Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực trong dạy học tiếng việt cho học sinh lớp 5b trường TH lam sơn 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (869.05 KB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG TIỂU HỌC LAM SƠN 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
CHO HỌC SINH LỚP 5B, TRƯỜNG TIỂU HỌC LAM SƠN 3.

Người thực hiện: Trinh Thị Tâm
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Lam sơn 3
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

BỈM SƠN NĂM 2018
A. ĐẶT VẤN ĐỀ


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Vấn đề đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học ở bậc Tiểu học
luôn được các nhà giáo dục quan tâm. Xét một cách tổng thể thì mọi phương
pháp, mọi hình thức tổ chức dạy - học đều thống nhất khẳng định vai trò của
người học không phải tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà là những chủ thể
nhận thức tích cực trong quá trình học tập .
Hiện nay, chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các kí tự, đường thẳng,
con số,…. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não
- não trái mà chưa sử dụng não phải, nơi giúp ta xử lí các thông tin về nhịp điệu,
màu sắc, không gian,…và cách ghi chép thông thường khó nhìn được tổng thể


của cả vấn đề.
Trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng và môn Tiếng Việt bậc Tiểu
học nói chung, việc “Sử dụng Sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực trong
dạy - học Tiếng Việt cho học sinh lớp 5” là vấn đề mà tôi thấy chưa có tài liệu
nào nghiên cứu sâu và có những phương pháp sử dụng cụ thể. Chính vì thế mà
trong quá trình giảng dạy bản thân tôi cũng như nhiều đồng nghiệp, chưa mạnh
dạn nghiên cứu, tìm tòi và áp dụng. Bởi vậy, năm học 2017-2018, qua thực tế
giảng dạy tại lớp 5B, tôi nhận thấy sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn
Tiếng Việt sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng yêu cầu đổi
mới mục tiêu giáo dục. Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ học Tiếng Việt mang lại
hiệu quả giáo dục đáng kể như: giúp học sinh tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa
các đối tượng học sinh, góp phần thiết thực vào việc hình thành khắc sâu kiến
thức cơ bản của bài học cũng như rèn luyện kĩ năng cơ bản của từng tiết học.
Hơn nữa, việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Tiếng Việt còn giúp học
sinh hệ thống được mạch kiến thức đã học. Nếu giáo viên lựa chọn được sơ đồ
tư duy phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh Tiểu học, tổ chức đúng cách
và đúng hướng sẽ giúp cho các em hiểu bài nhanh, nhớ lâu, nhớ kĩ đồng thời
phát triển trí thông minh, óc sáng tạo cho các em.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Sử dụng Sơ
đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực trong dạy - học Tiếng Việt cho học
sinh lớp 5B, trường Tiểu học Lam Sơn 3” để làm sáng kiến kinh nghiệm cho
bản thân trong năm học 2017-2018.
2. Mục đích nghiên cứu :
- Nghiên cứu sơ đồ tư duy để vận dụng trong phương pháp dạy học môn
Tiếng Việt lớp 5.
- Nghiên cứu sơ đồ tư duy để phát huy tính tích cực và nâng cao hiệu quả
giờ dạy Tiếng Việt.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Tiếng Việt lớp 5.
- Học sinh lớp 5B, trường Tiểu học Lam Sơn 3 học tập môn Tiếng Việt.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
2


- Phương pháp nêu vấn đề
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thực hành, vận dụng.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, đối chứng số liệu.

3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nhằm “Hình thành và
phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học
tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc
dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy; cung cấp cho
học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã
hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài;
bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.”
Với mục tiêu trên thì trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò hết
sức quan trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng
lực sử dụng tiếng Việt trong học tập và giao tiếp. Ngay từ bậc Tiểu học, môn

Tiếng Việt đặc biệt chiếm ưu thế trong việc hình thành và phát triển ở học sinh
các kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Việc dạy tiếng Việt ở Tiểu học sẽ tạo cho học
sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt, có phương tiện giao tiếp để phát triển toàn
diện.
Hiện nay, với xu thế đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung
tâm, tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, việc lựa chọn các biện pháp
dạy giải nghĩa từ cho học sinh Tiểu học nhằm giúp học sinh nắm được nội dung
bài học một cách chủ động và sâu sắc hơn, hứng thú hơn là việc làm cùng cần
thiết đối với người giáo viên. Thực tế cho thấy, nếu giáo viên biết vận dụng linh
hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để học sinh tham gia tích cực
vào quá trình học tập thì học sinh dễ dàng nắm được kiến thức bài học một cách
vững chắc.
Do đó, việc sử dụng Sơ đồ tư duy rèn luyện phương pháp học tập cho
học sinh, ứng dụng sơ đồ tư duy vào trong dạy học là một trong những biện
pháp góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy của giáo viên.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thực trạng khi dạy và học Tiếng Việt của học sinh lớp 5 ở trường Tiểu
học Lam Sơn 3
* Đối với giáo viên:
Việc dạy môn Tiếng Việt cho sinh Tiểu học hầu hết giáo viên đều sử dụng
những phương pháp d¹y truyền thống như: dùng trực quan, dùng ngữ cảnh,
giảng giải, vấn đáp …. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiệu quả của việc giảng dạy
TiÕng Việt cho học sinh vẫn chưa cao. Khi dạy Tiếng Việt cho học sinh Tiểu
học, giáo viên vẫn là người hoạt động chủ yếu, học sinh vẫn chưa phát huy được
tính tích cực, chủ động. Vì thế, việc học Tiếng Việt chưa phải là m«n häc
høng thú đối với học sinh, giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
Một số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy m«n
TiÕng ViÖt nhưng do kiến thức về từ vựng chưa sâu và sử dụng các biện pháp
dạy chưa phù hợp nên hiệu quả mang lại chưa cao.
4



Việc dạy ë TiÓu häc đánh giá HS theo thông tư 22 năm nay là năm thứ
hai, giáo viên cũng đã chủ động nắm bắt được nội dung và phương pháp dạy học
mới. Trong các hoạt động học tập của học sinh tiết dạy học trên lớp giáo viên
cũng đã chú ý lấy học sinh làm trung tâm, tích cực. Tuy nhiên khi thiết kế bài
dạy cũng như khi giảng dạy trên lớp nhiều khi giáo viên chưa chủ động thiết kế
và dạy theo đối tượng học sinh của mình mà phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng
dẫn. Hoặc nếu có chú ý thì giáo viên cũng mới chỉ tập trung vào việc hình thành
kiến thức mới cho học sinh mà vô tình chưa quan tâm đến việc thường xuyên
nhận xét, đánh giá khích lệ HS để dễ dàng khai thác và phát triển các bài tập
nhằm bồi dưỡng phát huy tính tích cực, sáng tạo cho các em.
Nhiều khi giáo viên chưa thực sự nghiên cứu, tìm tòi, khai thác và vận
dụng để có sự cải tiến, sáng tạo trong cách dạy, hướng dẫn bài tập một cách thụ
động nên các em học sinh có khả năng học tốt môn Tiếng Việt sẽ không thể hiện
được năng lực tư duy sáng tạo của mình.
Trong quá trình tìm hiểu, dự giờ, trao đổi rút kinh nghiệm của đồng nghiệp
cũng như nghiên cứu nội dung chương trình, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học Lam Sơn 3, tôi nhận thấy những điều nói
trên là sát thực.
* Đối với học sinh:
Đối với trường Tiểu học Lam Sơn 3 nói chung và lớp 5B của tôi nói riêng
số học sinh tự giác, tích cực học tập chưa nhiều. Mặc dù chương trình mới chú
trọng tới việc “ cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh” để bản thân mỗi học
sinh sẽ nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, tự tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Song do lứa tuổi các em còn bé nên sự tư duy, sáng tạo còn hạn chế.
Nhiều học sinh lớp tôi chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não
mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không
nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được ý nổi bật trong tài liệu đó hoặc
không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.

Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép
hiệu quả. Đây là một kĩ năng không kém phần quan trọng bởi học sinh lớp 5
chuẩn bị bước sang một bậc học cao hơn - Bậc THCS.
2. 2. Kết quả của thực trạng.
Năm học 2017 – 2018, qua việc khảo sát 40 học sinh lớp 5B về kĩ năng hệ
thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư duy về Từ loại phân môn Luyện từ và câu môn Tiếng Việt, tôi thu được kết quả như sau:
SL
40

TL
100%

2

5%

khoa học
Học sinh vẽ được sơ đồ tư duy đơn giản

20

50%

nhưng chưa đầy đủ, chưa khoa học.
HS chưa vẽ được sơ đồ tư duy

18

45%


Mức độ đạt được
Học sinh vẽ được sơ đồ tư duy đầy đủ,

5


Số liệu điều tra được ở bảng trên cho thấy học sinh có năng lực vượt trội,
có khả năng học tốt môn Tiếng Việt, vẽ được sơ đồ tư duy đầy đủ, khoa học ở
lớp 5B còn ít. Hầu hết học sinh mới chỉ vẽ được sơ đồ tư duy đơn giản, chưa có
hệ thống, chưa tương đồng về mạch kiến thức; vẽ được sơ đồ tư duy nhưng chưa
đầy đủ, chưa khoa học vẫn còn chiếm tỉ lệ cao. Bên cạnh đó là số học sinh chưa
vẽ được sơ đồ tư duy còn khá nhiều. Học sinh mới liệt kê được một số kiến thức
nhưng lộn xộn, không đầy đủ, không lô gic…Từ việc xâu chuỗi kiến thức của
học sinh còn hạn chế kéo theo chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm học cũng
chưa được khả quan.
Cùng với đó, qua thực tế giảng dạy tại trường, tôi thấy kĩ năng ghi chép
chắt lọc của học sinh còn hạn chế, cứ đến tiết thứ 4 của buổi học, không khí của
lớp học trầm hẳn xuống, dáng vẻ mệt mỏi, uể oải, mất tập trung bộc lộ rõ trên
khuôn mặt của mỗi học sinh. Hiệu quả tiết dạy chưa cao, chưa đạt được mong
muốn của giáo viên.
3. Các giải pháp thực hiện:
Trước thực trạng trên, để góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy và
học môn Tiếng Việt lớp 5B, trong năm học, tôi đã thực hiện những giải pháp cơ
bản sau:
- Hướng dẫn cho học sinh tập vẽ sơ đồ tư duy.
- Hướng dẫn học sinh đọc và ghi nhớ kiến thức bằng sơ đồ tư duy.
- Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học kiến thức mới nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh.
- Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học các dạng bài ôn tập nhằm giúp
học sinh hệ thống hóa kiến thực theo mạch trọng tâm.

- Vận dụng sơ đồ tư duy trong việc phát hiện và bồi dưỡng cho những
học sinh có năng lực vượt trội môn Tiếng Việt.
Trên cơ sở những giải pháp cơ bản trên, tôi đã đÒ ra các biện pháp để
thực hiện việc sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy môn Tiếng Việt lớp 5B, nhằm
góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cụ thể như sau:
3.1.Biện pháp 1. Hướng dẫn cho học sinh tập vẽ sơ đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh trong việc phát triển ý trưởng, ghi nhớ kiến
thức, từ đó sẽ nhớ nhanh, nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức bằng cách tự ghi lại một
bài học theo cách hiểu của mình. Tuy nhiên chỉ khi nào các em tự mình vẽ được
sơ đồ tư duy và sử dụng nó, mới thấy rõ được hiệu quả mà khó có thể diễn tả
được bằng lời của sơ đồ tư duy, lúc này học sinh sẽ thích học hơn và đặc biệt là
cảm nhận được niềm vui của việc học.
- Để các tiết học Tiếng Việt của học sinh đạt hiệu quả, trước tiên tôi đã tự
thiết kế một số sơ đồ tư duy bằng việc vẽ trên máy tính hoặc trên bảng phụ,.. sau
đó tôi giới thiệu cho học sinh làm quen và biết cách vẽ nó.
- Tổ chức cho học sinh tập “Đọc hiểu” sơ đồ tư duy, sao cho chỉ cần nhìn
vào sơ đồ tư duy bất kì một học sinh nào cũng có thể trình bày được nội dung
bài học, hay một chủ đề.
- Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ trên giấy, bìa cứng hoặc bảng phụ.
Trước tiên tôi chọn tên chủ đề hoặc hình ảnh của chủ đề chính cho vào vị trí
6


trung tâm, chẳng hạn: Các cặp quan hệ từ, tiếng, từ loại, cấu tạo bài văn tả cảnh,
… để cho học sinh có thể tự mình ghi tiếp kiến thức vào tiếp các nhánh “con”
theo cách hiểu của học sinh. Tôi đã hướng dẫn học sinh tập vẽ theo các bước
sau:
Bước 1. Chọn từ trung tâm ( hay còn gọi là từ khoá ) là tên của một bài,
chủ đề hay một nội dung kiến thức cần khai thác.
Bước 2. Vẽ các nhánh cấp 1:

Các nhánh cấp 1 chính là nội dung chính của chủ đề đó.
Bước 3. Vẽ nhánh cấp 2, cấp 3, … và hoàn thiện sơ đồ
Các nhánh con cấp 2, 3, … chính là các nhánh con của nhánh con trước nó.
Ví dụ: Vẽ sơ đồ tư duy cho bài: Ôn tập về từ loại ( SGK TV 5 tập 1, trang
142)
Mục tiêu của bài: Học sinh ôn lại các từ loại đã học, biết được đặc điểm
của từng loại từ và lấy được ví dụ.
Giáo viên đưa ra từ chủ đề là: “ Từ loại ”
Câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ được sơ đồ:
Câu 1: Hãy kể tên những từ loại em đã được học
Câu 2: Mỗi từ loại đó có đặc điểm gì ? Nêu ví dụ.
Câu hỏi 1 chính là gợi ý để học sinh ghi các nhánh con cấp 1
Câu hỏi 2 là gợi ý để học sinh ghi các nhánh con cấp 2, 3.
Dưới đây là một sơ đồ tư duy cho bài ôn tập về từ loại:

* Lưu ý học sinh khi vẽ sơ đồ tư duy:
- Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh hay một cụm từ tên chủ đề.
- Vẽ nhánh chính cấp 1 từ trung tâm, vẽ các nhánh cấp 2 từ các nhánh cấp 1…
bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác nhau. Nhánh màu nào thì nên
viết chữ cùng màu với nhánh đó để dễ phân biệt. Nhánh cấp 1 một nét đậm nhất,
các nhánh cấp 2, 3, … theo đó mờ dần.
- Mỗi cụm từ hay hình ảnh, hình vẽ… liên quan đến nhánh nào nên đứng độc lập
và được nằm gần với đường cong của nhánh đó.
7


- Tạo ra một kiểu sơ đồ tư duy theo sở thích của mình.
- Nên dùng các đường cong thay vì các đường thẳng.
- Sắp xếp thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
- Điều chỉnh để hình thức đẹp, chữ viết rõ, vẽ phác bằng bút chì trước để dễ tẩy

xoá.
- Không viết dài dòng, tránh viết nhiều ý không cần thiết.
- Không nên vẽ đơn giản quá, cũng không quá cầu kì, màu sắc hài hoà.
*Lưu ý giáo viên: Sơ đồ tư duy mà học sinh vẽ ban đầu có thể chưa chính xác
về nội dung nhưng nên cho học sinh tự thảo luận, tự vẽ, viết ra, sau đó để cả lớp
xem, thảo luận và chỉnh sửa. Nếu viết sai thì sau này các em sẽ nhớ lâu và tránh
được những sai lầm đó. GV không nên xây dựng sơ đồ rồi giảng giải để học sinh
công nhận, điều này mang tính hình thức, áp đặt không hiệu quả.
3.2.Biện pháp 2. Hướng dẫn học sinh đọc và ghi nhớ kiến thức bằng sơ đồ
tư duy.
Để giúp học sinh đọc và ghi nhớ kiến thức đã học bằng sơ đồ tư duy, tôi đã
hướng dẫn học sinh theo trình tự sau:
Đọc từ khóa -> Đọc các nhánh cấp 1 (từ trên xuống)-> đọc đến các nhánh cấp
cao hơn.
Ví dụ: Bài Ôn tập về từ và cấu tạo từ ( TV5 tập 1, trang 166)
Mục tiêu của bài: Học sinh củng cố kiến thức về từ và cấu tạo từ ( Từ
đơn, từ phức, từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, từ trái nghĩa).
Sau khi học sinh giải quyết xong các bài tập trong sách giáo khoa, đến hoạt động
nối tiếp tôi tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm 4 để vẽ sơ đồ tư duy với chủ đề
chính là “Các lớp từ” qua đó học sinh sẽ tự xây dựng kiến thức về các lớp từ
( nghĩa của từ), việc làm này sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, giúp
các em hệ thống được kiến thức trọng tâm đã học, trí nhớ sẽ bền vững hơn.
Dưới đây là một sơ đồ tư duy về “ CÁC LỚP TỪ” mà một nhóm học sinh
lớp 5B đã vẽ:

8


Nhìn vào sơ đồ tư duy học sinh sẽ hiểu được nội dung kiến thức:
Xét về nghĩa có:

- Từ nhiều nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, từ đồng âm
- Từ nhiều nghĩa bao gồm nghĩa gốc và nghĩa chuyển
- Có từ đồng nghĩa hoàn toàn nhưng có từ lại đồng nghĩa không hoàn toàn.
Tôi đã tổ chức theo các bước sau:
Bước 1. Trình bày về sơ đồ tư duy:
- Yêu cầu đại diện của các nhóm lên trình bày sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã
lập được.
Bước 2. Thảo luận, bổ sung, hoàn thiện sơ đồ tư duy:
- Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung để hoàn thiện sơ đồ tư duy về “ Các
lớp từ”, lúc này tôi là người cố vấn, trọng tài giúp học sinh hoàn thành sơ đồ tư
duy.
* Hoạt động này giúp học sinh phát huy khả năng bày tỏ ý kiến của mình, học
sinh được đàm thoại với bạn, được đàm thoại với thầy.
Bước 3. Tổng kết:
- Cho 1 học sinh trình bày về kiến thức “Các lớp từ” thông qua sơ đồ tư
duy mà các em vừa hoàn thành và chỉnh sửa
3.3. Biện pháp 3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học các dạng bài:
3.3.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học dạng bài hình thành kiến thức
mới:
Khi dạy dạng bài hình thành kiến thức mới, để sử dụng sơ đồ tư duy có
hiệu quả, từ nội dung bài học, tôi thiết lập một sơ đồ tư duy bằng phần mềm trên
máy tính ( nếu dạy bằng bài giảng điện tử ) hoặc trên bảng phụ (nếu không trình
chiếu ). Trong tiết dạy, tôi sẽ sử dụng sơ đồ đã chuẩn bị để hướng dẫn học sinh
9


khai thác từng nội dung của bài học. Mỗi nội dung tương ứng với một nhánh con
của sơ đồ.
Ví dụ: Khi dạy bài tập làm văn “ Cấu tạo của bài văn tả cảnh” ( TV 5 tập
1 trang 11).

Mục tiêu của bài:
- Học sinh biết được cấu tạo bài văn tả cảnh gồm ba phần: Mở bài, thân
bài, kết bài.
- Biết phân tích cấu tạo của một bài văn tả cảnh.
Khi dạy bài này trước tiên tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần “Nhận
xét”, phân tích ngữ liệu bài “ Hoàng hôn trên sông Hương”, qua đó học sinh
nắm được các phần mở bài, thân bài, kết bài của bài văn.
Ở bài tập 2, học sinh thấy rõ sự khác nhau giữa hai cách miêu tả. Bài “ Quang
cảnh làng mạc ngày mùa” tả từng bộ phận của cảnh, bài “ Hoàng hôn trên sông
Hương” tả sự thay đổi của cảnh theo thời gian.
Đến phần “ Rút ra ghi nhớ ” về cấu tạo bài văn tả cảnh ( phần kiến thức
trọng tâm của bài học) tôi dẫn dắt học sinh phát hiện, khai thác nội dung chính
của bài bằng sơ đồ tư duy.
Các nhánh thể hiện những nội dung nhỏ hơn tôi cho xuất hiện sau để lần
lượt theo thứ tự cấu tạo của một bài văn. Sau khi cùng học sinh thiết lập xong sơ
đồ, tôi yêu cầu một số em dựa vào sơ đồ trình bày cấu tạo bài văn tả cảnh.

Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc: Sắc màu em yêu ( TV 5 tập 1, trang 19) ở câu
hỏi 2 phần tìm hiểu bài có nội dung: Mỗi sắc màu gợi ra những hình ảnh nào ?
Tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4 để vẽ sơ đồ tư duy, sau đó đại diện các
nhóm trình bày trước lớp. Các nhóm còn lại nhận xét để hoàn chỉnh sơ đồ.
Dưới đây là sơ đồ học sinh đã thực hiện:
10


Sơ đồ tư duy lúc này như một bức tranh hội tụ đủ sắc màu, mỗi sắc màu
đều có sự hiện diện của vật tượng trưng. Chỉ bằng một sơ đồ nhỏ, ngắn gọn học
sinh thấy được thế giới xung quanh ta thật muôn màu muôn vẻ. Việc trình bày
sơ đồ đã giúp các em rèn kỹ năng nói thành ý mạch lạc, logic với nhau. Từ đó
hình khả năng làm việc khoa học, sáng tạo.

3.3.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy dạng bài ôn tập:
Sau khi học xong một bài học hay một chủ đề tôi thường tổ chức cho học
sinh lập sơ đồ tư duy để tiểu kết lại kiến thức cơ bản, trọng tâm giúp học sinh
củng cố phần kiến thức đó.
Cuối tiết học, học sinh có thể sử dụng giấy, bảng phụ hay dùng phấn màu vẽ
bảng tự tóm tắt toàn bộ kiến thức cơ bản trọng tâm của bài học dưới dạng sơ đồ
tư duy rồi trình bày lại cho cả lớp nghe cùng góp ý bổ sung ý kiến. Sau khi học
sinh trình bày, cả lớp thảo luận, đóng góp ý kiến bổ sung; Giáo viên kết luận
cuối cùng.
Ví dụ 1. Sơ đồ tư duy hệ thống hoá kiến thức chủ đề “ Câu ghép”. ( TV5 tập
2). Sau khi học xong 8 bài về chủ đề “câu ghép”. Trong tiết luyện Tiếng Việt
tuần 24, tôi đã cho học sinh thảo luận nhóm 4 vẽ sơ đồ tư duy hệ thống hoá kiến
thức chủ đề “ Câu ghép”.
- Đại diện các nhóm sẽ trình bày về sơ đồ tư duy nhóm mình vừa thiết lập.
- Giáo viên đưa ra một sơ đồ tư duy chuẩn để chốt kiến thức.
Dưới đây là sơ đồ tư duy tôi đã sử dụng để giúp học sinh ôn tập:
11


Nhìn vào sơ đồ tư duy học sinh sẽ dễ dàng nhận thấy câu ghép có từ hai
vế câu trở lên, các vế của câu ghép được nối với nhau bằng từ nối hoặc nối trực
tiếp. Các từ nối có thể là một từ hay một quan hệ từ. Chỉ với một sơ đồ nhỏ
nhưng đã giúp học sinh củng cố được kiến thức của 8 bài đã học. Rõ ràng sơ đồ
tư duy thể hiện cách ghi chép ngắn gọn, khoa học mà hiệu quả lại rất cao.
Ví dụ 2. Sơ đồ tư duy củng cố kiến thức bài: Mở rộng vốn từ “ Bảo vệ
môi trường” (TV 5 tập 1 trang 126). Ở hoạt động củng cố bài và liên hệ tôi yêu
cầu học sinh vẽ sơ đồ về nội dung bài học ( tất cả học sinh đều vẽ theo suy nghĩ
của cá nhân mình) . Qua sơ đồ tư duy nhằm khái quát và khắc sâu kiến thức cho
các em.


12


Nhìn vào sơ đồ tư duy học sinh hiều ngay những việc nên làm và những
việc không nên làm nhằm góp phần bảo vệ môi trường.
Trong quá trình tổ chức cho học sinh ôn tập và hệ thống lại những kiến
thức đã học tôi đã yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy. Lúc này các em phải tự lập
sơ đồ thì mới khắc sâu vào trí não và ghi nhớ nhanh, ghi nhớ sâu.
- Nếu học sinh đã chuẩn bị được sơ đồ ở nhà thì các tiết ôn tập có thể yêu cầu
một số em báo cáo sơ đồ tư duy của mình đẻ cả lớp thảo luận, góp ý ( nếu cần).
- Nếu học sinh làm ngay tại lớp thì giáo viên đưa ra tên chủ đề chính hoặc hình
ảnh trung tâm, gợi ý cho học sinh bằng cách đặt các câu hỏi để hoàn thành sơ đồ
tư duy ôn tập kiến thức.
Ví dụ. Sau khi học sinh được học 4 bài về sự liên kết các câu trong bài.
Trong tiết luyện Tiếng Việt tôi tổ chức cho học sinh ôn tập về chủ đề: “Các cách
liên kết câu trong bài”.
Học sinh sẽ thảo luận theo cặp, thiết lập sơ đồ tư duy với từ chìa khoá là:
“Các cách liên kết câu trong bài”.
Dưới đây là một sơ đồ tư duy do học sinh lớp tôi đã vẽ.
13


Sau khi lập xong sơ đồ tư duy, học sinh sẽ được trình bày trước lớp để cả
lớp thảo luận, góp ý, cuối cùng giáo viên kết luận.
Chỉ với một sơ đồ nhỏ, học sinh đã ôn được toàn bộ kiến thức của 4 bài
luyện từ và câu về các cách liên kết câu trong bài. Với cách làm này, các em sẽ
ghi nhớ kiến thức nhanh và sâu hơn. Sơ đồ tư duy giúp cho những bài ôn tập nhẹ
nhàng hơn, quả là “Học mà chơi, chơi mà học”
3.3.3 Vận dụng sơ đồ tư duy trong việc phát hiện và bồi dưỡng cho những
học sinh có khả năng vượt trội môn Tiếng Việt.

Sơ đồ tư duy có điểm mạnh là phát triển ý tưởng nên nó là phương tiện
giúp học sinh có khả năng phát huy được năng lực sáng tạo của mình. Do đặc
điểm của sơ đồ tư duy là nhìn được tổng thể mà lại chi tiết, có thể vẽ thêm
nhánh để bổ sung ý tưởng một cách nhanh nhất. Vì vậy tôi thường sử dụng sơ đồ
tư duy để giúp học sinh ôn tập, khái quát hoá một lượng kiến thức Tiếng Việt.
Từ đó, các em vận dụng dễ dàng vào làm các bài tập nâng cao.
Ví dụ. Ôn tập về “câu” (TV5 tập 1 trang 171)
Mục tiêu của bài là:
- Củng cố kiến thức về câu hỏi, câu kể, câu cảm, câu khiến.
- Củng cố kiến thức về các kiểu câu kể.
Khi dạy bài này tôi đã giúp học sinh ôn tập như sau:
- Hình thành nhóm 4
14


- Nhận bảng nhóm ( Giáo viên đã ghi sẵn từ khoá “Các kiểu câu” )
- Học sinh thảo luận, lập sơ đồ tư duy dựa vào các câu hỏi gợi ý của giáo viên
+ Ghi tên các kiểu câu được chia theo mục đích nói; tác dụng, dấu hiệu nhận
biết.
- Sau khi lập sơ đồ tư duy, đại diện các nhóm trình bày trước lớp để cả lớp
thảo luận, góp ý. Giáo viên kết luận cuối cùng.

Nhìn vào sơ đồ tư duy học sinh nhận thấy ngay: Nếu chia theo mục đích
nói sẽ có các kiểu câu gồm: Câu kể, câu hỏi, câu khiến và câu cảm. Biết được
chức năng của từng kiểu câu, các từ đặc biệt để nhận diện câu và dấu câu. Chỉ
với một sơ đồ nhỏ cũng đã giúp học sinh ôn tập một lượng kiến thức lớn về các
kiểu câu chia theo mục đích nói. Bên cạnh đó sơ đồ còn giúp các em tư duy
logic, khả năng trình bày khoa học, chắt lọc.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
- Qua việc hướng dẫn học sinh tự vẽ sơ đồ tư duy tôi nhận thấy không khí

học tập của tiết học thật sôi nổi, học sinh học bài tích cực, phát huy tối đa tính
sáng tạo và tư duy logic của từng học sinh. Không còn hiện tượng học sinh ngại
học môn Tiếng Việt nữa. Bên cạnh đó còn giúp học sinh vận dụng các kiến thức
Mỹ thuật, Toán học vào học môn Tiếng Việt, đáp ứng quan điểm dạy học tích
hợp (Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng môn Tiếng Việt đã đề ra).
- Kĩ năng trình bày trước đông người của học sinh lớp 5B ngày càng tốt
hơn, các em mạnh dạn hơn sau khi được đọc và ghi nhớ kiến thức bằng sơ đồ tư
duy. Tôi nghĩ rằng đây là một trong những kỹ năng cần rèn luyện của học sinh
tiểu học ở trường tôi hiện nay.
15


- Học sinh lớp tôi học bài rất sôi nổi, các em nắm vững kiến thức về
nghĩa của từ, tự tin khi trình bày, mạnh dạn trong giao tiếp. 100% học sinh hiểu
và thuộc bài ngay tại lớp sau khi vận dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy các dạng
bài ôn tập kiến thức đã học.
- Đối với phân môn Tập làm văn, nhờ sử dụng đồ tư duy tôi đã giúp học
sinh nắm vững bài học ngay tại lớp. Các em biết được và vận dụng để viết được
những bài văn tả cảnh hay, đảm bảo về bố cục, không lạc đề, hành văn trôi chảy,
ý trong sáng,…
- Khi sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học tôi đã từng bước giúp học sinh
tự mình phát hiện kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát
nhất. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm
bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn, cứ như vậy bài học được trình bày một
cách sáng tạo, sinh động. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào sơ đồ là có thể
trình bày được nội dung kiến thức bài học, đồng thời học sinh cũng có thể khẳng
định được toàn bộ nội dung kiến thức của bài, xác định ý chính, ý phụ và lên kế
hoạch học tập hiệu quả.
- So với cách học truyền thống, học sinh ghi chép và thực hiện kiến thức
theo trật tự nên khả năng nhớ kiến thức thường ít hơn 50% dung lượng bài. Sử

dụng sơ đồ tư duy giúp các em khắc phục được hạn chế đó. Sau mỗi giờ học khi
cần củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy có thể tái hiện
được 80% đến 90% kiến thức bài học. Đến khi ôn tập học sinh không phải mất
một lượng lớn thời gian để đọc lại kiến thức như cách học truyền thống mà chỉ
cần quan sát lại sơ đồ tổng thể vẫn có thể tái hiện nội dung bài học một cách cụ
thể, chi tiết. Như thế học sinh vừa nâng cao được kết quả học tập vừa tiết kiệm
được thời gian.
- Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong việc phát hiện và bồi dưỡng, nâng cao
năng lực học tập môn Tiếng Việt cho học sinh, tôi nhận thấy học sinh của lớp tôi
tiếp thu bài nhanh hơn, vận dụng vào làm bài tập đạt hiệu quả cao. Nhiều học
sinh có phương pháp học tập khoa học, ghi nhớ kiến có hệ thống, trình bày lô
gic, đúng trình tự,…
* Tóm lại: Qua sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, học sinh lớp tôi
phụ trách luôn học bài với tâm thế tự tin và thoải mái, thái độ của học sinh rất
vui vẻ. Hầu hết các em nắm vững kiến thức ngay tại lớp. Trong giờ học, học
sinh học bài rất tích cực, các em đã chuyển từ học tập thụ động sang chủ động
chiếm lĩnh kiến thức, thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra kỹ
năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc. Những
học sinh có năng lực vượt trội về môn Tiếng Việt thì ngày càng tự tin, năng
động, có trách nhiệm cao trong việc học tập còn những học sinh có thói quen
lười suy nghĩ thì trở nên tích cực hơn bắt đầu biết chia sẻ, hợp tác với các bạn để
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Kết quả khảo sát việc sử dụng sơ đồ tư duy vào học môn Tiếng Việt ở lớp
5B, thu được cụ thể như sau:

16


Mức độ đạt được
HS vẽ được sơ đồ tư duy đầy đủ, khoa học

HS vẽ được sơ đồ tư duy nhưng chưa đầy đủ, chưa khoa
học.
HS chưa vẽ được sơ đồ tư duy

SL
40

TL
100%

15
23

37,5%
57,5%

2

5%

Từ kết quả trên cho thấy: học sinh có năng lực vượt trội, có khả năng học
tốt môn Tiếng Việt, vẽ được sơ đồ tư duy đầy đủ, khoa học ở lớp 5B đã tăng lên
rất nhiều so với trước khi áp dụng sáng kiến. Hầu hết học sinh đã biết vẽ được
sơ đồ tư duy đơn giản, tuy nhiên chưa tương đồng về mạch kiến thức. Số học
sinh chưa vẽ được sơ đồ tư duy đã giảm hẳn.
Sau khi vận dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy, tôi luôn cảm thấy nhẹ
nhàng khi lên lớp vì kiến thức được các em tiếp thu tích cực, chủ động thông
qua các hoạt động học. Học sinh đã có hứng thú nhiều hơn trong việc học tập
môn Tiếng Việt. Hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt được nâng lên rõ rệt.


III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
17


Điều trăn trở của ngành Giáo dục nói chung và của giáo viên nói riêng về
c¸ch dạy tr¸nh sù tiÕp thu kiÕn thøc mét c¸c thô ®éng của học sinh
thì ứng dụng sơ đồ tư duy cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác sẽ
đem lại rất nhiều lợi ích cho người học. Trong quá trình sử dụng sơ đồ tư duy
vào việc dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5, tôi nhận thấy:
Giáo viên phải biết chọn đơn vị kiến thức để có thể sử dụng sơ đồ tư duy.
Giáo viên phải nắm vững mục tiêu, khối lượng kiến thức bài học, xem xét
những bài có đơn vị kiến thức nhỏ liên quan đến nhau; hoặc những cụm bài có
chung kiến thức hay những bài có tính chất tổng kết, ôn tập,…thì mới có thể áp
dụng dùng sơ đồ tư duy. Ngoài ra phải tính đến đối tượng học sinh, điều kiện cơ
sở vật chất.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học là hình thức chơi mà học, giúp các
em phát triển tư duy nên để các em tự do vẽ, sau đó ngắm lại “tác phẩm” của
mình và hoàn thiện lại sao cho bố cục vừa gọn, vừa đẹp mắt lại vừa khoa học.
Dù sử dụng với cách nào thì cũng luôn ghi nhớ một điều là đảm bảo thời gian
tiết học và mục đích là nhấn mạnh đơn vị kiến thức học sinh cần ghi nhớ trong
bài học.
Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép
hiệu quả. Mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy cần nghiên cứu, hướng dẫn học sinh
ngay từ những lớp dưới với mức độ sơ giản, đơn giản để học sinh biết tích lũy
và dần chuyển thành kĩ năng. Bởi đây là một kĩ năng không kém phần quan
trọng vì học sinh lớp 5 chuẩn bị bước sang một bậc học cao hơn - Bậc THCS.
2. Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với các cấp lãnh đạo: Quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng tổ chức
các chuyên đề, các hội thảo về phương pháp, biện pháp dạy học để nâng cao

hiệu quả trong các giờ học Tiếng Việt – nhất là vấn đề vận dụng cách sử dụng sơ
đồ tư duy trong các môn học khác cho học sinh để giúp học sinh phát triển toàn
diện.
- Đối với giáo viên: Học hỏi, đổi mới vấn đề lập kế hoạch bài dạy để mỗi
bài dạy có sử dụng những phương pháp tối ưu mang lại hiệu quả cao nhất, đáp
ứng được yêu cầu của ngành Giáo dục nói chung và của đơn vị trường sở tại nói
riêng. .
Trên đây là một số kinh nghiệm về sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5B, trường Tiểu học Lam Sơn 3 mà tôi đã tự
tìm tòi, khám phá qua việc tự học, tự bồi dưỡng và tôi đã áp dụng vào việc
giảng dạy của bản thân. Tôi mạnh dạn đưa ra trao đổi cùng đồng nghiệp. Với
năng lực cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, rất mong được các đồng nghiệp,
Hội đồng chấm sáng kiến và các cấp quản lí giáo dục góp ý để sáng kiến của tôi
được ứng dụng rộng rãi hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
18


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trịnh Thị Tâm
XÁC NHẬN CỦA HĐSK CẤP THỊ XÃ
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1)
2)
3)
4)
5)
6)

Sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 5 ( tập 1,tập 2)
Sách giáo viên môn Tiếng Việt lớp 5 ( tập 1,tập 2)
Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học ( tập 1)
Nội dung thông tư 22/2016TT-BGDĐT về đánh giá học sinh Tiểu học.
Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 5.
Tạp chí Giáo dục Tiểu học.

DANH MỤC
20


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN


TT

1
2

3

4

Tên đề tài SKKN

Hướng dẫn học sinh
lớp 4 sử dụng bản đồ
Việt Nam
Một số kinh nghiệm
rèn chữ viết đẹp cho
học sinh lớp 1A, trường
Tiểu học Hà Châu
Một số kinh nghiệm
nâng cao năng lực,
phẩm chất cho học sinh
lớp 4A , trường Tiểu
học Hà Châu
Xây dựng nề nếp học
tập cho học sinh lớp
5C, trường Tiểu học
Lam Sơn 3.

Cấp đánh giá
xếp loại

( Ngành GD
cấp
huyện/Tỉnh,…)
Huyện
( Hà Trung)

Kết quả đánh Năm học đánh
giá xếp loại
giá xếp loại
( A,B, hoặc
C)
B

2007-2008

Huyện
( Hà Trung)

B

2010-2011

Huyện
( Hà Trung)

C

2012-2013

Thị xã

( Thị xã Bỉm
Sơn)

C

2016-2017

21



×