tiễn của một phong trào thật sự quần
chúng và thật sự cách mạng, thì việc tạo ra được những điều kiện đó mới được thuận
lợi” [17,tr8]
Đảng tồn tại không chỉ với vai trò tiên phong của mình mà Đảng phải tập hợp,
lãnh đạo quần chúng nâng cao trình độ giác ngộ cho quần chúng lên ngang tầm
trình độ của những người cách mạng, “tiến hành một công tác giáo dục, huấn luyện,
bồi dưỡng lâu dài, làm cho họ có kinh nghiệm về cuộc sống và về những vấn đề
chính trị” [17, tr67]
Đảng phải có đội ngũ những nguời đi tiên phong, không sợ những lời đe
dọa, tránh xa khỏi những cạm bẫy để làm gương tập hợp quần chúng làm cách
mạng:“Muốn biết cách giúp đỡ “quần chúng” và tranh thủ sự đồng tình, sự gắn bó
và sự ủng hộ của "quần chúng" thì đừng sợ những khó khăn, đừng sợ những lối
gây sự, những cạm bẫy, những lời lăng mạ, những sự bức hại của “bọn thủ lĩnh”
(tức là bọn cơ hội chủ nghĩa và xã hội - sô-vanh, họ phần nhiều đều trực tiếp hay
gián tiếp cấu kết vài giai cấp tư sản và vài cảnh sát), và nhất thiết phải công tác ở
bất cứ nơi nào có quần chúng” [17, tr45]


×