Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước việt nam ( lấy ví dụ tại kho bạc nhà nước tỉnh nam định)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.18 KB, 100 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chi ngân sách nhà nước (NSNN) bao gồm hai bộ phận chính là chi đầu tư
phát triển và chi thường xuyên, trong đó chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn
nhất và có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với phát triển KT-XH đất nước. Chi
NSNN là công cụ chủ yếu của Đảng, nhà nước và cấp uỷ, chính quyền cơ sở để
thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh, quốc phòng và
thúc đẩy sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Những năm qua, KSC thường xuyên NSNN qua KBNN của nước ta nói
chung và tỉnh Nam Định nói riêng đã có những chuyển biến tích cực; cơ chế
KSC thường xuyên NSNN qua KBNN đã từng bước được cụ thể theo hướng
hiệu quả, ngày một chặt chẽ và đúng mục đích hơn cả về quy mô và chất lượng.
Kết quả của thực hiện cơ chế KSC đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng
NSNN ngày càng hiệu quả hơn.
Mặc dù vậy, quá trình thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua
KBNN vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập như: Sử dụng NSNN vẫn còn tình
trạng loại kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát, dễ phát sinh tiêu cực. Công tác KSC
còn phân ra nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau; nhiều khoản chi kiểm
soát chưa có đủ cơ sở để KBNN kiểm soát đến khâu cuối cùng và chưa có cơ chế
quy trách nhiệm trong thực hiện một số nghiệp vụ chi cụ thể; chưa có cơ chế
tổng thể và thống nhất để kiểm soát giá mua sắm một số hàng hóa dịch vụ một
cách chặt chẽ và có hiệu quả nhất. Cán bộ làm nhiệm vụ chi ngân sách tại các
đơn vị sử dụng NSNN còn có tình trạng chưa am hiểu đầy đủ về quản lý NSNN
và chưa được đào tạo đồng đều. Việc phân công nhiệm vụ KSC trong hệ thống
KBNN còn bất cập, chưa tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Việc thực hiện
chế độ công khai minh bạch trong chi tiêu ngân sách của những đơn vị sử dụng
ngân sách còn hạn chế. Do vậy, thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua
KBNN còn bộc lộ những hạn chế và tồn tại, ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng



2

ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu
thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
Mặt khác lý luận về cơ chế KSC NSNN nói chung và KSC thường xuyên
NSNN qua KBNN nói riêng trong nền kinh tế thị trường chưa được nghiên cứu
đầy đủ để áp dụng.
Xuất phát từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài:
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua Kho bạc Nhà nước Việt Nam ( Lấy ví dụ tại Kho bạc Nhà nước tỉnh
Nam Định).
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu hoàn thiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN
là vấn đề có tính cấp thiết đối với chi NSNN nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN, nhưng hầu hết đều nghiên cứu từ giác độ tài chính, con rất ít đề tài
nghiên cứu sâu về lĩnh vực KSC thường xuyên NSNN qua KBNN dưới góc độ
kinh tế chính trị học. Do đó, tác giả lựa chọn, nghiên cứu đề tài dưới góc độ
kinh tế chính trị học là rất thiết thực, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN, nhất là khi chúng ta đang có sự chuyển biến
mạnh về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế để hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên
cứu dưới giác độ kinh tế chính trị sẽ góp phần cùng các công trình khác, nghiên
cứu từ giác độ tài chính để có cách nhìn tổng thể, toàn diện hơn về vấn đề này.
3. Đối tượng, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu là cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.
Mục tiêu nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để hoàn
thiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua Kho bạc Nhà nước Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận chung cơ chế KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN. Đặc biệt dưới góc độ kinh tế chính trị; phân
tích, đánh giá thực trạng cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN tỉnh Nam

Định; đề xuất quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN ở Việt Nam và tỉnh Nam Định.


3

4. Phạm vi nghiên cứu.
Phần lý luận sẽ nghiên cứu tổng quát về cơ chế KSC thường xuyên NSNN
qua KBNN Việt Nam trong tiến trình hình thành cơ chế KSC thường xuyên
NSNN.
Phần thực trạng cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN sẽ lấy số
liệu và thực tế công tác KSC trên địa bàn tỉnh Nam Định giới hạn trong khoảng
thời gian từ năm 2004 đến năm 2007, trên cơ sở đó sẽ đề xuất ra các quan điểm,
giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng trong học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, lý luận về kinh tế chính trị, bên cạnh việc sử dụng các phương pháp khác
như: thống kê, khảo sát, đối chiếu, phân tính, so sánh, biểu đồ, tổng hợp …
6. Đóng góp của luận văn.
Làm rõ thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện cơ chế KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN, trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đánh giá sát thực trạng cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN tại
Nam Định.
Đề xuất quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN ở Việt Nam và tỉnh Nam Định, từ đó sử dụng
NSNN có hiệu quả hơn, nâng cao trách nhiệm của đơn vị sử dụng ngân sách góp
phần thúc đẩy sự phát triển KT-XH và tăng cường hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu luận văn. Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn được

kết cấu gồm 3 chương là:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện cơ chế KSC thường
xuyên NSNN qua KBNN Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN tỉnh
Nam Định.


4

Chương 3. Quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế
KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Việt Nam và tỉnh Nam Định.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM
SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN QUA KBNN VIỆT NAM
1.1. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN , VAI
TRÒ CHI THƯỜNG XUYÊN NSNN VÀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN NSNN QUA KBNN
1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước.
Lịch sử nhân loại đã cho thấy, khi xuất hiện Nhà nước thì Nhà nước đó
phải có nguồn lực để bảo vệ chính thể nhà nước và đảm bảo cho các mặt hoạt
động phát triển của mình. Một trong những nguồn lực quan trọng nhất là NSNN.
Do đó khi xuất hiện Nhà nước tất yếu phải có NSNN.
NSNN phục vụ cho giai cấp thống trị. Nó là công cụ để giai cấp thống trị
bảo vệ nhà nước, đảm bảo hoạt động bộ máy nhà nước, đồng thời là công cụ để
hoàn thiện quản lý nhà nước của mình.
Ở Việt Nam, qua các giai đoạn lịch sử phát triển hàng ngàn năm của dân
tộc, NSNN Việt Nam cũng hình thành và là nhân tố không thể thiếu của các chế
độ xã hội trước đây. Từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thành lập
Nước đến nay. Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm đến NSNN, coi đó là
nguồn lực vô cùng quan trọng thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc

trước đây đồng thời bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và phát triển đất nước trong giai
đoạn hiện nay và mai sau.
Khái niệm NSNN: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.


5

Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
quốc phòng an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của
Nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Chi thường xuyên NSNN.
Chi thường xuyên NSNN bao gồm: Chi đảm bảo kinh phí cho các hoạt
động sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ
thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác; quốc
phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; hoạt động của các cơ quan nhà nước;
hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; các đoàn thể; trợ giá theo chính sách
của Nhà nước; cho các chương trình mục tiêu quốc gia; trợ cấp cho các đối
tượng chính sách xã hội và các khoản chi thường xuyên khác.
1.1.3. Vai trò của chi thường xuyên ngân sách nhà nước.
Chi thường xuyên NSNN giữ vai trò chủ đạo, đảm bảo thực hiện các
nhiệm vụ chiến lược, quan trọng của quốc gia cũng như của các địa phương.
Đảm bảo cơ sở ổn định và phát triển KT - XH trên các lĩnh vực: giáo dục, đào
tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa
học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác; quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội; hoạt động của các cơ quan nhà nước; hoạt động của Đảng Cộng sản

Việt Nam; các đoàn thể; trợ giá theo chính sách của Nhà nước; cho các chương
trình mục tiêu quốc gia; trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội và các
khoản chi thường xuyên khác, các chính sách xã hội quan trọng, điều phối hoạt
động kinh tế vĩ mô của đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại...
1.1.4. KBNN và kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN.
Kho bạc Nhà nước và chức năng của Kho bạc Nhà nước.
KBNN là tổ chức thuộc BTC, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
quỹ NSNN, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước được giao
theo quy định của pháp luật; thực hiện việc huy động vốn cho NSNN, cho đầu tư
phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo quy định của pháp
luật.
Yêu cầu thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.


6

Thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN phải đáp ứng
được các yêu cầu sau đây:
- Cơ chế KSC thường xuyên NSNN phải làm cho sử dụng NSNN có hiệu
quả cao cao nhất, để phát triển KT-XH. Tập trung quỹ NSNN chi cho các
chương trình, mục tiêu quốc gia. Vì vậy, cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua
KBNN phải quy định rõ điều kiện và trình tự cấp phát và thanh toán theo hướng:
khi cấp phát kinh phí, cơ quan KBNN phải căn cứ dự toán NSNN năm đã được
duyệt và khả năng ngân sách từng quý, đồng thời xem xét bố trí mức chi hàng
quý cho từng đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện. Về phương thức thanh toán,
phải bảo đảm mọi khoản chi của NSNN được chi trả trực tiếp cho các đơn vị,
đối tượng sử dụng NSNN trên cơ sở dự toán được duyệt. Trong quá trình sử
dụng NSNN phải được thủ trưởng đơn vị chuẩn chi, phù hợp với chính sách, chế
độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước quy định.
- Cơ chế KSC thường xuyên NSNN là một quy trình phức tạp, bao gồm

nhiều khâu, nhiều giai đoạn (lập dự toán ngân sách, phân bổ và thông báo kinh
phí, cấp phát thanh toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách, kế toán và quyết toán
NSNN), đồng thời nó có liên quan đến tất cả các Bộ, ngành, địa phương. Vì vậy,
KSC thường xuyên NSNN cần phải được tiến hành thận trọng. Sau mỗi bước cần
tiến hành đánh giá, rút kinh nghiệm để cải tiến quy trình, thủ tục KSC cho phù
hợp với tình hình thực tế. Có như vậy cơ chế KSC thường xuyên NSNN mới có
tác dụng bảo đảm tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính. Mặt khác, cơ chế KSC
cần phải tôn trọng những thực tế khách quan, không nên quá máy móc, khắt khe,
gây ách tắc, phiền hà cho các đơn vị sử dụng NSNN.
- Tổ chức bộ máy KSC phải gọn nhẹ theo hướng cải cách hành chính, thu
gọn các đầu mối quản lý, đơn giản hoá quy trình và thủ tục hành chính; đồng
thời cần phân định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý
ngân sách, quản lý tài chính nhà nước, đặc biệt là thủ trưởng đơn vị trực tiếp sử
dụng NSNN trong quá trình lập dự toán, cấp phát và sử dụng kinh phí, thông tin,
báo cáo và quyết toán chi NSNN để tránh sự trùng lặp, chồng chéo trong quá
trình thực hiện. Mặt khác, tạo điều kiện để thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát
lẫn nhau giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong quá trình KSC thường
xuyên NSNN.


7

- Cơ chế KSC thường xuyên NSNN cần được thực hiện đồng bộ, nhất
quán và thống nhất với quy trình quản lý NSNN từ khâu lập dự toán, chấp hành
ngân sách đến khâu quyết toán NSNN. Đồng thời, phải có sự phối hợp thống
nhất với việc thực hiện các chính sách, cơ chế quản lý tài chính khác như chính
sách thuế, phí và lệ phí, chính sách khuyến khích đầu tư, cơ chế quản lý tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, các đơn vị thực hiện cơ chế khoán chi …
Nội dung KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.
KSC thường xuyên NSNN qua KBNN là việc KBNN tiến hành thẩm định,

kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN phù hợp với các chính sách, chế độ,
định mức chi tiêu do nhà nước quy định theo những nguyên tắc, hình thức và
phương pháp quản lý tài chính trong quá trình cấp phát và thanh toán các khoản
chi của NSNN.
Nội dung KSC thường xuyên NSNN của KBNN bao gồm:
- Tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ chi thường xuyên NSNN;
- Tính hợp pháp về con dấu và chữ ký của thủ trưởng và kế toán đơn vị sử
dụng ngân sách;
- Các điều kiện chi theo chế độ quy định, bao gồm:
+ Đã có trong dự toán chi thường xuyên NSNN hàng năm được giao. Dự
toán chi NSNN của các đơn vị phải phản ảnh đầy đủ các khoản chi theo đúng
chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Đối với các
đơn vị sự nghiệp có thu, trong dự toán phải ghi rõ các nguồn thu của đơn vị được
sử dụng và phần hỗ trợ của NSNN; các khoản chi phải theo nhóm mục của lục
NSNN. Cơ quan tài chính cùng cấp có trách nhiệm kiểm tra kết quả lập và giao
dự toán ngân sách cho các đơn vị. Nêú có sự sai lệch so với nội dung dự toán
được cấp có thẩm quyền giao thì yêu cầu đơn vị điều chỉnh lại.
+ Dự toán chi phải theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Định mức tiêu
chuẩn chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành là căn cứ quan trọng để
lập dự toán chi NSNN hàng năm và là căn cứ để KBNN KSC khi cấp phát thanh
toán cho đơn vị sử dụng ngân sách. Những khoản chi chưa có tiêu chuẩn định
mức được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, KBNN căn cứ vào dự toán được cơ


8

quan cấp trên trực tiếp của đơn vị sử dụng ngân sách phê duyệt làm căn cứ để
kiểm soát.
+ Các khoản chi phải được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách chuẩn
chi. Trong quản lý và điều hành ngân sách, chuẩn chi là sự cho phép, đồng ý chi.

Thẩm quyền chuẩn chi phải là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, đồng thời là chủ
tài khoản, đã được cơ quan nhà nuớc có thẩm quyền phê duyệt. Chủ tài khoản
phải đăng ký chữ ký mẫu và con dấu của cơ quan, đơn vị tại KBNN nơi giao
dịch.
+ Các khoản chi phải có đủ hồ sơ, chứng từ hợp lệ. Mỗi khoản chi đều phải
lập theo mẫu chứng từ quy định và được cấp có thẩm quyền duyệt. KBNN có
trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ trước khi cấp phát, thanh toán kinh
phí NSNN cho đơn vị sử dụng. Hiện có 4 loại chi với 4 loại hồ sơ chứng từ đơn
vị phải hoàn thiện gửi KBNN làm căn cứ KSC. Bốn loại chi thường xuyên
NSNN:
* Chi thanh toán cho có nhân như lương, phụ cấp lương, học bổng…;
* Chi chuyên môn nghiệp vu;
* Chi mua sắm, sửa chữa;
* Các khoản chi khác.
- Trong quá trình KSC thường xuyên NSNN qua KBNN thực hiện một số
yên cầu:
+ Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để đầu tư sửa chữa, mua sắm
trang thiết bị phương tiện, làm việc và một số nội dung chi khác phải qua các
hình thức đấu thầu, chọn thầu phù hợp hoặc thẩm định giá theo quy định của chế
độ;
+ Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều cho 12 tháng
trong năm để chi, các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một
số thời điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản
chi có tính chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo dự toán năm;


9

+ Trong quá trình thực hiện KSC thường xuyên NSNN, nếu phát hiện thấy
các vi phạm chính sách, chế độ quản lý tài chính, KBNN có quyền từ chối thanh

toán.
1.2. CƠ CHẾ KSC VÀ SỰ CẦN THIẾT HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
KSC THƯỜNG XUYÊN NSNN QUA KBNN.
1.2.1. Nội dung cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.
1.2.1.1. Khái niệm cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.
Khái niệm cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN: Là phương
thức tổ chức, sắp xếp bộ máy kiểm soát chi thường xuyên NSNN tại hệ thống
KBNN cho các đối tượng sử dụng NSNN. KBNN thực hiện thẩm định, kiểm
tra, kiểm soát các khoản chi thường xuyên NSNN phù hợp với các chính
sách, chế độ, định mức chi tiêu do nhà nước quy định theo những nguyên tắc,
hình thức và phương pháp quản lý tài chính trong quá trình cấp phát và
thanh toán các khoản chi thường xuyên NSNN. Trên cơ sở các mối quan hệ
giữa hệ thống pháp luật, chế độ chính sách của nhà nước và các chế tài quy
định cụ thể những thực thể liên quan đến thực hiện công tác KSC thường
xuyên NSNN tại KBNN. Thông qua các mối quan hệ tác động qua lại đó và sự
vận động của cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN, NSNN sử dụng
ngày càng có hiệu quả hơn, phục vụ ngày càng tốt hơn cho phát triển kinh tế
xã hội.
1.2.1.2. Nội dung, hình thức thực hiện cơ chế KSC thường xuyên
NSNN qua KBNN.
Nguyên tắc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi thường xuyên
NSNN qua KBNN.
Theo Luật Ngân sách nhà nước quy định tất cả các khoản chi thường
xuyên NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát trong quá trình cấp phát, thanh toán.
Các khoản chi phải có trong dự toán NSNN được phân bổ, đúng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức do cấp có thẩm quyền quy định và được thủ trưởng đơn vị sử
dụng ngân sách nhà nước hoặc người được ủy quyền quyết định chi.
Tổ chức bộ máy KSC thường xuyên NSNN tại cơ quan KBNN.



10

Tại KBNN trực tiếp giao dịch phục vụ các đơn vị sử dụng NSNN hai
phòng (đối với KBNN tỉnh, thành phố), bộ phận ( đối với KBNN quận, huyện,
thị xã) chuyên môn trực tiếp thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN: (1)
phòng, bộ phận Kế hoạch, KSC thường xuyên các dự án, chương trình mục tiêu;
(2) phòng, bộ phận Kế toán, KSC thường xuyên các loại kinh phí còn.
Công tác KSC thực hiện căn cứ vào hồ sơ chứng từ của đơn vị sử dụng
ngân sách gửi KBNN theo một quy trình chặt chẽ, từ kế toán viên, cán bộ kế
hoạch đến Trưởng phòng Kế toán, Trưởng phòng Kế hoạch, sau đó đến lãnh đạo
KBNN quyết định chi thường xuyên NSNN.
Trách nhiệm của đơn vị sử dụng NSNN, đối tượng được KBNN kiểm soát
chi.
Tất cả các đơn vị sử dụng NSNN và các tổ chức được NSNN hỗ trợ kinh
phí thường xuyên phải mở tài khoản tại KBNN; chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
cơ quan KBNN trong quá trình thực hiện dự toán chi thường xuyên NSNN theo
đúng chế độ quy định.
Thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN có trách nhiệm: Quyết định chi theo
chế độ, tiêu chuẩn và định mức chi trong phạm vị dự toán chi NSNN được cấp
có thẩm quyền giao; Quản lý, sử dụng NSNN theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi NSNN, đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu quả.
Trình tự thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN:
- Cơ quan giao dự toán NSNN: Căn cứ vào khả năng ngân sách hàng năm
được Quốc hội, HĐND các cấp quyết định dự toán chi tiêu trong đó có chi
thường xuyên NSNN cho các ngành, các địa phương. BTC đối với ngân sách
trung ương, UBND các cấp đối với ngân sách địa phương ra quyết định giao dự
toán cho các cấp, các ngành. Sau đó các cấp, các ngành giao dự toán cho các đơn
vị sử dụng NSNN.
- Đơn vị sử dụng kinh phí chi thường xuyên NSNN:
+ Khi có dự toán năm được giao, các đơn vị sử dụng NSNN gửi KBNN

nơi giao dịch, đây là nguồn kinh phí năm đơn vị đơn vị được sử dụng.


11

+ Khi có dự toán ( kinh phí ), hàng tháng các đơn vị sử dụng ngân sách
đến KBNN nơi giao dịch làm thủ tục rút kinh phí để chi tiêu. Tùy theo từng
nhóm mục và mục chi, đơn vị phải hoàn thành đầy đủ các hồ sơ, chứng từ theo
chế độ quy định. Đồng thời việc rút kinh phí phải theo đúng chế độ chi tiêu của
cấp có thẩm quyền quyết định.
- KBNN nơi thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN:
+ KBNN căn cứ vào dự toán ( kinh phí ) được giao; căn cứ vào chế độ tiêu
chuẩn, định mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; căn cứ vào
quyết định chi của thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN; căn cứ vào hồ sơ chứng từ
thanh toán của từng loại chi đảm bảo đúng mục chi. Khi có đủ các điều kiện chi
KBNN kiểm tra kiểm soát đúng sẽ tiến hành thanh toán cho đơn vị, nếu sai yêu
cầu đơn vị phải hoàn thiện hoặc KBNN sẽ từ chối thanh toán.
+ KBNN có quyền từ chối thanh toán các khoản chi không đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải chịu
trách nhiệm về quyết định của mình.
Hình thức thực hiện KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.
Các nội dung trên đây là cơ chế chung nhất về KSC thường xuyên NSNN
qua KBNN. Nhưng trong chi thường xuyên NSNN hiện nay có bẩy hình thức chi
tương ứng với bẩy loại văn bản, chế độ KSC khác nhau. Cụ thể như sau:
Một là: KSC thường xuyên NSNN: Bao gồm chi sự nghiệp kinh tế; chi
chương trình mục tiêu; chi kinh phí ủy quyền và các khoản chi khác của NSNN (
các đơn vị không thực hiện khoán).
Hai là: KSC các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước
( theo Nghị định 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ).

Ba là: KSC các đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập ( theo
Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ).
Bốn là: KSC ngân sách Đảng Cộng sản Việt Nam.


12

Năm là: KSC ngân sách khối an ninh, quốc phòng.
Sáu là: KSC thường xuyên ngân sách xã, phường, thị trấn.
Bẩy là: KSC một số đơn vị thực hiện khoán chi đặc thù theo từng giai
đoạn như ngành KBNN, Thuế, Hải quan, Dự trữ quốc gia …
Như vậy, tất cả các khoản chi thường xuyên NSNN đều có chế độ quy
định cụ thể để các đơn vị sử dụng NSNN chi tiêu và KBNN kiểm soát chi. Tuy
vậy từ thực tế bẩy hình thức KSC thường xuyên NSNN trên đây chúng ta thấy
rằng: Các khoản chi thường xuyên NSNN qua KBNN đã có cơ chế để kiểm tra,
kiểm soát, đảm bảo mọi khoản chi tiêu của NSNN đều được kiểm soát chặt chẽ
theo quy định. Nhưng ta thấy những hình thức kiểm soát trên là nhiều dạng, nên
ta thể nghiên cứu hợp nhất một số hình thức KSC thường xuyên NSNN sao cho
càng thống nhất gộp lại các hình thức KSC càng thuận tiện hơn trong khâu kiểm
soát.
1.2.2. Những nhân tố tác động đến cơ chế KSC thường xuyên NSNN
qua KBNN.
Một là: Trình độ phát triển kinh tế, xã hội.

Trình độ phát triển kinh tế, xã hội có ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân
sách nhà nước. Qui mô nguồn thu sẽ quyết định đến nguồn để chi NSNN. Mà
có nguồn chi thì sẽ tính tới cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN .
Chúng ta đều biết rằng nguồn thu chủ yếu của NSNN chúng ta hiện nay là từ
thuế và khai thác nguồn tài nguyên quốc gia, đó là từ các cơ sơ sản xuất, kinh

doanh và dịch vụ... trình độ phát triển kinh tế, xã hội càng cao thì các nguồn
thu cho NSNN càng lớn, đồng thời cũng khai thác tốt hơn các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, đất đai thuận lợi cho việc khai thác nguồn thu. Mặt khác,
khi cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật đồng bộ và tốt hơn nên sẽ thu hút được các
nhà đầu tư vào đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế, tăng thu cho ngân sách. Vì thế, tùy vào từng đặc điểm cụ
thể về trình độ phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ là một trong những yếu
tố quyết định để có cơ sở từng bước hoàn thiện cơ chế KSC thường xuyên
NSNN qua KBNN.


13

Hai là: Sự ổn định chính trị của đất nươc.
Chúng ta biết, yếu tố quan trọng và cơ bản cho sự phát triển của đất
nước là phải có sự ổn định về chính trị, an ninh quốc gia. Có ổn định về chính
trị thì kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mới đạt được và các nhà đầu tư từ
mọi nơi trong và ngoài nước đưa vốn và kỹ thuật, công nghệ vào nước ta để
kinh doanh và làm ăn lâu dài. Như thế chúng ta mới phát triển được kinh tế, từ
đó mới có nguồn thu cho NSNN yến tố quyết định đến chi thường xuyên
NSNN.
Ba là: Hệ thống luật pháp và chế độ, chính sách về chi thường xuyên
NSNN.
Khi Luật ngân sách nhà nước được ban hành, thì cơ chế KSC thường
xuyên NSNN qua KBNN mới được hình thành và đi vào cuộc sống. Sau khi
Luật Ngân sách nhà nước ra đời thì một loạt chế độ chính sách về quản lý và
KSC thường xuyên NSNN qua KBNN được ban hành, đó là nghị định của Chính
phủ, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính và các Bộ, ngành chức năng, các
văn bản của KBNN. Đây là hệ thống chế độ, chính sách làm cơ sở cho KBNN
thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN. KBNN không thể thực hiện cơ chế

KSC thường xuyên NSNN được nếu như không có hệ thống hệ thống luật pháp
và chế độ, chính sách về chi thường xuyên NSNN.
Tuy vậy, hệ thống luật pháp và chế độ, chính sách về chi thường xuyên
NSNN của chúng ta hiện nay ban hành đã khá đầy đủ, đồng bộ và tương đối
sát với thực tiễn cuộc sống. Nhưng do chi thường xuyên NSNN đa dạng, phức
tạp và rộng khắp, đồng thời chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan khác nhau, nên nhiều khi ban hành còn thiếu cơ sở thực tế để thực hiện,
có tình trạng chưa đồng bộ.
Do vậy hoàn thiện hệ thống luật pháp và chế độ, chính sách về chi
thường xuyên NSNN luôn là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến cơ chế KSC
thường xuyên NSNN qua KBNN.
Bốn là: Năng lực quản lý điều hành của các cấp chính quyền và các cấp
quản lý NSNN.
Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện nay, Quốc hội quyết nghị dự toán
ngân sách trung ương và trợ cấp cho ngân sách địa phương. Hội đồng nhân


14

dân tỉnh, thành phố quyết nghị dự toán ngân sách cấp mình và trợ cấp cho
ngân sách cấp dưới. Tương tự như vậy đối với ngân sách quận, huyện, thị
xã ...Bộ Tài chính căn cứ vào quyết nghị của Quốc hội ra quyết định giao dự
toán chi NSNN cho các bộ, ban, ngành ở trung ương và trợ cấp ngân sách cho
các địa phương. Tại tỉnh, thành phố, UBND tỉnh, thành phố căn cứ vào quyết
nghị chủ HĐND tỉnh ra quyết định giao dự toán chi thường xuyên ngân sách
cho các sở, ban, ngành và trợ cấp cho ngân sách quận, huyện, thành phố,
tương tự như vậy với ngân sách quận, huyện, thành phố ... Nhận được quyết
định giao dự toán các đơn vị dự toán cấp I phân bổ dự toán cho các đơn vị sử
dụng NSNN. Như vậy các đơn vị sử dụng NSNN có quyết định giao dự toán
của cơ quan chủ quản thì mới đến KBNN làm thủ tục kiểm soát chi và rút

kinh phí. Do đó Năng lực quản lý điều hành của các cấp chính quyền và các
cấp quản lý NSNN sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến cơ chế KSC thường xuyên
NSNN qua KBNN.
Năm là: Các nhân tố khách quan khác.
Có nhiều nhân tố khách quan ảnh hưởng đến cơ chế KSC thường xuyên
NSNN qua KBNN:
- Như các cơ quan đề ra cơ chế, chính sách quản lý và phát triển kinh tế
xã hội: chính sách chế độ tiền lương của cán bộ công chức, chính sách nâng
cao chất lượng giáo dục, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ...
- Như các đơn vị sử dụng kinh phí chi thường xuyên ngân sách nhà
nước, việc các đơn vị có tự giác chấp hành chế độ chi tiêu thường xuyên
NSNN hay không cũng là một nhân tố rất quan trọng đối với KBNN trong quá
trình thực hiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN.
1.2.3. Sự cần thiết hoàn thiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua
KBNN.
1.2.3.1. Quá trình hình thành cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua
KBNN Việt Nam.
Sự hình thành hệ thống KBNN Việt Nam: Trước yêu cầu đổi mới của đất
nước trong đó có yêu cầu cấp thiết của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý và điều
hành NSNN. Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) đã ký Quyết định số


15

07/HĐBT ngày 4 tháng 01 năm 1990, thành lập hệ thống KBNN trực thuộc BTC
trên cơ sở chuyển giao nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN từ Ngân hàng Nhà nước về
BTC. Từ ngày 01 tháng 4 năm 1990, hệ thống KBNN chính thức đi vào hoạt
động và đã trở thành ngày truyền thống của ngành KBNN Việt Nam.
Sự hình thành cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Việt Nam.
Cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN được hình thành:

- Thời kỳ trước tháng 4 năm 1990:
Như phần trình bày sự hình thành của hệ thống KBNN, trước ngày 01
tháng 4 năm 1990, NSNN được quản lý tại hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Thời kỳ này hầu như chưa thực hiện KSC NSNN, mà chủ yếu là làm công
tác kế toán NSNN, thực hiện thu, chi NSNN theo yêu cầu của ngành tài chính,
đơn vị sử dụng NSNN thực hiện việc chi tiêu.
- Thời kỳ tháng 4 năm 1990 đến năm 1996:
Hệ thống KBNN được thành lập lại và đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng
4 năm 1990. Thời kỳ từ 01 tháng 4 năm 1990 đến hết năm 1996, là thời kỳ hình
thành và xây dựng hệ thống KBNN. Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của hệ
thống KBNN là: Trực tiếp quản lý quỹ NSNN; tổ chức quản lý các nguồn vốn tài
chính nhà nước; tổ chức theo dõi và quản lý các khoản tịch thu và tạm giữ chờ
xử lý; tổ chức huy động và quản lý các nguồn vốn Nhà nước vay dân và trả nợ
dân; tổ chức công tác kế toán KBNN và NSNN.
Đây là thời kỳ đất nước đang tiếp tục công cuộc đổi mới và có các bước
chuyển tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Chi NSNN lúc này đóng
vai trò quyết định thông qua việc bố trí cơ cấu các khoản chi trong tổng số chi
NSNN. Nhưng cơ chế chi ngân sách thời kỳ này cơ quan tài chính và KBNN
thiếu cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi
NSNN. Cơ quan tài chính ra lệnh cấp phát , KBNN thực hiện xuất quỹ theo lệnh
của cơ quan tài chính, đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện việc chi tiêu. Do vậy,
thực chất việc cấp phát vốn NSNN qua KBNN là xuất quỹ NSNN.
- Thời kỳ từ năm 1997 đến nay:


16

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa IX đã thông qua Luật NSNN. Kể từ năm
1945, lần đầu tiên Việt Nam có một bộ luật để điều chỉnh các mối quan hệ trong
lĩnh vực NSNN. Luật này quy định về việc phân cấp quản lý, lập, chấp hành và

quyết toán NSNN; phân định trách nhiệm, quyền hạn của các bộ, ngành, địa
phương trong việc quản lý và điều hành NSNN.
Trong lĩnh vực quản lý chi NSNN, Luật NSNN quy định rõ ràng về các
điều kiện để một khoản chi NSNN được thực hiện cũng như quy trình cấp phát
kinh phí NSNN qua cơ quan Tài chính và KBNN. Để phù hợp với thực tiễn Luật
NSNN năm 1996 đã 2 lần được sửa đổi, sửa lần thứ nhất năm 1998, lần thứ hai
năm 2002.
Điều 56 Luật NSNN sửa đổi năm 2002 quy định " căn cứ vào dự toán
NSNN được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, thủ trưởng đơn vị sử dụng
ngân sách quyết định chi gửi KBNN. KBNN kiểm tra tính hợp pháp của các tài
liệu cần thiết theo quy định của pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ
các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 5 của Luật này theo phương thức thanh
toán trực tiếp. Bộ trưởng BTC hướng dẫn cụ thể phương thức thanh toán này phù
hợp với điều kiện thực tế". Mục 2 Điều 58 của Luật NSNN sửa đổi năm 2002
quy định " Thủ trưởng cơ quan KBNN có quyền từ chối thanh toán, chi trả các
khoản chi không đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 5 của Luật này và
chịu trách nhiệm về quyết định của mình"
Từ năm 1997 đến nay đã có nhiều hình thức KSC thường xuyên NSNN
được thực hiện: như KSC thường xuyên NSNN ( các đơn vị không thực hiện
khoán ); KSC các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; KSC các
đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. KSC ngân sách Đảng; KSC
ngân sách an ninh, quốc phòng; KSC thường xuyên ngân sách xã, phường, thị
trấn; KSC một số đơn vị thực hiện khoán chi đặc thù theo từng giai đoạn như
ngành KBNN, Thuế, Hải quan, Dự trữ quốc gia …sẽ nghiên cứu cụ thể tại phần
tiếp theo.


17


Như vậy, cùng với sự hình thành của hệ thống KBNN Việt Nam trong các
thời kỳ trước đây và thời kỳ đổi mới của đất nước hiện nay, đã từng bước hình
thành và hoàn thiện cơ chế KSC chi thường xuyên NSNN qua KBNN. Lần đầu
tiên trong tiến trình phát triển của đất nước, cơ chế KSC thường xuyên NSNN đã
được thực hiện bằng bộ Luật. Đây là cuộc cách mạng trong quản lý chi tiêu
NSNN, nguồn đóng góp của nhân dân để xây dựng và phát triển đất nước.
1.2.3.2. Vai trò của KBNN trong thực hiện cơ chế KSC thường xuyên
NSNN.
KSC thường xuyên NSNN là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các cơ
quan, đơn vị có liên quan đến việc quản lý và sử dụng NSNN, trong đó hệ thống
KBNN giữ vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp kiểm soát và chịu trách nhiệm về
kết quả kiểm soát của mình. Luật NSNN đã quy định mọi khoản chi của NSNN
chỉ được thực hiện khi có đủ điều kiện quy định, đồng thời theo nguyên tắc thanh
toán trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách và các tổ chức được NSNN hỗ trợ
thường xuyên phải mở tài khoản tại KBNN, chịu sự kiểm tra của cơ quan tài
chính và KBNN trong quá trình thanh toán và sử dụng kinh phí.
Như vậy, KBNN là “ trạm gác và kiểm soát cuối cùng”, được nhà nước
giao nhiệm vụ KSC trước khi đồng vốn của nhà nước ra khỏi quỹ NSNN.
Thực hiện nhiệm vụ nói trên, KBNN chủ động bố trí vốn để chi trả đầy đủ
kịp thời cho các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách theo theo yêu cầu rút dự toán
ngân sách của đơn vị sử dụng ngân sách trên cơ sở dự toán ngân sách đã được
duyệt, đồng thời thông báo và phân phối dự toán ngân sách cho cơ quan, đơn vị.
Để thực hiên việc cấp phát, thanh toán kinh phí một cách kịp thời, KBNN còn
thường xuyên cải tiến quy trình cấp phát, thanh toán như thực hiện hình thức
thanh toán điện tử trong hệ thống, cải tiến chế độ kế toán, ứng dụng tin học vào
quản lý các nghiệp vụ…Từng bước thực hiện cấp phát, thanh toán trực tiếp cho
đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người cung cấp hàng hoá dịch vụ theo tính chất
của từng khoản chi NSNN.
Trên cơ sở đó, KBNN thực hiện kiểm tra và hạch toán các khoản chi

NSNN theo đúng chương, loại, khoản, mục, tiểu mục của mục lục NSNN; đồng
thời cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cần thiết, phục vụ công tác chỉ


18

đạo và điều hành của cơ quan tài chính và chính quyền các cấp. Ngoài ra, KBNN
còn phối hợp chặt chẽ với cơ quan tài chính trong việc bố trí, sắp xếp các nhu
cầu chi tiêu, bảo đảm thu chi NSNN luôn được cân đối, việc điều hành quỹ
NSNN được thuận lợi.
Khi nhận được lệnh trả tiền của cơ quan tài chính hay đơn vị sử dụng kinh
phí ngân sách cấp, nhiệm vụ của KBNN là trả tiền ngay cho đơn vị được hưởng.
Tuy nhiên, KBNN không chỉ có nhiệm vụ xuất nhập công quỹ, mà còn có trách
nhiệm quản lý quỹ NSNN. Với nhiệm vụ này, KBNN chịu trách nhiệm về tính
hợp pháp, hợp lệ của việc xuất tiền. Vì vậy, KBNN phải kiểm tra việc sử dụng
kinh phí NSNN cấp cho các đơn vị, tổ chức kinh tế, bảo đảm đúng mục đích,
đúng chế độ định mức chi tiêu của Nhà nước. Công việc kiểm tra đó được
KBNN thực hiện thông qua việc xem xét các hồ sơ, tài liệu chi NSNN trên các
phương diện như dự toán ngân sách được duyệt, thẩm quyền chuẩn chi; chế độ,
tiêu chuẩn định mức chi của nhà nước. Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện
thấy cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế sử dụng kinh phí được NSNN cấp không
đúng mục đích, không đúng chế độ, chính sách của nhà nước, KBNN từ chối cấp
phát thanh toán và phải chịu trách nhiệm về sự từ chối của mình. Như vậy, trong
quá trình quản lý và điều hành NSNN, KBNN không thụ động thực hiện theo các
lệnh của cơ quan tài chính, hoặc đơn vị sử dụng ngân sách một cách đơn thuần.
KBNN hoạt động có tính độc lập tương đối, theo cơ chế tác động trở lại đối với
các cơ quan, đơn vị này. Thông qua đó, KBNN có thể bảo đảm tính chặt chẽ
trong quá trình sử dụng công quỹ nhà nước, đặc biệt trong khâu mua sắm, xây
dựng, sữa chữa…Chính vì vậy, không những đã hạn chế được tình trạng lãng
phí, thất thoát, tiêu cực, mà còn bảo đảm cho việc sử dụng kinh phí NSNN đúng

mục đích, hợp pháp, tiết kiệm, có hiệu quả. Đồng thời tham gia kiểm soát chặt
chẽ việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán, góp phần chống tiêu cực, đề cao kỷ
cương, kỷ luật quản lý tài chính.
Thông qua việc cấp phát, thanh toán các khoản chi thường xuyên NSNN,
KBNN còn tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN qua
KBNN theo từng địa bàn, từng cấp ngân sách và từng khoản chi chủ yếu, rút ra
những nhận xét, đánh giá về những kết quả đã được, những hạn chế, tồn tại và
nguyên nhân. Từ đó, cùng với các cơ quan hữu quan phối hợp nghiên cứu nhằm


19

cải tiến và hoàn thiện cơ chế cấp phát, thanh toán và KSC thường xuyên NSNN
qua KBNN.
1.2.3.3. Hoàn thiện cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN là do
yêu cầu của quá trình đổi mới kinh tế.
KSC thường xuyên NSNN qua KBNN là quá trình các cơ quan chức năng
của KBNN thực hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi thường xuyên
NSNN theo các chính sách, chế độ, định mức chi tiêu do các cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước quy định và trên cơ sở những nguyên tắc, hình thức và
phương pháp quản lý tài chính trong từng giai đoạn.
Đối với nước ta hiện nay, cần thiết phải hoàn thiện cơ chế KSC thường
xuyên NSNN qua KBNN lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi những lí do
sau đây:
- Do yêu cầu của công cuộc đổi mới: trong quá trình đổi mới cơ chế quản
lý tài chính nói chung và đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói riêng, đòi hỏi mọi
khoản chi của NSNN phải bảo đảm tiết kiệm và có hiệu quả. Điều này là một tất
yếu khách quan, bởi vì nguồn lực của NSNN có hạn, nó là nguồn lực của đất
nước, trong đó chủ yếu là tiền của và công sức lao động do nhân dân đóng góp,
do đó không thể chi tiêu một cách lãng phí. Vì vậy, kiểm soát chặt chẽ các khoản

chi thường xuyên NSNN thực sự trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng,
Nhà nước, của các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Thực hiện tốt công tác này
sẽ có ý nghĩa rất to lớn trong việc thực hành tiết kiệm, tập trung mọi nguồn lực
tài chính để phát triển kinh tế - xã hội, chống các hiện tượng tiêu cực, chi tiêu
lãng phí, góp phần lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, kiềm
chể lạm phát. Đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm và phát huy được vai
trò của các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến công tác quản lý
và sử dụng NSNN. Đặc biệt, theo Luật NSNN quy định, hệ thống KBNN chịu
trách nhiệm kiểm soát thanh toán, chi trả trực tiếp từng khoản chi NSNN cho các
đối tượng sử dụng đúng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã được Nhà nước
giao, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật tài chính.
- Do hạn chế của bản thân cơ chế quản lý chi thường xuyên NSNN: cơ chế
quản lý, cấp phát thanh toán chi thường xuyên NSNN tuy đã được thường xuyên


20

sửa đổi và từng bước hoàn thiện, nhưng cũng chỉ có thể quy định được những
vấn đề chung nhất, mang tính nguyên tắc. Vì vậy, nó không thể bao quát hết
được tất cả những hiện tượng nẩy sinh trong quá trình thực hiện chi thường
xuyên NSNN. Cũng chính từ đó, cơ quan tài chính và KBNN thiếu cơ sở pháp lý
cụ thể cần thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát từng khoản chi NSNN. Như vậy,
cấp phát chi thường xuyên NSNN đối với cơ quan tài chính chỉ mang tính chất
phân bổ NSNN, còn đối với KBNN thực chất chỉ là xuất quỹ NSNN, chưa thực
hiện được việc chi trả trực tiếp đến từng đơn vị sử dụng kinh phí, chưa phát huy
hết vai trò kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN. Mặt khác, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của các hoạt động KT-XH, công tác chi NSNN cũng ngày càng đa
dạng và phức tạp hơn. Điều này cũng làm cho cơ chế KSC thường xuyên NSNN
nhiều khi không theo kịp với sự biến động và phát triển của hoạt động chi
NSNN, trong đó, một số nhân tố quan trọng như hệ thống tiêu chuẩn định mức

chi tiêu còn xa rời thực tế, thiếu đồng bộ, thiếu căn cứ để thẩm định; chưa có một
cơ chế quản lý chi phù hợp và chặt chẽ đối với một số lĩnh vực. Mặt khác, công
tác kế toán, có tình trạng chưa được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ đã tạo ra
những kẽ hở trong cơ chế quản lý chi NSNN. Từ đó, một số không ít đơn vị và
cá nhân đã tìm cách lợi dụng, khai thác những kẽ hở đó của cơ chế quản lý để
tham ô, trục lợi, tư túi, gây lãng phí tài sản và công quỹ của nhà nước. Từ thực tế
trên, đòi hỏi những cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc kiểm tra, giám sát quá
trình chi tiêu để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực của
những đơn vị sử dụng kinh phí NSNN; đồng thời phát hiện những kẽ hở trong cơ
chế quản lý để từ đó có những giải pháp và kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung kịp
thời những cơ chế, chính sách hiện hành, tạo nên một cơ chế quản lý và KSC
NSNN ngày càng chặt chẽ và hoàn thiện.
- Do ý thức của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN: một thực tế khá phổ
biến là các đơn vị sử dụng kinh phí được NSNN cấp thường có chung một tư
tưởng là tìm mọi cách sử dụng hết số kinh phí được cấp, ít quan tâm đến việc
chấp hành đúng mục đích, đối tượng và dự toán đã được duyệt. Các đơn vị này
có tình trạng lập hồ sơ, chứng từ thanh toán cho đủ chế độ quy định: không có
trong dự toán chi NSNN đã được phê duyệt, không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi tiêu; thiếu các hồ sơ, chứng từ pháp lý có liên quan…Vì vậy, vấn đề đặt


21

ra là cần thiết phải có một tổ chức thứ ba có thẩm quyền, độc lập và khách quan,
có kỹ năng nghề nghiệp, có vị trí pháp lý và uy tín cao để thực hiện việc kiểm
tra, kiểm soát và đưa ra ý kiến nhận xét, kết luận chính xác đối với khoản chi của
đơn vị bảo đảm có trong dự toán được duyệt; đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn
được duyệt; có đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán theo đúng quy định,…, có giải
pháp chấn chỉnh và xử lý kịp thời các gian lận, sai sót, ngăn chặn các sai phạm
và lãng phí có thể xảy ra trong việc sử dụng NSNN của các cơ quan, đơn vị, bảo

đảm mọi khoản chi của NSNN được tiết kiệm và có hiệu quả.
- Do tính đặc thù của các khoản chi NSNN: các khoản chi của NSNN đều
mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. Tính chất cấp phát trực tiếp không hoàn
lại của các khoản chi NSNN là một ưu thế cực kỳ to lớn đối với các đơn vị sử
dụng NSNN. Trách nhiệm của họ là phải chứng minh được việc sử dụng các
khoản kinh phí bằng các kết quả công việc cụ thể đã được nhà nước giao. Tuy
nhiên, việc dùng những chỉ tiêu định tính và định lượng để đánh giá và đo lường
kết quả công việc trong nhiều trường hợp là thiếu chính xác và gặp không ít khó
khăn. Vì vậy, cần phải có một cơ quan chức năng có thẩm quyền để thực hiện
việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi của NSNN, bảo đảm tương xứng giữa
khoản tiền nhà nước đã chi ra với kết quả công việc mà các đơn vị sử dụng
NSNN thực hiện.
- Do yêu cầu mở cửa và hội nhập với nền tài chính khu vực và thế giới:
theo kinh nghiệm quản lý NSNN của các nước và khuyến nghị của các tổ chức
tài chính quốc tế, việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN chỉ thực hiện có
hiệu quả trong điều kiện thực hiện cơ chế chi trả trực tiếp từ cơ quan quản lý quỹ
NSNN đến từng đối tượng sử dụng ngân sách, kiên quyết không chuyển kinh phí
của NSNN qua các cơ quan quản lý trung gian. Có như vậy mới có thể bảo đảm
đề cao kỷ cương, kỷ luật quản lý tài chính nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng kinh phí của NSNN.
- Cơ quan KBNN được giao nhiệm vụ tập trung và phản ảnh đầy đủ, kịp
thời các các khoản thu NSNN, tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ NSNN do
các tổ chức và cá nhân nộp tại hệ thống KBNN theo quy định. Thực hiện hạch
toán số thu NSNN cho các cấp ngân sách theo quy định của Luật NSNN và của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện chi NSNN, kiểm soát, thanh toán,


22

chi trả các khoản chi từ NSNN theo quy định của pháp luật. Với nhiệm vụ đó,

với các điều kiện quản lý NSNN, nên KBNN được giao kiểm soát chi thường
xuyên NSNN là phù hợp với thực tế khách quan.
1.3. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN CƠ CHẾ KSC NSNN QUA KBNN
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1.3.1. Kinh nghiệm của Cộng hoà Pháp.
Kế toán Kho bạc Nhà nước sẽ thực hiện xuất quỹ theo lệnh chuẩn chi
(quyết định chi ) sau khi thực hiện một loạt các kiểm tra sau:
- Kiểm tra tư cách người chuẩn chi (có đúng là người chuẩn chi ra lệnh
phải thanh toán)
- Kiểm tra tính mục đích của khoản chi (xem xét khoản chi có đúng dự
toán được giao hay không).
- Kinh phí dành cho các khoản chi còn hay không?
- Kiểm tra tính hợp thức: Các công việc hoặc dịch vụ đã hoàn thành hay
chưa (Biên bản nghiệm thu, hoá đơn chứng từ). Việc kiểm tra này trừ trường hợp
đơn vị sử dụng ngân sách được tạm ứng.
- Kiểm tra tính chính xác của số liệu về mặt số học
- Kiểm tra xem khoản chi đã được chấp thuận của Kiểm soát viên tài chính
hay chưa? (chỉ kiểm tra trong trường hợp các khoản chi theo Luật định cần có sự
chấp thuận của Kiểm soát viên tài chính ).
- Kiểm tra các hồ sơ chứng từ liên quan đến khoản chi
- Kiểm tra số tiền chi ra có đúng đối tượng thụ hưởng cuối cùng?
Nguyên tắc kiểm tra là: kiểm tra toàn bộ lệnh chi mà chuẩn chi đã đưa cho
kế toán; kiểm tra trước khi thanh toán (tiền kiểm) và kiểm tra theo 8 nội dung đã
nêu ở mục này.
Hiện nay cơ chế KSC đang có những thay đổi theo hướng nâng cao hiệu
quả kiểm soát chi với những nội dung cụ thể là: những khoản chi lớn và rủi ro thì
phải tăng cường kiểm tra; giảm bớt sự trùng lắp trong kiểm tra của người chuẩn
chi và kế toán; tăng cường trách nhiệm của đơn vị chi tiêu; rút ngắn thời gian
tiến hành thanh toán, quy định rõ trách nhiệm của chuẩn chi và của kế toán Kho
bạc.



23

Để thực hiện mục tiêu đó thì phải kiểm soát theo ngưỡng chi trên cơ sở
phân tích rủi ro các khoản chi, việc kiểm tra sẽ căn cứ vào các tiêu thức là: phạm
vi, thời điểm và cường độ kiểm tra.
Về phạm vi thì có thể kiểm tra toàn bộ các lệnh chi tiền hoặc có thể kiểm
tra chọn mẫu
Về thời điểm thì có thể kiểm tra trước hoặc sau thanh toán
Về cường độ kiểm tra thì có thể kiểm tra cả 8 điểm nêu trên hoặc chỉ kiểm
tra một vài điểm.
Để kiểm soát theo ngưỡng chi đạt hiệu quả thì phải phân tích được mức độ
rủi ro của các khoản chi, việc phân tích này dựa vào bản chất khoản chi (ví dụ
chi tiền điện, nước, thuê nhà thì ít rủi ro) và chất lượng của đơn vị chi tiêu đó…
Thông thường, mức độ rủi ro xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp có thể
phân ra theo một số loại chi cụ thể như sau: Hợp đồng mua sắm công; hợp đồng
mua sắm không cần thủ tục, chi trợ cấp; chi có định mức như chi học bổng, chi
lương công chức và chi tiền hưu trí. Khi đã xác định mức độ rủi ro thì kế toán
viên phải phân nhóm theo mức độ rủi ro để có cách kiểm soát phù hợp.
Kiểm soát chi theo ngưỡng thì cần có các cơ chế pháp lý để kiểm soát,
trong đó cần thiết phải xây dựng cơ chế kiểm soát và xây dựng quy trình chuẩn
để đơn vị sử dụng ngân sách và người kiểm soát chi cùng thực hiện. Trong quy
đình chuẩn kiểm soát chi cần nêu rõ một số điểm:
- Các khoản chi có nhiều rủi ro hoặc lớn thì kiểm tra toàn bộ theo 8 điểm
đã nêu trên
- Các khoản khác thì kiểm tra mẫu hoặc kiểm tra sau
- Nếu đơn vị sử dụng ngân sách có độ tin cậy thì Kho bạc có thể kiểm soát
từ (2% -10%) trên tổng số món chi.
- Việc theo dõi chất lượng của đơn vị sử dụng ngân sách có thể đánh giá

được những sai sót của đơn vị thông qua công tác thống kê của Kho bạc về một
số tiêu chí: hình thức kiểm tra; thời hạn thanh toán; tiền mặt sai sót; bản chất sai
sót; khối lượng tiền chi tiêu
Trong kiểm tra mẫu, nếu phát hiện số sai sót trên tổng món chi lớn hơn 2%
thì quay lại kiểm tra toàn bộ; nếu số sai sót nằm trong kế hoạch kiểm tra thì trách


24

nhiệm thuộc về kế toán kho bạc; nếu số sai sót không nằm trong kế hoạch kiểm
tra thì trách nhiệm thuộc Toà kiểm toán.
Để quy định được trách nhiệm giữa kế toán kho bạc và toà kiểm toán
trong kiểm soát chi thì hàng năm quy trình KSC của Kho bạc phải được Toà
kiểm toán phê duyệt về kế hoạch và mức độ kiểm soát các khoản chi.
Công tác kiểm soát chi theo ngưỡng chi tại Pháp đã mang lại hiệu quả
thiết thực về cơ chế quản lý chi và kiểm soát chi ngân sách nhà nước, cụ thể là:
- Thời gian thanh toán các khoản chi giảm bình quân xuống 1/3 so với ban
đầu, ( trước đây thời gian từ khi nhận đủ hồ sơ chứng từ đến thanh toán là 7
ngày, nay rút xuống còn 4 ngày).
- Số tiền kiểm soát lớn nhưng không phải kiểm tra nhiều món chi (Kho
bạc tỉnh chỉ kiểm tra 11% lệnh chi tiền nhưng có thể kiểm tra 50% giá trị tiền
giao dịch).
Một thay đổi lớn trong cơ chế kiểm soát chi so với trước đây là: khi kiểm
soát thanh toán, Kho bạc không kiểm soát: Tính hiệu quả của khoản chi và tính
hợp pháp của khoản chi, 2 vần đề này do người chuẩn chi chịu trách nhiệm.
1.3.2. Kinh nghiệm của Canada.
Theo Hiến pháp của Canada, bộ máy quản lý Nhà nước được chia làm ba
cấp : Chính phủ Liên bang, Chính phủ Bang và chính quyền tỉnh. Do vậy, NSNN
được hình thành theo ba cấp tương ứng, mỗi cấp ngân sách được quyền có những
khoản thu và có những nhiệm vụ chi riêng.

Quản lý chi NSNN nói chung và kiểm soát chi NSNN nói riêng được dựa
trên nguyên tắc phân định rõ ràng, rành mạch về trách nhiệm, quyền hạn cũng
như nghĩa vụ và lợi ích giữa chính quyền các cấp, không những đảm bảo sự hoạt
động bình thường, có hiệu quả của bộ máy hành chính Nhà nước mà còn đảm
bảo được việc cung cấp các dịch vụ công cộng có chất lượng cao trên toàn bộ
phạm vi lãnh thổ Canada.
- Các cơ quan của Chính phủ tham gia vào quá trình lập, chấp hành và
quyết toán ngân sách Liên bang gồm :
+ Bộ Tài chính là đơn vị chủ trì lập kế hoạch thu - chi ngân sách.


25

+ Tổng cục Thuế là cơ quan ngang Bộ (thuộc Chính phủ) tổ chức việc thu
thuế.
+ Kho bạc là cơ quan ngang bộ (thuộc Chính phủ) chịu trách nhiệm chấp
hành và quyết toán ngân sách. Kho bạc Canada cũng là cơ quan quản lý, theo dõi
hoạt động của tất cả các cơ quan khác của Chính phủ.
+ Tổng Kiểm toán Nhà nước là cơ quan trực thuộc Quốc hội (độc lập so
với Chính phủ) tổ chức kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách và kiểm toán các
chương trình chi tiêu công cộng của Chính phủ.
- Quy trình lập ngân sách liên bang hàng năm: Quy trình lập kế hoạch
ngân sách liên bang ở Canada hàng năm như sau (năm ngân sách bắt đầu từ 1/4,
kết thúc vào 31/3 hàng năm) :
+ Trong tháng 6 Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Tài chính họp đánh giá và dự
báo tình hình ngân sách trong năm kế hoạch và các năm sau.
+ Từ tháng 6 đến tháng 9, các cơ quan chính phủ dự kiến chương trình,
mục tiêu cụ thể của mình và dự kiến ngân sách cho các năm sau.
+ Từ tháng 10, Bộ trưởng Bộ Tài chính đưa ra kế hoạch ngân sách trong
năm tới theo các chương trình mục tiêu của Chính phủ và đề xuất của các cơ

quan thuộc Chính phủ. Bản kế hoạch ngân sách này chủ yếu tập trung vào các
khoản chi ngân sách mới hoặc dự kiến thay đổi các khoản chi hiện hành. Bản kế
hoạch ngân sách được công bố rộng rãi để lấy ý kiến trong nhân dân (từng người
dân có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức để góp ý kiến vào
bản dự toán ngân sách do Bộ Tài chính đưa ra).
+ Đầu tháng 1 năm sau, căn cứ vào các ý kiến tham gia của các cơ quan
Chính phủ và đại đa số quần chúng, Chính phủ sẽ xem xét và điều chỉnh kế
hoạch ngân sách.
+ Tháng 2 năm sau, kế hoạch ngân sách chính thức được trình Quốc hội.
Trước khi đưa ra biểu quyết tại Hạ Nghị viện, Uỷ ban Tài chính của Thượng
Nghị viện tổ chức thẩm tra và soạn thảo báo cáo thẩm tra kế hoạch ngân sách do
Chính phủ trình. Trong quá trình thẩm tra, Uỷ ban Tài chính của Thượng Nghị
viện tiếp tục nhận hoặc trực tiếp nghe ý kiến của nhân dân đóng góp vào bản kế


×