Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số phương pháp dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.25 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài:
Bậc Tiểu học là bậc đầu tiên của hệ thống giáo dục thuộc nền văn minh nhà
trường của mỗi quốc gia. Là bậc học tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền
vững cho trẻ tiếp tục học lên bậc học trên, hình thành những cơ sở ban đầu cơ
bản và bền vững tạo ra những con người có “tài” có “đức”. Những gì thuộc về
trí thức và kỹ năng về hành vi và tình người được định hình ở bậc Tiểu học và
nó sẽ theo suốt cuộc đời của mỗi em như: chữ viết, kỹ năng cuộc sống hằng
ngày,… Những gì được hình thành và định hình ở trẻ rất khó thay đổi, cải tạo
lại. Chính vì vậy môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng
lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh.
Năng lực hoạt động ngôn ngữ thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng
với chúng là bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Môn Tiếng Việt ở tiểu học gồm
nhiều phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả, kể chuyện.
Trong đó phân môn tập đọc là phân môn có vị trí đặc biệt vì nó đảm nhiệm việc
hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc – một kĩ năng quan trọng hàng
đầu của học sinh bậc tiểu học; nó có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về Tiếng Việt
cho học sinh.
Trong quá trình học tập và phát triển ở học sinh tiểu học. Kĩ năng sử dụng
tiếng Việt: Nghe – nói - đọc - viết đóng vai trò hết sức quan trọng và then chốt,
tầm quan trọng của các kĩ năng này vượt ra ngoài phạm vi môn tiếng Việt. Nó có
quan hệ chặt chẽ, tương tác, hỗ trợ cho nhau và không chỉ hình thành phát triển
kĩ năng giao tiếp, trong các môi trường hoạt động lứa tuổi, cũng như trong cuộc
sống hằng ngày, mà cũng là phương tiện để giúp các em học tốt các môn khác.
Trong bốn kĩ năng ấy kĩ năng đọc đóng vai trò chủ đạo vì đọc một cách có ý
thức sẽ tác động trực tiếp tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của học sinh.
Qua bài Tập đọc HS cũng được cung cấp thêm về vốn từ ngữ, vốn diễn đạt,
những hiểu biết về tác phẩm văn học, từ đó nâng cao trình độ văn hoá nói chung
và trình độ Tiếng Việt nói riêng.
Dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản
đầu tiên của trẻ em. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc


giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập.
Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức
và đọc hay. Mức độ kĩ năng được tăng dần, chúng hỗ trợ lẫn nhau và đạt cái đích
cuối cùng là kĩ năng đọc hiểu tức là đọc hiểu văn bản. Học sinh có hiểu văn bản
thì mới giáo dục được lòng ham đọc sách. Từ đó giúp các em làm giàu kiến thức
về ngôn ngữ đời sống và kiến thức văn học. Ngoài ra dạy đọc còn giáo dục tính
cách, thị hiếu thẩm mĩ, rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng, tư duy lôgic.
Như vậy nhiệm vụ của môn Tập đọc cũng như giờ tập đọc thật không đơn giản
chút nào.
Bản thân là một giáo viên dạy lớp 4 trong nhiều năm, đặc biệt là những
năm gần đây dạy theo chuyên đề Nói chuẩn – viết chuẩn tiếng phổ thông, tôi
1


nhận thấy: Có một số học sinh đã đọc đạt theo yêu cầu nhưng đa số học sinh
đang còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc được theo yêu cầu
mong muốn. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình
thành kĩ năng đọc. Các em chưa nắm chắc công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức,
tư tưởng tình cảm của tác giả chứa đựng trong văn bản được đọc, như:
- Một số học sinh phát âm chưa chuẩn tiếng phổ thông ( l, n; tr, ch; d-gi; rd. Vần át-ác; an- ang; iu-iêu; ưu- ươu; iêng- iên;…)
- Một số em ngắt hơi tùy tiện, không theo ý nghĩa và logic của câu, của
đoạn.
- Một số em đọc quá chậm, ấp úng, ê a khi đọc, một số em đọc quá nhỏ,
không gây được hứng thú cho người nghe. Ngược lại một số em đọc quá to
( như gào lên) làm cho người nghe cảm thấy mệt mỏi.
Xuất phát từ những điều trên tôi đã mạnh dạn đưa ra Một số phương
pháp dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học cho học sinh.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu đề tài “Một số phương pháp dạy đọc thành tiếng cho học

sinh lớp 4”nhằm nâng cao chất lượng đọc thành tiếng cho học sinh.
- Giúp các em đọc đúng, đọc nhanh và đọc diễn cảm.
- Tạo động lực mới, giúp các em có hứng thú học tốt các môn học khác.
- Tạo cho các em khả năng giao tiếp tốt, giúp các em tự tin hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Quá trình dạy đọc thành tiếng ở Tiểu học.
- Một số phương pháp dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu, sách tham khảo, sách báo,…
- Phương pháp khảo sát, điều tra: Tìm hiểu thực trạng, chất lượng học
sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: Khảo sát đầu năm để nắm bắt được những
khó khăn, nhược điểm mà học sinh thường mắc phải để có hướng khắc phục.
- Phương pháp thống kê: Thống kê kết quả đầu năm, cuối năm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò,
thích hoạt động hồn nhiên, khám phá, tự lực làm việc theo hứng thú của mình.
- Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi điều
trẻ đều nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học
phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô trong nhà
trường Tiểu học.
- Đọc, viết có được nhờ học Tập đọc. Dạy Tập đọc đặc biệt là dạy cho
học sinh đọc đúng, chính xác và hiểu được văn bản đòi hỏi người thầy phải
2


có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học,
phù hợp với sự phát triển tiến bộ của khoa học, xã hội, đáp ứng nhu cầu ham
hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng cường giáo dục đạo đức nhân cách cho

trẻ.
-Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đó có thể hiện ở 4 yêu cầu:
Đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm).
Cần phải hiểu kĩ năng đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau.
- Nhận thức được điều này và thấy rõ được những khó khăn cơ bản, tôi đã
thực hiện một số biện pháp Dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4 để các em
có điều kiện đọc tốt.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học 2017 – 2018 - lớp 4A – Trường tiểu học
Minh Khai 2 thu được kết quả như sau:
Tổng
số HS

Đọc đúng, lưu loát,
diễn cảm.
SL

42 em

5

TL
12%

Đọc chưa lưu loát
ST
15

TL

35%

Phát âm chưa chuẩn,
ngắc ngứ, tốc độ chưa
phù hợp.
SL
TL
22
53%

Căn cứ vào việc khảo sát chất lượng đọc thành tiếng đầu năm tôi phát hiện
những lỗi sai học sinh mắc phải là:
- Đọc sai một số tiếng có nguyên âm đôi.
- Đọc sai tiếng do đọc theo thói quen.
- Đọc lẫn các tiếng có thanh hỏi và thanh ngã.
- Ngắt nghỉ ở một số câu văn dài chưa đúng, đọc sai nhịp thơ và đọc còn
chưa đúng ngữ điệu…
- Một số em đọc còn chậm, đọc diễn cảm chưa đạt yêu cầu.
Trước thực trạng này tôi rất băn khoăn và lo lắng làm sao để các em đọc đúng,
đọc nhanh, đọc rõ ràng hay đọc diễn cảm,… Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa
ra một số giải pháp nhằm giúp các em có kĩ năng đọc tốt hơn.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề:
2.3.1. Biện pháp 1: Luyện đọc đúng:
Đọc đúng là tái hiện mặt âm thanh của bài học một cách chính xác, không
có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa không sót tiếng. Đọc đúng phải thể hiện
được hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm, đọc đúng bao gồm đọc
đúng các âm, các thanh, đọc đúng trọng âm, ngắt nghỉ đúng chỗ.
1. Luyện chính âm
1.1 Luyện đọc đúng các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã.

3


ở địa phương nơi tôi công tác thì hầu như các em

đều đọc các tiếng có
thanh hỏi và thanh ngã thành các tiếng có thanh hỏi, không phân biệt được rõ
ràng thanh hỏi hay thanh ngã.
Ví dụ: “Lá đơn lí lẽ viết rõ ràng, Cao Bá Quát yên trí quan sẽ xét nỗi oan
cho bà cụ. Nào ngờ chữ ông xấu quá quan đọc không được nên thét lính đuổi bà
cụ khỏi huyện đường”.
Đây là một đoạn trong bài “Văn hay chữ tốt” ( SGK Tiếng Việt 4 – Tập 1
– Trang 129) học sinh đã đọc thành: “Lá đơn lí lẻ viết rỏ ràng, Cao Bá Quát yên
trí quan sẻ xét nỗi oan cho bà cụ. Nào ngờ chử ông xấu quá, quan không đọc
được nên đuổi bà cụ ra khỏi huyện đường”
Hay trong bài “Chợ Tết”( SGK Tiếng Việt 4 – Tập 2 – Trang 38) học sinh
đọc thành:
“Con bò vàng ngộ nghỉnh đuổi theo sau
Sương trắng rõ đầu cành như giọt sửa…”
Các biện pháp sửa lỗi:
- Vấn đề đặt ra ở đây là giáo viên phải rèn cho học sinh đọc đúng tiếng có
thanh ngã trong đoạn văn. Giáo viên đọc mẫu chính xác để học sinh lắng nghe
tìm ra sự khác nhau về âm thanh của từng tiếng có thanh hỏi và tiếng có chứa
thanh ngã như: lẻ/ lẽ , sẻ/ sẽ, nổi/ nỗi …
- Hướng dẫn các em cách phát âm: Những tiếng có thanh ngã âm phát ra
nhẹ hơn, âm thanh vang hơn, ngân hơn.
- Cho nhiều học sinh phát âm những tiếng có chứa thanh ngã nhiều lần rồi
mới luyện đọc cả câu.
Ngoài cách sửa lỗi trên ta có thể hướng dẫn sửa lỗi cho học sinh bằng cách
sau:

+ Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh
Ví dụ: Hỏi: Sỏi, thỏi, gỏi…
Ngã: Bã, đã, giã…
+ Tiếp theo chắp tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh
Ví dụ: Hỏi: Thảo, phải, kẻo…
Ngã: Sẽ, ngõ, khẽ, cũ…
+ Cuối cùng là chắp bất kì âm đầu vào các vần với các thanh và cho học
sinh đọc lại nhiều lần để trở thành kỹ xảo.
I.2 Sửa lỗi phát âm do tiếng địa phương.
Để luyện phát âm đúng cho học sinh, trước hết và thực chất phải giải
quyết vấn đề phương ngữ. Mục tiêu của chúng ta đặt ra là luyện cho học sinh
vươn đến một tiếng nói dân tộc Việt thống nhất, đẹp đẽ về mặt âm thanh. Muốn
như vậy chúng ta cần phải luyện cho học sinh đọc đúng, hay trong phạm vi giao
tiếp rộng hơn phương ngữ hẹp của mình. Trong lớp nhiều học sinh đọc theo thói
quen.
Ví dụ: “Nhà” đọc thành “nhề”
“Giàu đẹp” đọc thành “giầu đẹp”
4


“Cảm ơn” đọc thành “cám ơn”…
Các biện pháp sửa là:
+ Để khắc phục lỗi phát âm trên khi đọc tôi đã lưu ý học sinh chú ý nhìn
đúng tiếng mình đọc trong bài, không đọc tuỳ tiện những tiếng nói hay dùng sai
trong thói quen. Nếu phát hiện em nào đọc sai thì chính em đó đọc lại, sửa lại
cho đúng. Nếu trong trường hợp em vẫn đọc sai thì giáo viên giúp đỡ để em
đánh vần lại.
Ví dụ: Tiếng “nhà” đánh vần là: Nhờ- a- nha- huyền- nhà
Tiếng “giàu” đánh vần là:Gi- au- giau- huyền- giàu
+ Ngoài ra tôi còn giải nghĩa từ để học sinh phân biệt được nghĩa, nhớ

theo nghĩa để lần sau đọc đúng không mắc lại lỗi như ở bài trước.
I.3 Sửa lỗi đọc sai các phụ âm đầu, âm cuối:
Đọc đúng không phải là đọc thừa, không sót từng âm. Đọc đúng phải thể hiện
đúng hệ thống ngữ âm chuẩn tức là đọc đúng chính âm. Đọc để đạt được yêu
cầu rèn đọc đúng trong quá trình dạy tập đọc cho học sinh cần tập trung khăc
phục một số hạn chế như phát âm sai phụ âm đầu, âm cuối.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Truyện cổ tích về loài người” ( SGK Tiếng Việt 4 – Tập
2 – Trang 9) học sinh thường đọc sai phụ âm đầu và dấu thanh.
“Truyện cổ” đọc thành “Chuyện cỗ”
Hay trong bài “Đường đi Sa Pa” ( SGK Tiếng Việt 4 – Tập 2 – Trang 102)
“Sa Pa” đọc thành “Sa Pha”
Ví dụ: Đọc từ “bát ngát” học sinh thường đọc sai âm cuối và đọc thành “bác
ngác”
Các biện pháp sửa lỗi:
- Đọc mẫu đúng chuẩn cho học sinh đọc theo
- Khi sửa cho học sinh phát âm phụ âm đầu “tr”, “ch” tôi đã hướng dẫn
học sinh như sau:
+ Khi đọc phụ âm đầu “tr” lưỡi cong và chạm nhẹ vào hàm trên, độ mở
của miệng hơi rộng.
+ Khi đọc phụ âm đầu “tr” lưỡi không cong, hàm trên chạm vào lưỡi
nhiều, độ mở của miệng hẹp.
- Khi sửa cho học sinh phát âm phụ âm đầu “p”, “ph” thì:
+ Luyện phát âm “p” bằng biện pháp cấu âm. Tôi chỉ ra cho học sinh thấy
hai âm “p” và “ph” khác nhau về mặt âm thanh tính nên cách đọc khác nhau.
Khi đọc âm “ph” thì đặt lòng bàn tay trước miệng, một tay đặt lên thanh quản và
khi phát âm các em cảm nhận được độ rung nhẹ của thanh quản và không thấy
luồng hơi phát ra. Còn khi đọc âm “p” thì bặm hai môi lại và bật hơi qua môi
mạnh hơn tạo âm “p-p” thấy dây thanh rung mạnh và có luồng hơi từ miệng phát
ra đập vào lòng bàn tay. Cho các em làm lại như trên nhưng đọc thành tiếng: pin,
pa pa, phà, pha…

-Khi sửa cho học sinh phát âm từ “bát ngát” tôi thường đọc mẫu sau đó hướng
dẫn các em phát âm và so sánh: khi đọc từ “bát ngát” đầu lưỡi chạm lên hàm
5


trên, độ mở của miệng hơi hẹp, còn nếu các em đọc độ mở của miệng rộng,
không cong đầu lưỡi sẽ đọc thành “bác ngác” nên dẫn đến đọc sai.
- Luyện cho học sinh đọc nối tiếp nhiều lần, chú ý đến em đọc yếu hay
đọc sai để chỉnh sửa, uốn nắn dần. Giáo viên cần lắng nghe để phát hiện những
âm nào còn vướng mắc thì tập trung rèn luyện để em đó đọc đúng hơn. Nếu em
nào có tiến bộ giáo viên động viên khen kịp thời để lần sau không mắc sai lầm.
I.4 Sửa lỗi đọc sai các tiếng có chứa nguyên âm đôi
Ví dụ: Khi dạy bài: “Trung thu độc lập” ( SGK Tiếng Việt 4 – Tập 1 –
Trang 66) học sinh thường đọc sai nguyên âm đôi “Tiên” đọc thành “tin”
“Yêu” đọc thành “iu”
Ví dụ: Khi dạy bài: “Khuất phục tên cướp biển” ( SGK Tiếng Việt 4 – Tập
2 – Trang 66) học sinh thường đọc sai từ: “Rượu” đọc thành “rựu”….
Các biện pháp sửa lỗi:
+ Đầu tiên tôi sử dụng biện pháp luyện theo mẫu để rèn luyện cho học
sinh. Sau đó sử dụng kiến thức ngữ âm học để phân tích sự khác nhau cơ bản
giữa lỗi phát âm và chuẩn. Từ đó tìm phương hướng sửa chữa.
Ví dụ: “Tiên” nếu được nhấn giọng vào “i” sẽ đọc thành “tin”, nếu nhấn
giọng vào “ê” sẽ đọc thành “tên”. Vì vậy khi đọc tiếng “tiên” các em cần đọc “i”
và “ê” ngang nhau.
+ Cho học sinh đọc một số từ tương phản với các tiếng có chứa nguyên
âm đôi. Chính sự tương phản này sẽ giúp các em nhận biết được chỗ sai và dễ
sửa lỗi phát âm phát âm.
Học sinh đọc sai các tiếng có chứa nguyên âm đôi, nguyên nhân chủ yếu
do đọc nhấn giọng vào một âm mà không đọc đều hai âm chính vì thế chúng ta
cần phải cho học sinh thấy các em đọc sai chỗ nào và sửa chữa ra sao? Và

hướng dẫn
phải tỉ mỉ.
Tóm lại: Những lỗi tôi mới kể trên là những lỗi rất cần phải chú ý trong
phần luyện đọc khi dạy phân môn Tập đọc. Chính vì vậy khi dạy phân môn Tập
đọc điều đầu tiên tôi chú trọng là luyện chính âm cho học sinh. Về cách thức
luyện tập tôi đã nêu một số biện pháp cụ thể ở từng phần sửa lỗi. Các biện pháp
trong luyện chính âm mà bản thân tôi sử dụng là: Biện pháp luyện theo mẫu,
biện pháp cấu âm, ngoài ra kết hợp một số biện pháp khác như: đọc nối tiếp,
luyện đọc theo chữ viết …
2. Luyện đọc đúng ngữ điệu
Luyện đọc thành tiếng không dừng lại ở việc luyện chính âm (phát âm
đúng các âm vị) mà cần phải đọc đúng ngữ điệu, học sinh phải làm chủ các
thông số âm thanh của giọng, tạo ra cường độ bằng cách điều khiển đọc to, nhỏ,
nhấn giọng, lơi giọng tạo ra tốc độ bằng cách điều khiển độ nhanh, chậm và chỗ
ngắt nghỉ của lời, tạo ra cao độ bằng cách nâng giọng, hạ giọng. Tạo ra trường
độ bằng cách kéo dài giọng hay không kéo dài.
2.1 Đọc đúng chỗ ngắt giọng câu văn dài
6


Để đọc đúng ngữ điệu trước hết cần đọc đúng chỗ ngắt nghỉ. Chỗ ngắt
giọng mà chúng ta nói ở đây là ngắt giọng lôgic. Trong thực tế dạy học tôi nhận
thấy học sinh ngắt giọng ở nhiều câu văn dài trong bài văn xuôi chưa đúng, chưa
hợp lí. Nhiều khi các em thường ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện mà
không tính đến nghĩa câu văn.
Ví dụ: Những đám mây/ trắng nhỏ sà xuống cửa kính/ ô tô tạo nên cảm
giác bồng bềnh/ huyền ảo// (Bài đường đi Sa Pa)
Nếu học sinh đọc như trên thì nội dung của câu văn hiểu sai lệch là đi “ô
tô” tạo nên cảm giác bồng bềnh huyền ảo chứ không phải những đám mây tạo
nên cảm giác đó.

Các biện pháp sửa lỗi
- Luyện cho học sinh không đọc tách một từ ra làm hai ví dụ không đọc:
Cái cối xinh/ xinh xuất hiện như một giấc mộng; không tách từ chỉ loại với danh
từ nó đi kèm ví dụ không đọc: …Cẩu Khây thấy một/ cậu bé vạm vỡ đang dùng
tay làm vồ đóng cọc để đắp đập dẫn nước vào ruộng. Không tách giới từ với
danh từ đi sau nó. Không tách động từ ‘‘là’’ với danh từ đi sau nó, ví dụ không
đọc “Trần Đại Nghĩa tên thật là/ Phạm Quang Lễ, quê ở tỉnh Vĩnh Long ”.
- Hướng dẫn các em ngắt hơi phải phù hợp các dấu câu, các em nhận biết
thời gian nghỉ ở mỗi dấu câu là khác nhau: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu ở dấu
chấm. Có thể định lượng: Sau dấu chấm nghỉ hơi lâu hơn hai lần so với chỗ
ngừng sau dấy phẩy. Sau dấu chấm xuống dòng báo hiệu kết đoạn phải ngừng
hơi gấp đôi so với chỗ ngừng sau dấu chấm kết thúc câu.
- Giáo viên cần lưu ý cho học sinh rằng: Thời gian ngừng sau dấu phẩy
không phải lúc nào cũng như nhau. Dấu phẩy dùng ngăn cách vế câu trong câu
ghép đẳng lập thì dừng lâu hơn hoặc dấu phẩy ngăn cách giữa trạng ngữ thì cũng
đọc lâu hơn dấu phẩy ngăn cách giữa các bộ phận song song.
- Đặc biệt để tránh cách đọc nhấn vào từng tiếng nghe rất không tự nhiên
thì hướng dẫn học sinh khi ngừng ở dấu phẩy phân cách các bộ phận đẳng lập có
tính chất liệt kê ngắn chỉ nên ngắt hơi ngắn và nhẹ.
Ví dụ: Không ngừng quá lâu sau dấu phẩy của câu: “Thoắt cái, trắng long
lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận”
(Đường Sa Pa)
2.2. Luyện ngắt giọng đúng khi đọc thơ
Khác với văn xuôi, khi đọc thơ học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không
tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhịp thơ. Dường như một cách tự
nhiên nếu không được lưu ý về nghĩa, học sinh sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân đối về
mặt âm thanh khi đọc từng câu thơ. Với thơ 4 tiếng các em ngắt nhịp 2/2, với
thơ 7 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 4/3 hoặc 2/2/3, thơ lục bát sẽ ngắt theo nhịp
chẵn 2/2/2, với thơ 5 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2. Vì vậy các em đã
ngắt nhịp sai như:

+ Nhà im ắng tiếng chân/ đi rất nhẹ
Gió từng hồi trên mái/ lá ùa qua.
7


(Mẹ ốm)
+ Vừa nhân/ hậu lại tuyệt vời sâu xa.
(Truyện cổ nước tôi)
+ Nếu chúng/ mình có phép lạ
Hái triệu / vì sao xuống cùng…
( Nếu chúng mình có phép lạ)
Những trường hợp trên được xem là ngắt giọng sai vì đã tách một từ ra
làm hai, tách từ chỉ loại với danh từ, tách danh từ ra khỏi định ngữ đi kèm …
trong khi đó về ý nghĩa những yếu tố trên gắn chặt với nhau.
Biện pháp sửa lỗi là:
- Dự kiến chỗ ngắt nhịp sai của học sinh để xác định điểm cần luyện ngắt
giọng.
- Đọc mẫu chính xác.
- Dựa vào nghĩa của câu để giúp học sinh sửa sai lỗi ngắt nhịp.
2.3 Luyện đọc đúng kiểu câu
Trong phát ngôn, ngữ điệu có chức năng phân biệt các kiểu thông báo và
phân biệt các bộ phận của phát ngôn. Một trong những lỗi sai của học sinh là
không đọc đúng ngữ điệu của các kiểu câu như ở cuối câu hỏi phải lên giọng,
câu cảm phải bộc lộ cảm xúc…Mỗi kiểu câu có một ngữ điệu riêng.Trong bài
tập đọc khi gặp các kiểu câu này để đọc đúng ngữ điệu là khó với học sinh tiểu
học hầu như các em đều đọc với giọng đều đều.
Biện pháp sửa là:
- Hướng dẫn học sinh khi đọc nhìn trên chữ viết thấy dấu “…” chỉ sự
ngập ngừng chưa nói hết thì đọc với ngữ điệu yếu.
Ví dụ: Đọc với ngữ điệu yếu trong câu: “Chuyện ngày xưa … đã có bờ

tre xanh”
- Hướng dẫn các em khi đọc câu cảm, câu cầu khiến yêu cầu mạnh mà
trên chữ viết được biểu thị bằng dấu chấm cảm phải đọc với ngữ điệu mạnh .
- Những câu có hình thức là câu hỏi mà đích thông báo thực chất là câu
mệnh lệnh cũng được đọc với ngữ điệu mạnh.
- Khi đọc câu tường thuật tôi hướng dẫn các em đến kết thúc câu thì đọc
với ngữ điệu yếu. Vì khi đọc một đoạn những câu tường thuật, ta không hạ
giọng ở cuối mỗi câu thì sẽ không tạo ra sự luân chuyển nhịp nhàng cao độ của
các câu, vì vậy sẽ chóng mệt và làm cho người nghe khó theo dõi các ý.
- Phân tích rõ ràng cho học sinh thấy những bộ phận giải thích trong câu
cần phải đọc hạ giọng còn những câu giải thích cũng phải đọc hạ giọng thấp
hơn.
Ví dụ: Rồi những cảnh tuyệt đẹp của đất nước hiện ra: Cánh đồng với
những đàn trâu thung thăng gặm cỏ; dòng sông với những đoàn thuyền ngược
xuôi.
(Con chuồn nước- Tiếng Việt lớp 4 tập 2)
Khi đọc câu trên bộ phận sau dấu hai chấm cần hạ thấp giọng.
8


- Nếu đọc những đoạn có lời tác giả xen lẫn lời nhân vật, nhất là lời tác
giả lọt vào giữa lời nhân vật thì phải đọc hạ thấp giọng
Ví dụ: Dẫn nó vào- nhà vua phấn khởi ra lệnh (Vương quốc vắng nụ cườiTiếng Việt 4 tập 2) thì đọc đến “ nhà vua phấn khởi ra lệnh” phải hạ thấp giọng.
- Những câu hỏi, nhất là câu hỏi không có từ để hỏi, những câu mệnh lệnh
có yêu cầu mạnh thì đọc với ngữ điệu lên cao.
Ví dụ: - Được, cởi trói ra!
-Bắt lấy Yết Kiêu! Bắt lấy Yết Kiêu!
Tuy nhiên cũng phải lưu ý những câu cầu khiến có yêu cầu nhẹ nhàng thì
lại cần phải đọc với giọng nhẹ nhàng.
Ví dụ: - Em về chỗ ngồi đi

- Để thay đổi hình thức luyện đọc câu tránh sự nhàm chán trong giờ Tập
đọc, gây được hứng thú cho học sinh tôi đã tổ chức cho học sinh luyện đọc phân
vai. Đây là hình thức giúp học sinh đọc đúng kiểu câu một cách tự nhiên mà
không gò bó.
Ví dụ: Bài Yết Kiêu :
Một em trong vai người dẫn chuyện.
Một em trong vai yết Kiêu.
Một em trong vai người cha.
Một em trong vai vua.
Một em trong vai tướng giặc.
Các em học sinh khác theo dõi, nhận xét, rút kinh nghiệm để đến lượt đọc
của mình đọc tốt hơn. Có thể cho đổi vai để xem khả năng thay đổi ngữ điệu của
học sinh khi đọc các kiểu câu như thế nào để kịp thời điều chỉnh.
2.3.1. Biện pháp 2: Luyện đọc to.
Để giao tiếp bằng lời có hiệu quả đồng thời để tôn trọng người nghe,
người nói, làm chủ âm lượng giọng nói của mình sao cho tất cả người nghe cùng
nghe rõ. Đọc thành tiếng là giao tiếp trước đông người chính vì vậy khi học sinh
đọc thành tiếng ta phải giúp học sinh hiểu được là các em thực hiện giao tiếp
trước đông người. Dù học sinh có đọc đúng kiểu câu, chính âm hay ngữ điệu mà
đọc quá nhỏ thì cũng không đạt yêu cầu của việc luyện đọc thành tiếng.
Trong thực tế của việc dạy học thì rất nhiều học sinh đọc rất nhỏ và lí nhí.
Để khắc phục tình trạng này tôi đã thực hiện các biện pháp sau:
- Bản thân tôi không đến gần các em để nghe cho rõ. Tập cho các em đọc
to đến khi nào bạn xa nhất trong lớp nghe rõ mới thôi.Tránh tình trạng học sinh
hiểu rằng: Khi đọc chỉ cần cho cô giáo nghe là đủ.
- Tôi động viên khuyến khích, dạy cho các em tự tin trước tập thể lớp,
được đứng trước các bạn nhiều lần dần dần các em sẽ thích được đọc, đọc to,
dõng dạc.
- Hầu hết các em đọc nhỏ là thường đọc với ngữ điệu thấp, cường độ lớn
phải đi kèm với cao độ cao. Chính vì vậy tôi cho các em đọc nâng giọng cao

hơn, luyện cho các em thở sâu và lấy hơi lâu ở những chỗ ngắt nghỉ khi đọc.
9


- Ngược lại đối với những học sinh đọc quá to, gào lên làm người nghe
khó chịu thì lại cần phải điều chỉnh cho các em đọc nhỏ lại bằng cách tôi đọc
mẫu để các em nhận rõ độ lớn của giọng như thế nào là vừa phải.
Tóm lại: Trong luyện đọc thành tiếng thì luyện cho học sinh đọc to rõ
ràng là rất cần thiết, giúp cho các em giao tiếp một cách tự tin trước đông người,
bản thân mỗi giáo viên không nên chỉ chú trọng đến việc luyện đúng từ, đúng
câu mà bỏ qua việc rèn đọc to cho học sinh.
2.3.2.Biện pháp 3: Luyện đọc nhanh.
Đọc nhanh còn gọi là (đọc lưu loát, trôi chảy). Luyện đọc nhanh được đặt
ra sau khi luyện đọc đúng. Đối với học sinh đọc thì hầu hết học sinh làm chủ
được tốc độ tuy nhiên phần đa một số em thì đọc quá chậm, một số em thì lại
đọc liến thoắng.
Biện pháp sửa lỗi:
- Để hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ trước tiên giáo viên đọc mẫu để các
em theo dõi tốc độ đã định.
- Tập trung theo dõi tốc độ đọc của học sinh, và phải biết nhắc nhở kịp thời
để các em giữ được tốc độ, ổn định tốc độ đọc bằng cách ra hiệu lệnh: “Đọc
nhanh hơn nào!”, “Đọc chậm lại!”
- Dự định thời gian đọc bài đó trong bao lâu bằng cách cho các em đếm tiếng
và giáo viên nên định lượng thời gian đọc.
- Tuy nhiên thời gian đọc còn phụ thuộc vào bài khó đọc hay dễ đọc của từng
thể loại văn bản. Mặt khác, bài có nội dung khó hơn thì cách đọc chậm hơn
những bài có nội dung dễ.
- Việc bố trợ cho luyện đọc nhanh là: Tôi ghi những câu có âm nói nhanh
thường hay bị lẫn ra bảng phụ để luyện đọc cho các em tập đọc nhanh các câu
đó trước khi đọc cả bài.

Tóm lại: Việc đọc nhanh của học sinh phụ thuộc nhiều vào việc luyện đọc
đúng. Tuy nhiên không phải đọc nhanh là chỉ nói về tốc độ phát ra âm thanh mà
còn là tốc độ tiếp nhận nội dung. Chính vì vậy mà tránh tình trạng học sinh đọc
quá nhanh làm người nghe không kịp hiểu gì.
2.3.4. Biện pháp 4: Luyện đọc diễn cảm.
Chúng ta đã biết rằng giọng đọc của một văn bản công vụ hành chính, một
mẩu tin khác với giọng đọc một văn bản nghệ thuật. Khi đọc một văn bản nghệ
thuật thì giọng đọc truyện khác giọng đọc kịch, đọc thơ; giọng đọc một bài văn
miêu tả khác giọng đọc một bài văn tường thuật. Đây là một vấn đề rất nan giải
đối với học sinh tiểu học. Nhiều em đạt được yêu cầu đọc đúng, to, nhanh đã
khó thì luyện đọc diễn cảm còn khó hơn. Để giúp các em đọc hay bài tập đọc
(văn bản văn chương) tôi đã luyện cho các em theo các nội dung sau:
1. Nội dung của luyện đọc điễn cảm:
1.1 Ngắt giọng biểu cảm:

10


ở phần luyện đọc đúng ta đã đề cập đến việc ngắt giọng theo đúng quan
hệ ngữ nghĩa - ngữ pháp, thì ở phần luyện đọc hay (đọc diễn cảm) tôi muốn đề
cập đến việc ngắt giọng biểu cảm.
Ngắt giọng biểu cảm là chỗ ngừng lâu hơn bình thường hoặc chỗ ngừng
không lôgic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm
xúc. Hầu hết các em học sinh khi đọc bài chỉ ngắt giọng theo lôgic tức là hoàn
toàn phụ thuộc vào ý nghĩa quan hệ giữa các từ mà ít em có thể ngắt giọng biểu
cảm. Khi dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm tôi thường dạy theo các nội
dung sau:
- Các dấu ngắt câu cũng có khi thể hiện sự ngắt giọng lôgic, cũng có khi thể
hiện của việc ngắt giọng biểu cảm.
Ví dụ: Cậu bé ấp úng:

- Chẳng hạn, sáng nay bệ hạ đã quên ... lau miệng ạ.
(Vương quốc vắng nụ cười – Tiếng việt 4 tập 2)
- Đọc đến dấu (...) của ví dụ trên tôi hướng dẫn học sinh phải đọc với giọng
ngập ngừng e ngại để người nghe cảm nhận được sự ngại ngần của cậu bé khi
nói với nhà vua.
-Ngắt giọng biểu cảm còn thể hiện ở chỗ ngừng, chỗ lắng, sự im lặng có tác
dụng truyền cảm, gây chú ý của người nghe vào sau chỗ ngừng, góp phần tạo
nên hiệu quả nghệ thuật cao.
Ví dụ: “Tuổi ngựa”
Có 3 câu thơ: Gió xanh miền trung du
Gió hồng vùng đất đỏ
Gió đen lướt đại ngàn.
Ta ngắt giọng:
Gió / xanh miền trung du
Gió / hồng vùng đất đỏ
Gió / đen lướt đại ngàn.
Ngắt giọng như trên nhằm tạo chỗ ngừng, tập trung sự chú ý của người
nghe vào những từ ngữ sau chỗ ngừng là “xanh”, “hồng”, “đen”. Lúc này các từ
“xanh”, “hồng”, “đen” không phải là tính từ nữa mà đã trở thành động từ nói lên
tác dụng, hoạt động của ngọn gió.)
1.2. Tốc độ:
Tốc độ chi phối sự diễn cảm, có ảnh hưởng đến việc thể hiện ý nghĩa, cảm
xúc.
- Trước khi nói đến làm chủ tốc độ để đọc diễn cảm thì cần phải rèn một
kỹ năng đó là đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy, đọc không được ê a
ngắc ngứ). Tôi đã trình bày biện pháp đọc nhanh ở phần III.
- Khi đọc văn bản có nội dung miêu tả một công việc dồn dập, khẩn
trương cần đọc nhịp nhanh đi đôi với cảm xúc vui:

11



Ví dụ: Mưa rả rích đêm ngày, mưa tối tăm mặt mũi, mưa thối đất thối cát.
trận này chưa qua, trận khác đã tới, ráo riết hung tợn hơn. Tưởng như biển có
bao nhiêu nước trời hút lên đổ xuống đất liền.
(Giữ đê)
-Ngoài ra thay đổi tốc độ đọc sẽ gây sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt.
Ví dụ: Hai câu thơ của bài thơ “Tiểu đội xe không kính”
Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Khi đọc 2 câu thơ này chậm lại , nhịp dãn ra thì sẽ gây ấn tượng “cảm
động” cho người đọc hơn là đọc bình thường hoặc nhanh.
- Trong một bàiTập đọc thường có câu ngắn, câu dài khi đọc những câu
ngắn thường phải đọc nhịp nhanh gấp gáp, những câu dài thì đọc với nhịp trải
dài ra.
Ví dụ: Trong bài “Chú chuồn chuồn nước”. Những câu: “ Rôì đột nhiên,
chú chuồn chuồn nước tung cánh bay vụt lên. Cái bóng chú nhỏ xíu lướt nhanh
trên mặt hồ. Mặt hồ trải rộng trong xanh và gợn sóng. Chú bay lên cao hơn và xa
hơn.” đọc với nhịp nhanh còn các câu “Rồi những cảnh đẹp của đất nước hiện
ra: Cánh đồng với đàn trâu thung thăng gặm cỏ, dòng sông với những đoàn
thuyền ngược xuôi.” thì đọc chậm lại, nhịp dãn ra để câu văn trải dài và hạ thấp
giọng sau dấu hai chấm (:) nhằm thể hiện được trước mắt người đọc những
cảnh đẹp thanh bình của đất nước.
- Tốc độ đọc bài văn xuôi cũng khác bài thơ. Khi đọc thơ nó chi phối bởi
nhạc điệu. Chính vì vậy khi đọc thơ không phải chỉ đọc chậm mà phải dùng cả
trường độ, kéo dài giọng đọc từng tiếng (còn gọi là đọc ngâm) để cho câu thơ đó
ngân lên.
1.3 Cường độ:
Khi đọc văn bản nghệ thuật hay văn bản phi nghệ thuật chúng ta không
được đọc với giọng quá to hoặc quá bé mà phải có một cường độ hợp lí để thu

hút người nghe. Vậy cường độ đọc cũng có giá trị diễn cảm. Cường độ phối hợp
với cao độ tạo ra giọng vang hay giọng lắng.
Ví dụ: Khổ thơ:
Em cu tai ngủ trên lưng mẹ ơi.
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)
Khi đọc khổ thơ này ta không ngắt bằng những phách mạnh mà dùng
trường độ hơi kéo dài giọng để tạo đường ranh giới ngắt nhịp, đồng thời phải
đọc với giọng nhẹ nhàng tha thiết như lời ru. Nhưng khi đọc câu: “Nào/ nung thì
nung/ ” (Chú Đất Nung) thì cần phải đọc với cường độ mạnh thể hiện sự mạnh
dạn, táo bạo.
1.4 Cao độ:
12


Khi nói đến việc sử dụng cao độ để đọc diễn cảm là nói đến chỗ lên
giọng, xuống giọng có dụng ý nghệ thuật.
Ví dụ: Khi đọc khổ thơ thứ 3 trong bài thơ “Tiểu đội xe không kính”
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngưng, gió lùa mau khô thôi.
Cần đọc hơi lên giọng thể tinh thần lạc quan của các chiến sĩ lái xe trong
những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, họ coi thường khó khăn gian khổ.
Những câu thơ trên được nâng giọng khi đọc thì ngược lại nhiều trường hợp hạ
giọng cũng có dụng ý nghệ thuật.
- Khi đọc các văn bản kể chuyện thì cần kết hợp giữa cao độ và cường độ
trong giọng đọc. Để phân biệt lời tác giả (lời dẫn chuyện) và lời của nhân vật thì

khi đọc lời dẫn chuyện cần đọc nhỏ thấp hơn lời nói trực tiếp của nhân vật. ở
đây có sự chuyển giọng của người đọc mà những lời dẫn như nền thấp cho
những lời hội thoại nổi lên.
Ví dụ: Khi đọc văn bản chuyện “Chú Đất Nung” hay văn bản kịch “Yết
kiêu” cũng như vậy.
2. Những lỗi của học sinh khi đọc diễn cảm:
Ở trên là những nội dung mà chúng ta áp dụng để dạy luyện đọc diễn cảm
cho học sinh tiểu học. Trong quá trình luyện đọc cho các em tôi thấy các em
thường mắc những lỗi sau:
- Nhiều học sinh đọc ở mức giải mã kí tự trơn từng âm tiết, đọc đều rời
rạc như đếm từng tiếng một, không có trọng âm từ, không có trọng âm câu,
không có cảm xúc.
- Có những học sinh đọc có vẻ như rất “diễn cảm” nhưng lại thể hiện
không đúng cảm xúc. Đọc bài nào cũng với giọng thổn thức thiết tha hay đọc
với giọng to hùng hồn.
- Học sinh thường đọc với giọng đều đều không kết hợp giữa cao độ,
trường độ, nhấn giọng hay lơi giọng. Đọc không thể hiện được nội dung của bài.
Biện pháp sửa lỗi:
+ Cần hiểu rằng đọc diễn cảm không phải là đọc sao cho điệu thiếu tự
nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ
điệu để phô diễn cảm xúc của bài đọc. Chính vì vậy bản thân tôi dạy cho học
sinh phải hoà nhập với câu chuyện, bài văn, bài thơ có cảm xúc mới tìm thấy
ngữ điệu, giọng đọc thích hợp.
+ Sau khi hiểu sâu sắc bài đọc thì để học sinh tự nhiên nêu cách đọc của
bài chứ tôi chưa áp đặt. Hiểu, có những ấn tượng với bài đọc chưa đủ, tôi hướng
học sinh cần có mong nuốn tha thiết chia sẻ với mọi người những ấn tượng của
mình mới có thể đọc hay.
+ Tôi tổ chức cho học sinh đàm thoại, nhận ra thể loại văn bản hiểu ý đồ
của tác giả, thảo luận với học sinh để xác định giọng điệu chung của bài. Nếu
13



đọc thơ cần chú ý đến tính nhịp điệu của ngôn ngữ thơ ca, tức truyền đạt được
chất nhạc của thơ. Đọc văn xuôi thì chú ý đến sự vận động tư tưởng của tác giả.
+ Trong phần tìm hiểu bài thơ thì tôi phải phân tích kĩ nội dung bài tập
đọc sẽ giúp học sinh xác định giọng đọc chung của cả bài: nhẹ nhàng, tha thiết,
vui tươi, ngợi ca, mạnh mẽ, trầm lắng, buồn thương ... nhịp điệu của bài nhanh,
hơi nhanh, hơi chậm, chậm ...
+ Cùng học sinh phân tích thể hiện, lập dàn ý và xác định giọng của từng
đọc.
Ví dụ:Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Khổ thơ 1: Hai dòng đầu đọc với giọng kể bình thản, hai dòng sau thể
hiện thái độ ung dung. Nhấn giọng ở các từ ngữ: Không phải, bom giật, bom
rung, ung dung, nhìn.
Khổ 2: Đọc với giọng vui, nhanh nhấn giọng các từ ngữ: Xoa mắt, chạy
thẳng, vào tim, như sa, như ùa.
Khổ thơ 3: Đọc với giọng thư thái, nâng giọng vui thể hiện việc coi
thường khó khăn gian khổ, nhấn giọng ở các từ ngữ: ừ thì ướt áo, mưa tuôn,
mưa rơi, chưa cần thay, mau khô.
Khổ 4:Đọc vớigiọng nhẹ nhàng, tình cảm.
+ Luyện đọc cho các em để các em thành công khi đọc trước người nghe.
Tôi đã tổ chức cho các em luyện đọc theo các hình thức nhóm đôi, nhóm sáu
hoặc cá nhân. Khi luyện tập thì tôi chỉ ra cho học sinh chỗ khó đọc, những
“điểm nút” trong bài đòi hỏi học sinh phải hiểu được mới tìm cách thể hiện điều
đó qua giọng đọc.
Ví dụ: Khi đọc đoạn: “Bỗng từ trên cây cao gần đó, một con sẻ già có bộ
ức đen nhanh lao xuống như hòn đá rơi trước mõm con chó. Lông sẻ già dựng
ngược, miệng rít lên tuyệt vọng và thảm thiết. Nó nhảy hai ba bước về phía cái
mõm há rọng đầy răng của con chó.
Sẻ già lao đến cứu con, lấy thân mình phủ kín sẻ con. Giọng nó yếu ớt

nhưng hung dữ và khản đặc. Trước mắt nó, con chó như một con quỷ khổng lồ.
Nó sẽ hi sinh. Nhưng một sức mạnh vô hình vẫn cuốn nó xuống đất”
(Con sẻ – TV4 Tập 2)
+ Tôi hướng dẫn học sinh luyện đọc đoạn này diễn cảm theo các câu hỏi
như sau:
- Nội dung của đoạn này là gì? (kể lại cuộc đối đầu giữa sẻ mẹ bé nhỏ và con
chó khổng lồ)
- Để thực hiện được nội dung ta cần đọc với giọng như thế nào? và nhấn
giọng ở những từ ngữ nào? (đọc với giọng hồi hộp căng thẳng, nhấn giọng các
từ ngữ: dựng ngược, rít, tuyệt vọng, thảm thiết, lao đến, phủ kín, hung dữ, khản
đặc, hi sinh, cuốn nó, để người đọc thấy được vì sao con chó phải dừng lại và
thấy được tình yêu con tha thiết của sẻ mẹ thông qua việc dũng cảm cưú con)
+Sau khi đã tìm hiểu kĩ về đoạn luyện đọc diễn cảm thì tôi sẽ đọc mẫu rõ cho
các em đọc nhóm đôi, thi đọc hay giữa các nhóm. Học sinh nhận xét và giải
14


thích cho cả lớp nghe vì sao đọc với giọng như vậy là hay, vì sao đọc thế chưa
hay, chỗ nào trong cách đọc của cô và của bạn mà em thích.
+ Chúng ta cần phải chú ý một điều, đọc diễn cảm là kết quả của việc hiểu
thấu đáo bài đọc nên không thể tách rời với luyện đọc hiểu. Chính tác phẩm quy
định ngữ điệu. Sau đây tôi sẽ làm rõ một số kỹ năng đọc diễn cảm qua bài tập
đọc “Chợ Tết” ( TV Lớp 4 – Tâp 2)
Giọng đọc chính của 4 câu thơ đầu
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng núp đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết.
là chậm rãi, nhẹ nhàng và nhấn giọng ở các từ ngữ nói lên khung cảnh bình
minh tráng lệ hôm có phiên chợ như “ Mây trắng đỏ dần...” “ Sương hồng lam”

“ vầng trắng mép đồi xanh”. Đối với câu thơ “ Người các ấp tưng bừng ra chợ
tết” đọc hơi nhanh, mạnh để người đọc cảm nhận được không khí bao quát của
chợ tết.
7 câu thơ tiếp theo: Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
- Đọc với nhiệp điệu nhanh, giọng vui nhộn, rộn ràng, thể hiện không khí
vui vẻ, đông vui của người đi chợ, với 2 câu thơ “Thằng em bé nép đầu bên yếm
mẹ” đọc hơi chậm lại một chút so với 6 câu thơ còn lại để thể hiện sự rụt rè sợ
hãi của những em bé lần đầu đi chợ. Nhấn giọng vào các từ ngữ tả hình dáng vẻ
riêng của những người đi chợ như: Quần áo, hoạt động, vui cười... Ví dụ: yếm
thắm, áo đỏ, lon xon, lom khom, lặng lẽ, nép đầu, ngộ nghĩnh, đuổi theo sau.. ..
4 câu thơ: Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh
Cảnh vật ở đây được nhân hoá như mang tính người, hồn người cũng
khoe sắc, chia vui với bà con chính vì vậy khi đọc ta phải nhấn giọng ở các
danh từ mà tác giả sử dụng rất đắt “ Rỏ” “ Cháy hoài” “ Uốn mình” “ Thoa” “
Nằm”
Kết thúc bài thơ là một hình ảnh đông vui của phiên chợ tết ngày xưa
“Người mua bán ra vào đường cổng chợ ” câu thơ này cần đọc với giọng chắc
và mạnh mẽ.

15



Nhờ nhạc điệu của bài thơ, nhờ phối hợp cao độ, do có ngắt nhịp mà khi
đọc loại thơ “Chợ tết” ta có thể bộc lộ được cảm xúc vui vẻ, rộn ràng và hoà với
những khung cảnh vui tươi của chợ tết.
* Qua sự phân tích ở trên ta thấy: Việc xem xét về bình diện âm thanh
của ngôn ngữ - ở đây là mặt âm thanh của văn bản đã giúp chúng ta có căn cứ để
chỉ ra được những từ ngữ, câu, cần luyện đọc cho học sinh và xác định được
chúng cần đọc lên như thế nào. Tiếp tục kết quả của việc đọc hiểu (Tìm hiểu
bài)thì việc xem xét bình điện âm thanh của ngôn ngữ sẽ giúp chúng ta xác định
giọng điệu chung của bài và làm chủ được ngữ điệu của bài văn, bài thơ
- Như vậy việc luyện đọc đúng chính âm, trọng âm, ngữ điệu, cao độ, trường
độ.. . Giúp học sinh đọc thành thạo một văn bản hoàn chỉnh thành tiếng theo yêu
cầu.
2.3.5. Biện pháp 5: Đọc mẫu của giáo viên và ghi bảng :
Đọc mẫu của giáo viên :
- Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt trước hết giáo viên đọc mẫu phải
chuẩn , hay, có sức cuốn hút học sinh vì trong bước rèn đọc thì việc đọc mẫu của
thầy có ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe thầy
đọc và coi đó làm chuẩn mực để bắt chước và so sánh với giọng đọc của mình.
Chính vì vậy thầy cô cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ được cô đọc
nói đều phải chuẩn mực .
Có nhiều cách đọc mẫu :
+ Đọc mẫu toàn bài: để giới thiệu, gây hứng thú cho học sinh.
+ Đọc câu, đoạn : Giúp học sinh nhận xét, giải thích, tìm ra cách đọc.
Vậy là, tuỳ theo từng bài mà giáo viên đọc cả bài hoặc một đoạn. Đọc vào
đầu tiết hay cuối tiết …..
Cách trình bày bảng :
Bảng lớp cũng là một đồ dùng trực quan giúp học sinh đọc tốt. Chính vì
vậy, tôi luôn trình bày bảng gọn, rõ, đảm bảo tính đặc trưng của bộ môn để học
sinh nhìn vào cũng có được cách đọc .

Ví dụ đối với bài Tiếng cười là liều thuốc bổ( SGK Tiếng Việt T2-Trang
153) tôi đã trình bày bảng như sau :
Luyện đọc
Từ ngữ cần luyện đọc

Tìm hiểu bài
Từ ngữ , hình ảnh, chi tiết nổi bật cần
nhớ.

Câu , đoạn ( khổ thơ ) cần hướng dẫn
cách đọc, lưu ý khi đọc diễn cảm.
Ý chính của đoạn ( khổ thơ ), của bài

16


cần ghi nhớ .
Tôi còn chuẩn bị một bảng phụ, chép sẵn nắn nót và đẹp một câu văn dài
hoặc một đoạn văn khó đọc để gọi học sinh lên dấu chỗ ngắt, nghỉ hơi, nhấn
giọng …trước khi đọc cá nhân và đọc diễn cảm. Học sinh lớp tôi quen thuộc và
dùng rất tốt các ký hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài .
Ví dụ: Dấu “ / ’’ dùng khi ngắt hơi; “ // ’’ để chỉ sự nghỉ hơi dài; “ ….....’’ chỉ lên
giọng; “ …….’’ chỉ sự xuống giọng; “ …….’’ chỉ đọc chậm lại, kéo dài giọng,
dấu gạch dưới biểu thị sự nhấn giọng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
Trong quá trình áp dụng các biện pháp rèn kĩ năng đọc thành tiếng cho học
sinh lớp 4 tôi nhận thấy rõ kết quả bước đầu thu được tương đối khả quan. Khi
áp dụng các biện pháp này thì tất cả học sinh đều được hoạt động tức là mọi cá
nhân học sinh đều được đọc dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

- Đã bước đầu biểu hiện sự tiến bộ trong hoạt động học tập của các em.
Trong suốt giờ học các em hào hứng luyện đọc và nhận xét giúp bạn sửa sai khi
đọc lỗi. Các em trao đổi, thảo luận nêu ý kiến của mình một cách tự tin về giọng
đọc của bài.
- So với đầu năm học số lượng học sinh đọc đúng, đọc hay tăng lên rõ rệt.
Những học sinh hay mắc lỗi sai phát âm tiếng địa phương như: em Phạm Đinh
Nhật Hoàng; Nguyễn Văn Đức; Nguyễn Đức Minh; Tạ Thị Ngọc Diệp;… hiện
nay đã phát âm rất chuẩn. Gặp những bài có câu dài các em đã biết cách tìm
cách ngắt nhịp đúng và nhiều em đã biết cách ngắt giọng biểu cảm.
Tôi đã tiến hành khảo sát với đối tượng hoc sinh như đầu năm, nội dung
khảo sát là: Mỗi học sinh đọc thành tiếng 2 bài:
1. Truyện cổ nước mình (thơ) ( SGK Tiếng Việt 4-Tập 1-trang 19)
2. Vương quốc vắng nụ cười (văn xuôi) (SGK Tiếng Việt 4-Tập 2trang 132)
Kết quả như sau:
Tổng
Đọc đúng, lưu loát,
Đọc đúng, chưa
Đọc chưa chuẩn, ngắc
số HS diễn cảm.
lưu loát
ngứ, tốc độ chưa phù
hợp.
SL
TL
ST
TL
SL
TL
42 em
30

72%
12
28%
0
0
3. Kết luận, kiến nghị:
3.1. Kết luận:
Đọc là cơ hội đầu tiên đối với trẻ em khi bắt đầu đến trường đi học. Đọc
giúp các em chiếm lĩnh tri thức, dùng trong giao tiếp và là công cụ để học các
17


bài học khác. Vì vậy trong giờ tập đọc việc rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh
là rất quan trọng. Các em có đọc đúng thì mới có cơ sở để hiểu đúng và ngược
lại nếu các em không hiểu những gì mình đang đọc thì không thể đọc đúng, nếu
đọc đúng mà đọc không hay thì không nêu bật được nội dung của bài, đúng ý
của tác giả trong tác phẩm chính vì vậy luyện đọc thành tiếng cho học sinh lớp 4
giáo viên nên phải lưu ý một số vấn đề sau:
- Khảo sát để nắm vững đặc điểm, thực trạng phát âm của học sinh trong
lớp của địa phương mình, để tìm ra điểm yếu của các em khi đọc thành tiếng. Từ
đó có biện pháp khắc phục lỗi một cách linh hoạt trong một giờ tập đọc.
- Luyện đọc lấy học sinh làm trung tâm, cần luyện đọc những chỗ các em
còn mắc lỗi đối với từng bài, từng đối tượng cụ thể tránh hình thức luyện chung,
luyện từ dễ đến khó, tiêu chí thực hiện trong cả một quá trình. Nguyên tắc của
việc của việc luyện đọc là luyện càng nhiều càng tốt và nội dung luyện tập phải
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên những ngữ liệu khác nhau để học sinh trở
thành kỹ xảo.
- Khi soạn bài lên lớp các mục tiêu luyện tập phải rõ ràng tường minh,
trực quan và lượng hoá được: Tức là các thông số âm thanh của lời phải đo đếm
được, quan sát được ?). Phải lựa chọn ngữ liệu( Từ, ngữ, câu, đoạn, để luyện đọc

sao cho tiết kiệm thời gian.)
- Trong khi luyện tập cần phối hợp đồng bộ tối đa các biện pháp, hình
thức luyện đọc không nên chỉ bó hẹp trong một phương pháp dạy học truyền
thống, phải có nhiều hình thức mới. Ngoài hình thức đọc cá nhân cần phải kết
hợp với đọc nối tiếp câu, nối tiếp đoạn, đọc theo nhóm, đọc thi giữa các tổ, đọc
phân vai ...
- Giáo viên phải biết làm mẫu và làm mẫu một cách chính xác, biết quan
sát cách đọc của các em để nhận rõ được những chỗ sai lệch. Ngoài ra giáo viên
còn phải biết tái hiện lời đọc của học sinh trong thế đối chiếu với lời đọc mẫu để
có thể hướng dẫn: “Em đọc như thế này... và bây giờ chúng ta cần đọc như thế
này...!”
- Trước khi đọc chúng ta phải chuẩn bị cho học sinh tâm thế đọc. Khi ngồi
đọc các em phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nằm trong
khoảng 30 cm – 35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi.
Nên tạo cho các em tự tin mà không hấp tấp khi đọc để đọc to, rõ ràng.
- Đối với phần đọc diễn cảm thì giáo viên nên để học sinh thông qua việc
tìm hiểu bài, lắng nghe đọc mẫu của thầy cô để tự tìm ra giọng đọc phù hợp với
nội dung từng bài, từng tính cách nhân vật.
Như vậy trong luyện đọc thành tiếng nếu chúng ta hướng dẫn kĩ cho học
sinh thì sẽ nâng cao được chất lượng của việc đọc đúng, đọc hay trong một giờ
tập đọc. Việc chúng ta phân ra các bước luyện đọc đúng, đọc to, đọc nhanh, đọc
diễn cảm mục đích là để làm rõ hơn các biện pháp dạy học, sửa lỗi và một số nội
dung cần dạy cho học sinh. Tuy nhiên trong quá trình luyện đọc diễn cảm cần
sửa lỗi phát âm, khi luyện đọc đúng chỗ ngắt giọng đã tạo ra cách đọc diễn
18


cảm... Kết thúc quá trình luyện đọc thành tiếng học sinh phải đọc toàn bài ở
trình độ đúng, diễn cảm. Song tuỳ theo từng vùng, từng lớp mà ta đặt ra ở mức
độ khác nhau.

3.2. kiến nghị:
Đối với giáo viên:
- Bản thân mỗi giáo viên phải là người Nói chuẩn – Viết chuẩn tiếng phổ
thông thì học sinh mới học tập và làm theo một cách chính xác.
- Cần dành nhiều thời gian tâm huyết cho việc chuẩn bị giờ dạy trên lớp,
nghiên cứu thật sâu bài dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo trước khi
lên lớp.
- Giáo viên cần tích cực trong việc tự học, tự bồi dưỡng và tham khảo
nghiên cứu nhiều tài liệu để đổi mới phương pháp và sáng tạo vận dụng
nhiều hình thức trong quá trình giảng dạy.
- Đối với mỗi giờ tập đọc phải biết dự kiến những tình huống học sinh có
thể đọc sai.
Đối với nhà trường:
- Chỉ đạo thường xuyên, dự giờ thăm lớp của giáo viên và có các danh hiệu
phần thưởng để động viên khích lệ đối với những giáo viên có đóng góp
trong việc nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy.
- Cần trang bị thêm trang thiết bị đồ dùng dạy học phân môn Tập đọc.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi để rèn kĩ năng đọc
thành tiếng cho học sinh lớp 4. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp
nhằm góp phần nâng cao chất lựợng dạy đọc cho học sinh lớp 4.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 04 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Lê Thị Thu


19


MỤC LỤC
TT
1.
1.1.
1.2
1.3
1.4
1.5
2.
2.1
2.2
2.3
2.4

Tên đầu mục
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của SKKN
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của vấn đề
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các các biện pháp đó sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục


3.
3.1
3.2

với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Kết luận - Kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
01
01
02
02
02
02
02
03
03
15
16
16
17

Tài liệu tham khảo
TT
Tên tài liệu
1 Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 – Tập 1 – Tập 2.


Biên soạn
Nhà xuất bản
20


2
3

Phương pháp dạy học Tiếng Việt
Sách giáo viên Tiếng Việt 1, thiết kế Tiếng Việt lớp 1

4

Sách giáo viên Tiếng Việt 4, thiết kế Tiếng Việt lớp 4

giáo dục
Lê Phương Nga
Nhà xuất bản
giáo dục
Nhà xuất bản
giáo dục

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:

Lê Thị Thu
21



Chức vụ và đơn vị công tác: giáo viên -Trường TH Minh Khai 2 - TPThanh Hoá

TT

1

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
đề tài
SKKN
loại
đánh giá
SỞTên
GIÁO
DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
THANH xếp
HOÁ
(Phòng,
(A, B,
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
THÀNH
PHỐ xếp loại
Sở,TẠO
Tỉnh...)

hoặc C)
Thiết kế, sử dụng trò chơi
học tập phân môn chính tả
Tỉnh
C
2013-2014
lớp 3.

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG
CHO HỌC SINH LỚP 4.

Người thực hiện: Lê Thị Thu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Minh Khai 2
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
N I. MỞ ĐẦU
I.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để phù hợp với xu thế phát triển chương trình tiểu học của khu vực và thế
giới, phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Nhà nước ta đã đổi mới công tác giáo dục tiểu học. Mục tiêu giáo dục sau năm
22

THANH HÓA NĂM 2018


2000 nhằm “Giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần

hình thành nhân cách con người Việt nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở” (Điều 23 luật GD năm 1998).
Muốn xây dựng con người mới toàn diện như mục tiêu thì trước hết phải
có trình độ văn hoá. Để trở thành các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà thơ,
bác sĩ … thì trước hết phải biết đọc. Ngoài ra những kinh nghiệm của đời sống,
những thành tựu văn hoá, khoa học, những tư tưởng tình cảm của những người
đi trước và của những người đương thời phần lớn đều được ghi lại bằng chữ
viết. Nếu không biết đọc con người sẽ không tiếp thu được nền văn minh của
loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng
từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên
nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan
hệ tự nhiên, xã hội, tư duy.
Bản thân là một giáo viên dạy lớp 1trong nhiều năm, tôi nhận thấy: Có
một số học sinh đã đọc đạt theo yêu cầu nhưng đa số học sinh đang còn nhiều
hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa đọc được theo yêu cầu mong muốn. Kết
quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc.
Các em chưa nắm chắc công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng tình cảm
của tác giả chứa đựng trong văn bản được đọc… Trước thực trạng này tôi rất
băn khoăn và lo lắng làm sao để các em đọc đúng, đọc hay. Chính vì vậy tôi đã
áp dụng một số phương pháp dạy đọc thành tiếng cho học sinh và trong năm học
n ày đã thu được kết quả: Học sinh đọc tốt lên một cách rõ rệt trong việc phát
âm, ngắt nhịp … Tôi mạnh dạn viết ra một số kinh nghiệm này mong các đồng
nghiệp góp ý thêm.
II.
KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU NĂM.
1. Thời gian khảo sát.
Lần 1: Ngày 4/ 9/ 2007
Lần 2: Ngày 29/ 4/ 2008
2. Đối tượng khảo sát:

Năm 2007 - 2008 Lớp IA
3. Nội dung khảo sát: Đọc 2 bài

23



×