Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.67 KB, 21 trang )

TÊN ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học, giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là
một yêu cầu bức thiết đối với ngành giáo dục, với mỗi nhà trường và mỗi giáo viên
hiện nay. Sự phát triển như vũ bão của Khoa học công nghệ đã có những tác động
không nhỏ đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Trong điều kiện đất nước mở
rộng giao lưu và hội nhập, một luồng văn hóa mới từ các nước đã tác động đến tư
tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức cuả thế hệ trẻ, trong đó có học sinh THPT. Thế hệ
trẻ hôm nay dẽ dàng học đòi, bắt chước, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu từ
xã hội, từ mạng Internet…Trong các nhà trường, học sinh có xu hướng gia tăng
về bạo lực học đường, về sự liều lĩnh, ứng phó không lành mạnh. Một bộ phận
không nhỏ có lối sống thụ động, sống ích kỉ, vô tâm, khép mình…. Đồng thời kĩ
năng thực hành giao tiếp, kĩ năng tự chủ trong cuộc sống, kĩ năng phục vụ bản
thân… còn yếu, kém. Thực tiễn này đã khiến các nhà giáo dục và những người tâm
huyết với sự nghiệp giáo dục đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống
cho thế hệ trẻ trong đó có học sinh THPT. Giáo dục kĩ năng sống hoặc giáo dục dựa
trên tiếp cận kĩ năng sống có thể cung cấp cho các em các kĩ năng để giải quyết các
vấn đề nảy sinh từ các tình huống thách thức. Mặt khác, kĩ năng sống là một phần
quan trọng trong nhân cách con người trong xã hội hiện đại. Với mong muốn học
sinh có những kĩ năng mềm cần thiết, đặc biệt là sự tự chủ trong cuộc sống, tôi
chọn đề tài nghiên cứu: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác
chủ nhiệm.
Sự thành công bước đầu của đề tài này ít nhiều đã mang lại sự tự chủ, tự tự tin cho
học sinh trong học tập và trong cuộc sống.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Giáo dục những kỹ năng cần thiết cho học sinh như: Kỹ năng phản biện, kỹ năng
giải quyết vấn đề, kỹ năng tự chủ, kỹ năng làm việc nhóm, …, tạo sự tự tin cho


1


học sinh khi bước vào cuộc sống. Qua đó, nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông thông qua việc
tham gia theo dõi, quản lí lớp.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu các đề tài, các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về vấn
đề giáo dục và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT; Quy chế đánh giá, xếp
loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông; phân tích, tổng hợp
những tài liệu lí luận về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông.
1.4.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
1.4.2.1.Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp được thực hiện nhằm tìm hiểu các nguyên nhân về thực trạng thiếu
kỹ năng sống của học sinh THPT. Phương pháp được thực hiện với học sinh lớp
10A2, năm học 2016 - 2017.
1.4.2.2.Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Phương pháp được thực hiện nhằm thu thập thông tin về tính hiệu quả của đề tài.
Đối tượng được điều tra gồm GVCN và học sinh các lớp có áp dụng đề tài trong
học kì I, năm học 2017 – 2018.
1.4.2.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp được thực hiện nhằm kiểm tra tính ứng dụng của đề tài. Đối tượng
thực nghiệm là HS lớp 10A2, năm học 2016 – 2017.
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở viết sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. 1.Xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về Giáo dục và Đào

tạo
2


Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi mạnh mẽ nội dung,
phương pháp giáo dục trong các nhà trường, đồng thời đòi hỏi giáo dục phải có sứ
mạng đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện để cung cấp được nguồn
nhân lực có trình độ cao, góp phần tạo lập nền tảng và động lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức rõ được sứ mệnh của ngành giáo dục,
Đảng và nhà nước đã chỉ đạo: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn
diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng,
đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội”. Đồng thời yêu cầu ngành Giáo dục cần: “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ
năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức
học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. [3]
Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước, Bộ giáo dục cũng có nhiều
điều chỉnh, bổ sung trong đường lối chiến lược của ngành. Ngay từ những năm đầu
của thế kỉ XXI, Bộ đã quy định: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". [5]
Ở trang này, đoạn “Nhận thức rõ được sứ mệnh …. trong dạy và học” tác giả tham khảo từ TLTK số 3. Đoạn
"Phương pháp giáo dục phổ thông… cho học sinh” tác giả tham khảo từ TLTK số 5. Còn lại do tác giả tự viết ra.


3


Những chiến lược của Đảng, của ngành đưa ra nhằm nhằm đào tạo được
nguồn nhân lực mới - những con người không chỉ có tri thức, có phầm chất đạo đức
tốt mà còn rất cần phải có kĩ năng sống, kĩ năng hòa nhập. Chính vì thế, giáo dục
kỹ năng sống trở thành một mục tiêu quan trọng đối với ngành giáo dục nước nhà.
2.1.1. 2.Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trung học phổ thông.
* Khái niệm kỹ năng sống
Kỹ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi
lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Tổ chức Y tế Thế giới WHO (1993) định nghĩa: Kỹ năng sống là năng lực
tâm lí, xã hội, là khả năng ứng phó một cách có hiệu quả với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một cá nhân để duy trì một
trạng thái khỏe mạnh về một tinh thần, biểu hiện qua các hành vi phù hợp và tích
cực khi tương tác với người khác, với nền văn hóa và môi trường xung quanh.
Năng lực tâm lí xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức khỏe theo
nghĩa rộng nhất về thể chất, tinh thần và xã hội. Kĩ năng sống là khả năng thể hiện,
thực thi năng lực tâm lí xã hội này [7]. Cũng theo WHO, kỹ năng sống được chia
thành hai loại là kỹ năng tâm lý xã hội và kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với
10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp
ứng xử với người khác, ứng phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết
cảm thông, tư duy bình luận và phê phán, cách quyết định, giao tiếp hiệu quả và
cách thương thuyết [1].
Theo UNICEF (UNICEF Thái Lan, 1995): Kỹ năng sống là khả năng phân
tích tình huống và ứng xử, khả năng phân tích các ứng xử và khả năng tránh được

các tình huống. Các kỹ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến

thức “cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị “cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”
4


thành hành động thực tế “làm gì và làm cách nào” là tích cực nhất và mang tính
chất xây dựng [7].
UNESCO (2003) quan niệm: Kỹ năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện
đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Đó là khả năng làm
cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực, giúp con
người có thể kiểm soát, quản lí có hiệu quả nhu cầu và những thách thức trong cuộc
sống hàng ngày [8].
Có thể thấy, mỗi định nghĩa về kỹ năng sống được thể hiện dưới những góc
nhìn khác nhau, song đều thống nhất trên nội dung cơ bản. Ấy là những kỹ năng
thực hành mà con người cần để có được sự an toàn, cuộc sống khỏe mạnh với chất
lượng cao; hướng vào việc giúp con người thay đổi nhận thức, thái độ và giá trị
trong những hành động theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây dựng. Nói
cách khác, kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng mà con người có được thông qua
học tập, đúc rút kinh nghiệm để xử lý những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
* Tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học
phổ thông.
Kỹ năng sống rất cần với tất cả mọi người, chứ không riêng gì học sinh. Tuy
nhiên, học sinh là đối tượng thường được quan tâm đầu tiên trong việc giáo dục kỹ
năng sống. Theo nhiều chuyên gia tâm lý, học sinh trung học phổ thông là giai đoạn
phát triển rất cao về thể chất và có những biến chuyển tâm lý hết sức phức tạp. Tính
chủ định trong nhận thức của các em đã phát triển, tri giác có mục đích đã đạt tới
mức cao, quan sát trở nên có mục đích, hệ thống và toàn diện hơn. Cũng ở lứa tuổi
này, các em có khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng
tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và tính nhất quán hơn, tính phê
phán cũng phát triển. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu đánh giá những đặc điểm
tâm lí của mình. Các em có khả năng đánh giá mặt mạnh, mặt yếu của bản thân

mình và những người xung quanh, có những biện pháp kiểm tra đánh giá sự tự ý
thức bản thân, biết đặt mình trong sự tương quan với những người khác để nhận ra
5


vị trí của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai [9]. Tuy nhiên, nếu thiếu sự
hướng dẫn của giáo viên thì các em vẫn là những con người thụ động, dễ có những
phản ứng thái quá. Đôi khi ví một lí do nào đó, các em sẽ trở nên bất mãn, chán
nản, bỏ bê học tập. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, nhất là học
sinh THPT là điều hết sức cần thiết bởi nó sẽ để lại trong quá trình phát triển nhân
cách một định hướng tốt. Cái nôi đầu tiên cho việc hình thành kỹ năng sống không
đâu khác chính là môi trường trường học, nơi hàng ngày diễn ra cuộc sống thực của
các em. Nhưng rèn luyện kỹ năng cho học sinh như thế nào cho hiệu quả luôn là
vấn đề trăn trở của các nhà trường, của những người làm công tác giáo dục và của
toàn xã hội hiện nay.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Ở Việt Nam, những năm gần đây, Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo các
trường học phải tiến hành giáo dục kỹ năng sống (trong đó có nội dung giáo dục kỹ
năng mềm) nhưng mới chỉ dừng lại ở các văn bản chỉ đạo chứ chưa có một giờ học
cụ thể mang tên môn học kỹ năng sống hay kỹ năng mềm; tài liệu hướng dẫn còn
sơ lược. Nếu các bộ môn văn hóa đều có chương trình, sách giáo khoa, sách
giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu tham khảo..., thì các tài liệu giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh chưa đảm bảo. Các Nhà trường vẫn tự xây dựng kế hoạch
và tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, vừa làm vừa đúc rút kinh
nghiệm.
Do áp lực cạnh tranh và toàn cầu hóa ngày càng cao, mỗi học sinh, sinh viên
sau khi ra trường bên cạnh nền kiến thức vững chắc còn phải có kỹ năng ứng phó
với hoàn cảnh; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong khi thực hiện công việc được
giao. Điều này, học sinh, sinh viên Việt Nam còn hạn chế, gây ra không ít những
trở ngại cho các em khi vào đời. Hiện tượng học sinh THPT khá máy móc và thụ

động khi đối mặt với những tình huống bất thường không phải hiếm gặp. Anh
Tuấn, phụ huynh của một học sinh lớp 11 khối chuyên lý Trường THPT Hà Nội
Amsterdam kể: “Bình thường con tôi là một đứa hoạt bát, khá lợi khẩu, giỏi công
6


nghệ thông tin, am hiểu các vấn đề lịch sử - xã hội nên tôi khá bất ngờ khi con
rất… ngờ nghệch. Hè vừa rồi, con đi học thêm về thì bị hỏng xe đạp dọc đường.
Cháu đã dẫn bộ chiếc xe về nhà suốt quãng đường hơn 1 km, trong khi túi có tiền.
Nhìn mặt mũi cháu đỏ gay, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà tôi phải kìm không cáu [10].
Ở một nghiên cứu khác, tác giả thống kê được: có 37% sinh viên không tìm được
việc làm do yếu thiếu yếu tố kỹ năng thực hành xã hội (làm việc theo nhóm, khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo, giao tiếp...). 83% sinh viên ra trường bị các nhà
tuyển dụng đánh giá là thiếu kỹ năng sống. Con số giật mình này được nêu tại buổi
tọa đàm “Những kỹ năng thực hành xã hội cần thiết cho sinh viên” do Viện Nghiên
cứu giáo dục Việt Nam tổ chức vào ngày 9-12 - 2016 [10]. Vì vậy, việc hình thành,
rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh ngay khi còn học phổ thông chính là đòi hỏi
cấp thiết, giúp các em dần đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
2.3. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trường THPT Lý Thường Kiệt là một trường ngoài công lập, đối tượng học
sinh là những em không đạt nguyện vọng vào các trường công lập. Một bộ phận
học sinh không có những kĩ năng cần thiết như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự chủ, kĩ
năng phản biện…. Trước thực trạng trên, các giáo viên của trường luôn trăn trở:
Làm thế nào để rèn luyện kĩ năng sống cho các em?
Tập thể lớp 10A2, năm học 2016 – 2017 do tôi phụ trách có 45 học sinh, bố
mẹ các em phần lớn là những người lao động tự do hoặc là công nhân tại các khu
công nghiệp, thời gian dành cho con cái rất eo hẹp. Học sinh của lớp là những em
dồi dào về thể lực, trí tuệ nhạy bén, thích tìm tòi, sáng tạo, thích tự khẳng định
mình. Có em chăm chỉ, chuyên cần, có ý thức vươn lên trong học tập, ý thức kỉ luật
tốt, năng lực quản lí tốt.

Ngoài ra cũng có một số học sinh trầm, ít bộc lộ cảm xúc; một số em chưa
ngoan, sống ích kỉ. Có những em không muốn đi học nhưng do sự thúc ép của gia
đình nên đến trường miễn cưỡng. Những học sinh này bỏ học thường xuyên gây
khó khăn cho GVCN trong việc quản lí. Nhiều em trong cuộc sống đời thường biết
7


đi xe máy, biết sử dụng điện thoại di động, biết sử dụng máy vi tính và sử dụng các
tiện nghi hiện đại, biết cách chọn trang phục hợp thời trang nhưng lại ứng xử chưa
có văn hoá nơi công cộng. Việc xả rác ra lớp học, ra hành lang, trong ngăn bàn diễn
ra thường xuyên. Những lời nói tục tĩu được các em sử dụng như ngôn ngữ giao
tiếp hàng ngày. Trong tư duy, biết cách nhận xét đánh giá người khác qua hành
động, ngôn ngữ, cử chỉ…nhưng không dám khám phá năng lực của bản thân. Có
khả năng ảnh hưởng đến các bạn nhưng lại thờ ơ với những biểu hiện xấu đang
diễn ra xung quanh mình. Ngay cả đội ngũ cán bộ lớp cũng có tư tưởng đối phó,
xem việc quản lí lớp là của thầy cô. Các em sống thụ động, ỉ lại, thiếu tự tin. Có em
thầy cô giáo hỏi bài đã bật khóc vì không trả lời được. Có những em khi được xếp
loại hạnh kiểm vào cuối tuần cảm thấy chưa thỏa đáng nhưng không biết bảo vệ ý
kiến của mình trước tập thể.
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng trên, tôi tiến hành điều tra bằng phương
pháp phỏng vấn tại lớp chủ nhiệm. Câu hỏi dành cho 45 em trong lớp là:
Theo em, nguyên nhân nào khiến em thiếu tự tin trong cuộc sống?
Kết quả thu được:
Nguyên nhân
từ
Sốlượng (em)
Tỉ lệ (%)

Gia đình
10

22

Chương trình
giáo dục
25
56

Bản thân

Yếu tố khác

8
18

2
4

8


17.78%

4.44%

22.22%

Gia đình
Chương trình giáo dục
Bản thân
Yếu tố khác


55.56%
Biểu đồ thể hiện cơ cấu nguyên nhân HS thiếu tự chủ, tự tin trong cuộc sống

Từ kết quả khảo sát, tôi nhận thấy nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu những
kỹ năng mềm cần thiết có thể kể đến:
Thứ nhất, từ phía gia đình, bố mẹ quá bao bọc con cái. Bất cứ một vấn đề gì
dù nhỏ bố mẹ cũng làm hết, kể cả ý kiến của con muốn đề đạt với thầy cô cũng
phải thông qua lời bố mẹ. Nhiều bậc cha mẹ quá bận rộn với công việc của mình
mà không có thời gian trò chuyện với con cái. Cá biệt có những phụ huynh có tư
tưởng khoán trắng cho Nhà trường, “trăm sự nhờ thầy, nhờ cô”. Điều này lâu dần
tạo thói quen ỉ lại cho các em, khiến các em sống thu mình, khép kín. Các mối
quan hệ xã hội và khả năng tham gia các hoạt động xã hội còn rất hạn chế. Thiếu sự
gần gũi từ phía cha mẹ cũng khiến các em sống thờ ơ với mọi thứ xung quanh.
Thứ hai, nhu cầu được thể hiện và tham gia các hoạt động xã hội của các em
là rất lớn nhưng do chương trình giáo dục của nhà trường không đáp ứng được yêu
cầu thực tế. Trong cách quản lí, GVCN chưa khích lệ được năng lực sẵn có trong
bản thân các em.

9


Thứ ba, về phía bản thân, học sinh luôn sợ sai lầm và phải chịu trách nhiệm
về những việc mình đã làm. Tâm lí sợ sai, bị trách mắng khiến các em tìm cảm giác
an toàn bằng cách im lặng, không dám thể hiện quan điểm của mình trước tập thể.
Có chăng chỉ là bàn tán trong nhóm bạn của mình sau mỗi sự việc xảy ra.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.3. 1. Nhận thức đúng đắn về vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh.
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng và ảnh hưởng rất nhiều

đến học sinh trong tập thể lớp. Hay nói cách khác chủ nhiệm chính là linh hồn của
tập thể lớp, vừa là nhà quản lí, vừa là nhà giáo dục trong một tập thể thu nhỏ. Quá
trình làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn đặt ra mục tiêu: phải giáo dục học sinh trở
thành những con người “vừa hồng vừa chuyên”, vừa là những con người có trí tuệ,
vừa có nhân cách, vừa có kĩ năng. Làm thế nào để mỗi học sinh vừa là một con
người được tôn trọng, được thể hiện các tính sáng tạo của mình một cách hồn
nhiên, vô tư nhất? Điều đó rất cần đến vai trò của người GVCN. Tôi nhận thức
được rằng:
- Chủ nhiệm là người truyền cảm hứng cho học sinh qua mỗi giờ sinh hoạt,
qua những hoạt động tập thể. Biết cách truyền cảm hứng sẽ giúp học sinh nhận thức
sự cần thiết phải có kĩ năng sống.
- Có tình cảm thật sự đối với học sinh của mình, quan hệ với học trò như là
người bạn lớn, vừa gần gũi, yêu thương, quan tâm vừa đáng tin cậy.
- Vừa nghiêm khắc vừa rất tâm lí. Luôn biết cách động viên kịp thời sự tiến
bộ của học sinh.
2.3. 2. Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại cho tập thể nhằm phát huy khả
năng tự chủ của học sinh.
Đầu năm học, tôi tiến hành xây dựng tiêu chí thi đua:
TRƯỜNG THPT LÝ THƯỜNG KIỆT
Lớp …

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
10


TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI HỌC SINH
NĂM HỌC 2017- 2018
- Căn cứ vào điều lệ trường THPT (Ban hành kèm theo thông tư số 12/2011/TTBGDĐT ngày 28/3/2011) về văn bản quy định nhiệm vụ học sinh THPT
- Căn cứ vào Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT ban hành quy chế đánh giá, xếp loại

học sinh Trung học cơ sở và học sinh Trung học phổ thông
- Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp 11B2, GVCN xây dựng những quy định về
tiêu chí đánh giá xếp loại học sinh năm học 2017-2018 như sau:
I. Những yêu cầu cụ thể .
1. Nhiệm vụ của học sinh.
- Thưc hiện nhiệm vụ học tập , rèn luyện theo chương trình , kế hoạch giáo dục
của nhà trường.
- Đi học đúng giờ , không cố tình vào học muộn , nghỉ học phải xin phép, tham gia
đầy đủ các buổi học theo quy định của nhà trường (cả sáng và chiều).
- Mang đầy đủ sách vở học tập theo thời khóa biểu, học, chuẩn bị bài trước khi đi
học.
- Kính trọng cha mẹ ,thầy cô giáo …;đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập , rèn
luyện , thực hiện nội quy nhà trường, chấp hành pháp luật của nhà nước.
-Rèn luyện thân thể , giữ gìn vệ sinh cá nhân.
-Tham gia các hoạt động tập thể của nhà trường , của lớp , giúp đỡ gia đình và
thưc hiện trật tự an toàn giao thông.
-Giữ gìn , bảo vệ tài sản chung của lớp , nhà trường .
2. Quyền của học sinh.
- Được bình đẳng , tôn trọng và bảo vệ trong việc học tập tại lớp.
- Được hưởng các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
3.Hành vi, ngôn ngữ ứng xử, trang phục
- Hành vi, ngôn ngữ ứng xử của học sinh phải đảm bảo tính văn hóa, phù hợp với
đạo đức và lối sống của lứa tuổi học sinh trung học. Không văng tục chửi thề khi giao
tiếp.
- Hàng ngày măc áo đồng phục của nhà trường, (buổi chiều có thể mặc áo trắng),
quần màu tối sạch sẽ ,kín đáo. Không mặc áo phông không có cổ khi đến trường (kể cả
buổi chiều). Đi giầy hoặc dép quai hậu.
4. Các hành vi học sinh KHÔNG được làm.
- Xúc phạm nhân phẩm , danh dự giáo viên , người khác và học sinh khác .
11



- Làm việc khác, sử dụng điện thoại di động hoặc máy nghe nhạc trong giờ học,
hút thuốc , uống rượu bia.. khi đang tham gia các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
- Đánh nhau , gây rối trật tự , an ninh trong nhà trường và nơi công cộng.
-Xả rác bừa bãi , mua, ăn quà trong giờ học .
II. Thang điểm các tiêu chí thi đua.
Mỗi học sinh có 100 điểm/ tuần, sẽ tính trừ hoặc cộng theo các mức sau:
Điểm Điểm
Điểm
STT
Nội dung
tối đa trừ
cộng
I
Tư tưởng, đạo đức
15
1
Không tôn trọng thầy cô giáo, vô lễ với thầy cô
30
2
Thiếu ý thức trong việc đoàn kết tập thể, chia bè phái,
5
nói xấu, chia rẽ nhau
3
Thiếu ý thức trong việc bảo vệ tài sản chung nhưng
5
chưa đến mức phải đưa ra Hội đồng kỉ luật
II
Nề nếp, tác phong

30
3
Mặc không đúng trang phục theo quy định, đi dép lê
5
(buổi sáng). Riêng buổi chiều nếu HS mặc áo phông
không cổ hoặc áo không phải là áo sơ mi thì cũng tính
trừ điểm.
4
Đi học muộn (khi giáo viên đã vào lớp)
2
5
Nghỉ học không có lí do (cả sáng và chiều)
5
6
Nghỉ học có lí do (phụ huynh báo cáo)
2
7
Bỏ tiết
3
8
Hút thuốc lá (trong lớp, ngoài hành lang), chơi bài
trong lớp
9
Ăn quà, xả rác ngay chỗ ngồi của mình hoặc vứt trong
3
ngăn bàn
10 Đánh son môi quá mức cho phép, sơn móng tay chân
5
11 Gây gổ, xích mích, đánh nhau
60

12 Chửi tục trong lớp (kể cả giờ ra chơi)
5
III
Học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp
10
13 Không mang đầy đủ sách vở
5
14 Không học bài cũ ở nhà, bị điểm kém (dưới 5)
5
IV
Thái độ học tập trên lớp
25
15 Không ghi bài
5
16 Ngồi không đúng chỗ theo sơ đồ
2
17 Nói chuyện làm ồn lớp
3
18 Không nghiêm túc trong giờ kiểm tra
3
19 Không tham gia các hoạt động học cùng tổ nhóm khi
2
12


20
21
22
V
23

24
25

VI
26
27

1
2

3

4
5
6

được phân công.
Sử dụng điện thoại trong giờ học
Làm việc riêng trong giờ (giờ học môn này nhưng lấy
môn khác ra học)
Bị ghi sổ đầu bài (Vì bất cứ lỗi gì)
Vệ sinh trực nhật
Trực nhật không hoàn thành nhiệm vụ (không xóa bảng
hoặc xóa chậm, không giặt giẻ …)
Không tham gia làm trực nhật
Không tham gia làm vệ sinh trong những buổi tổng dọn
vệ sinh cuối kì, cuối năm hoặc các đợt thi đua do nhà
trường phát động
Tham gia các hoạt động do Nhà trường, Đoàn trường
tổ chức

Không tham gia các hoạt động
Có tham gia nhưng không nghiêm túc (đi chậm, đùa
nghịch, nói chuyện …)
Điểm cộng khuyến khích
Điểm tốt do hăng say phát biểu xây dựng bài hoặc
xung phong lên bảng giải bài tập (9,10)
Cá nhân học sinh tham gia các kì thi HSG cấp tỉnh đạt
giải (Nhất – Nhì – Ba)
Có những đóng góp cho các hoạt động phong trào do
Đoàn trường tổ chức (văn nghệ, cắm hoa, báo
tường…)
Cán sự lớp làm tốt
Đi học chuyên cần (sáng + chiều)
Không vi phạm lỗi nào trong tháng

5
2
3
10
2
3
5

10
7
3

2đ/điểm
tốt
15đ


10đ

5đ/giải
10đ/lần

5đ/kì
5đ/tháng
5đ/tháng

Lưu ý:
1. Khi học sinh vô lễ với thầy cô giáo, gây gổ đánh nhau: tính trừ 200% điểm tối đa của
tiêu chí có chứa các lỗi vi phạm này.
2. Ngoài việc thực hiện các mức điểm trừ như trên, lỗi sau sẽ áp dụng mức phạt riêng:
Gây gổ, đánh nhau trong và ngoài trường, GVCN mời phụ huynh đến làm việc cùng
BNN. Lập biên bản vi phạm gửi Hội đồng kỉ luật Nhà trường xử lí.
III. Cách đánh giá, xếp loại:
1) Theo dõi, tổng hợp:
13


- Hàng tuần, tổ trưởng căn cứ vào quá trình theo dõi, ghi chép để cộng điểm, xếp
loại cho từng thành viên thuộc tổ mình. Lớp trưởng tổng hợp chung kết quả theo dõi của
cả lớp.
- Xếp loại của tháng là trung bình cộng của 4 tuần.
- Xếp loại học kì: Là trung bình cộng của các tháng trong học kì kết hợp với quá
trình theo dõi của tập thể lớp và GVCN.
- Xếp loại cả năm: Điểm trung bình cộng của cả hai học kì kết hợp với quá trình theo dõi
của tập thể lớp GVCN.
2) Xếp loại học kì :

Tốt : 90 - > 100 điểm.
Khá: 80 - 89 điểm.
TB : 50 - 79 điểm.
Yếu : dưới 50 điểm.
3) Khen thưởng:
- Cuối mỗi tháng, lớp sẽ chọn một học sinh có điểm cao nhất để đề nghị Ban đại
diện Hội cha mẹ học sinh khen thưởng. (mức thưởng sẽ bàn với phụ huynh).
- Cuối mỗi kì, lớp sẽ chọn ra 5 học sinh có điểm cao nhất để khen thưởng.
- HS được đề nghị Nhà trường cấp học bổng: là học sinh có tổng điểm cao nhất và
có kết quả học tập tốt nhất.
GVCN
Lê Thị Nhung

Đây là tiêu chí hoàn chỉnh sau khi đã đưa ra để tập thể lớp thảo luận, góp ý.
Mục đích của việc làm này là học sinh được tham gia xây dựng tập thể, trong đó có
việc đánh giá bản thân mình. Như vậy, tôi đã bước đầu hình thành kĩ năng làm
việc nhóm, kĩ năng suy nghĩ – sáng tạo và đề đạt ý kiến cho học sinh.
2.3.3. Giao quyền tự chủ cho học sinh qua việc theo dõi, giám sát lẫn nhau.
Bản theo dõi, đánh giá xếp loại này sau khi đã hoàn tất được giao lại cho các
tổ trưởng. Tổ trưởng là người là theo dõi, giám sát chấm điểm thành viên của tổ
mình. Đây là cách GVCN hình thành cho học sinh kĩ năng tự chủ, kĩ năng ra
quyết định, giải quyết vấn đề.
2.3.4. Tổ chức nhận xét, đánh giá xếp loại học sinh nhằm phát huy khả năng
phản biện ở các em.
14


Do đặc trưng của nhà trường nên GVCN có 2 giờ sinh hoạt lớp. Giờ sinh
hoạt thứ 7 hàng tuần dành riêng cho hoạt động đánh giá, tổng kết, xếp loại của tuần
đó. Trong buổi sinh hoạt này, học sinh được nói lên những nhận xét của mình về

các bạn trong tổ, trong lớp; thẳng thắn nhận lỗi khi thấy mình chưa thực hiện
nghiêm túc nội quy Nhà trường, nội quy lớp học. Nhiều em liên tục có điểm trừ cao
và xếp cuối lớp cũng phải khắc phục bản thân để vươn lên. Kĩ năng nhận thức, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng biết lắng nghe và học tập những lời phê bình… cũng
được hình thành từ những buổi sinh hoạt này.
Trong bản tiêu chí đánh giá xếp loại, tôi cũng đưa vào những điểm cộng
khuyến khích. Học sinh có điểm cao trong quá trình phát biểu xây dựng bài sẽ được
cộng điểm thi đua. Điều này khiến các em thi đua giành điểm cao, kích thích được
phong trào học tập của lớp. Cách làm này hình thành cho các em kĩ năng đặt mục
tiêu trong cuộc sống.
Kết quả tính điểm, xếp loại hạnh kiểm của các tổ trưởng sau khi được lớp
thống nhất sẽ giao lại để Lớp trưởng tổng hợp. Việc tổng hợp cuối tuần, cuối tháng,
cuối kì sẽ khiến lớp trưởng tham gia nhiệt tình hơn vào việc quản lí lớp. Đồng thời
rèn luyện kĩ năng lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lớp.
2.3. 5. Hình thành kĩ năng tự đánh giá bản thân thông qua việc tổ chức tự
kiểm điểm và kiểm điểm học sinh cuối kì, cuối năm.
Cuối mỗi học kì, tôi dành thời gian để học sinh viết bản tự tự kiểm điểm cá nhân.
Đồng thời tổ chức tự kiểm điểm và kiểm điểm học sinh trước lớp. HS được tự nhận
những ưu điểm, hạn chế của bản thân trước tập thể. Sau đó, tập thể cùng tham gia
nhận xét. Qua mỗi lần như vậy, học sinh cũng đồng thời có thêm kĩ năng tự đánh
giá bản thân, kĩ năng đặt mục tiêu cho mình, khích lệ được ở các em tinh thần
phấn đấu vươn lên.
2.4. Hiệu quả thực hiện đề tài
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục của bản thân ở lớp chủ nhiệm.
15


Đề tài “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua việc theo dõi, quản lí
lớp” được áp dụng tại lớp 10A2, năm học 2016 – 2017 đã thu được kết quả bước
đầu:

Giờ sinh hoạt cuối tuần được các em tham gia sôi nổi, nhiệt tình bởi các em
được thể hiện mình, được phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, tinh thần đoàn
kết, biết ganh đua lành mạnh. Nếu một bạn mắc lỗi mà không khắc phục được sẽ
ảnh hưởng đến xếp hạng của cả tổ. Vì thế, tổ trưởng cùng các thành viên trong tổ sẽ
kiểm điểm sâu sắc. Ý thức phê bình và tự phê bình của các em được nâng lên rõ rệt.
Qua việc tham gia quản lí lớp theo định hướng của GVCN, nhiều em bộc lộ
rõ khả năng tổ chức, quản lí, khả năng giao tiếp của mình. Nhiều em vốn tính nhút
nhát thiếu tự tin đã trở nên bạo dạn và tự tin hơn. Nhiều vấn đề khúc mắc trong học
tập, trong tâm tư tình cảm, sinh hoạt hàng ngày của các em...đã được tháo gỡ trong
những buổi sinh hoạt cởi mở, bình đẳng, thân thiện này. Như vậy, đề tài khi được
áp dụng còn góp phần nâng cao hiệu quả giờ sinh hoạt lớp.
Lâu nay, việc xếp loại hạnh kiểm thường do GVCN làm vào cuối kì, cuối
năm học. Nhiều trường hợp GV đánh giá xếp loại mang tính chất cảm tính, thiếu
công bằng. Với học sinh , những em hạnh kiểm Khá trở xuống thường có tâm lí
không thỏa mãn. Vô hình dung sẽ làm giảm động cơ, ý chí phấn đấu vươn lên của
các em. Giao quyền tự chủ, tự quyết cho học sinh khi tham gia quản lí lớp phần nào
khắc phục được hạn chế nói trên. Việc xếp loại hạnh kiểm được tiến hành hàng
tuần, hàng tháng. Kết quả xếp loại Hạnh kiểm học sinh trở nên công bằng, khách
quan, chính xác hơn.
2.4.2. Đối với hoạt động giáo dục của Nhà trường.
Đề tài này được tôi chia sẻ với các GVCN các lớp và được áp dụng trong
năm học 2017 - 2018. Tiến hành khảo sát tại các lớp có áp dụng đề tài bằng phiếu
khảo sát, tôi thu được kết quả:
Trước khi
Sau khi
STT
Nội dung
áp dụng đề
áp dụng
tài

đề tài
1
HS vi phạm nội quy, nề nếp
75%
5%
2
Hs tự tin khi giao tiếp, ứng xử có văn hóa
25%
92%
3
HS tham gia quản lí lớp, chủ động góp ý, phê bình
5%
87%
4
HS đặt mục tiêu phấn đấu
95%
50%
16


100
90
80
70
60
50
40
30
20
10

0

Trước khi áp
dụng đề tài
Sau khi áp
dụng đề tài

Biểu đồ thể hiện sự khác biệt của học sinh trước và sau khi áp dụng đề tài

III – KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận
Kĩ năng sống là một trong những yếu tố hình thành nên phẩm chất con
người trong thời đại mới. Giáo dục kĩ năng sống là một nhiệm vụ quan trọng và
cấp bách của hệ thống giáo dục, là nhiệm vụ quan trọng của mọi đối tượng tham
gia giáo dục trong đó có giáo viên chủ nhiệm. Những kết quả được hình thành ở
học sinh THPT qua cách tổ chức, quản lí của GVCN bao gồm nhiều nội dung
phong phú, nhưng đọng lại vẫn là ở kĩ năng sống. Đây là nền tảng quan trọng để
các em gia nhập vào đời sống xã hội một cách chắc chắn.
Kết quả của đề tài đã xác định các kĩ năng sống được hình thành cho học
sinh THPT qua việc tham gia quản lí lớp là các kĩ năng cơ bản như: kĩ năng tự chủ,
kĩ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề, kĩ năng tự đánh giá bản thân, kĩ năng đặt
mục tiêu, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng suy nghĩ – sáng tạo và đề đạt ý kiến, kĩ
năng phản biện. Kết quả của việc hình thành, rèn luyện các kĩ năng này là giáo dục
cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở
17


các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện
nhân cách người học dựa trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kĩ
năng phù hợp.

Phương pháp “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc tham gia quản lí
lớp” là kết quả tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm của bản thân tôi sau nhiều năm làm
công tác chủ nhiệm. Đề tài này có khả năng ứng dụng rộng rãi trong công tác chủ
nhiệm ở các Nhà trường. Nhưng với tầm nghiên cứu của một cá nhân, chắc chắn
vẫn còn những hạn chế, thiếu sót. Rất mong Hội đồng Khoa học và các đồng
nghiệp giúp đỡ, góp ý để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

3.2. Kiến nghị
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa ngày 18 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Thị Nhung

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thanh Bình (2007), “Giáo dục kỹ năng sống”, Giáo trình dành cho
sinh viên Cao đẳng sư phạm, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
[2]. Bộ giáo dục và Đào tạo - Mô đun THPT 35 “Giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh trung học phổ thông ”.
[3]. Lê Thị Thúy Hường, GV Trường THCS Thị trấn Hưng Hà, huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình – “Rèn kĩ năng mềm cho học sinh qua giờ chào cờ” – SKKN năm
học 2015 – 2016

[4]. Hoàng Thị Lệ, GV Trường THPT Triệu Sơn 1, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh
Hóa – “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT qua công tác chủ nhiệm” –
SKKN năm học 2012 – 2013
[5]. Điều 28, Luật Giáo dục 2005/QH11, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6]. Hoàng Xuân Tiến, GV Trường THPT Quế Sơn – “Đánh giá xếp loại hạnh
kiểm học sinh dựa vào bảng chấm điểm thi đua” - SKKN năm học 2012 – 2013
[7]. Phan Thanh Vân, Giảng viên Đại học Thái Nguyên – “Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh THPT qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” – Luận án tiến sĩ
Giáo dục học, 2010.
19


[8]. Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, Hà Nội - “Những nghiên cứu và
thực hiện chương trình giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam”, Giáo trình dành cho
sinh viên Cao đẳng sư phạm, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
[9]. Vũ Thị Nho (1999) - Tâm lý học phát triển, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[10]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Nguồn:
- Nguồn:
- Nguồn:

20



×