Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Mối quan hệ giữa các loại nguồn trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.08 KB, 7 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về nguồn của tư pháp quốc tế
1. Pháp luật quốc gia
2. Điều ước quốc tế
3. Tập quán quốc tế
4. Án lệ
II.
Mối quan hệ giữa các loại nguồn của tư pháp quốc tế
1. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
2. Mối quan hệ giữa tập quán quốc tế và pháp luật quốc gia
III. Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa các loại nguồn của tư pháp quốc tế
KẾT LUẬN

0


MỞ ĐẦU
Trong những thập kỉ đầu của thế kỉ 21, người ta thường nhắc đến xu thế toàn
cầu hoá như một đặc điểm chi phối thời đại với sự hội nhập quốc tế sâu sắc, nhanh
mạnh và mở rộng của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó là một xu hướng tất yếu,
là một đòi hỏi khách quan, dù muốn hay không thì các quốc gia, các cá nhân pháp
nhân cũng phải hoà mình vào dòng chảy đó. Từ đó dẫn đến các chủ thể thiết lập vô
số các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài và yêu cầu điều
chỉnh của Tư pháp quốc tế. Vấn đề đặt ra cho các chủ thể của quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài này là “mối quan hệ giữa các loại nguồn trong tư pháp quốc
tế”.
I.



Khái quát chung về nguồn của tư pháp quốc tế
1. Pháp luật quốc gia
2. Điều ước quốc tế

Mặc dù đã xuất hiện từ những năm trước công nguyên nhưng chưa một tài
liệu chính thống nào ghi nhận về việc các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã đưa
ra một định nghĩa khái quát về điều ước quốc tế. Chỉ đến năm 1969, khi công ước
Viên về điều ước quốc tế ra đời, theo điểm a khoản 1 điều 2 công ước quy định:
“Điều ước quốc tế là một loại thoả thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa
các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc thoả
thuận giữa các quốc gia đó có được ghi nhận trong văn kiện duy nhất hoặc trong
hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng không phụ thuộc vào tên gọi của
văn kiện đó.
3. Tập quán quốc tế
4. Án lệ
II.
Mối quan hệ giữa các loại nguồn của tư pháp quốc tế
1. Mối quan hệ chung giữa các loại nguồn của tư pháp quốc tế
1.1. sách
2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
2.1. Sự tác động qua lại giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
Đối với từng quốc gia, mức độ tác động qua lại giữa điều ước quốc tế và
pháp luật quốc gia tuỳ thuộc vào mức độ tham gia quan hệ quốc tế của quốc gia và
các công cụ hợp tác mà quốc gia sử dụng khi tham gia quan hệ quốc tế đó. Chẳng
hạn, một quốc gia tham gia khá sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá thì ảnh hưởng
1


qua lại giữa pháp luật của họ với điều ước quốc tế chắc chắn sẽ rõ nét hơn nhiều so

với những quốc gia thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế hoặc mới tham gia
vào toàn cầu hoá. Quá trình Việt Nam tham gia Hiệp hội các nước Đông Nam Á là
một minh chứng rõ ràng cho nhận định trên. Hiệp hội các nước Đông Nam Á là
một tổ chức được thành lập từ năm 1967 nhưng mãi đến 1995 Việt Nam mới trở
thành thành viên chính thức của tổ chức này. Do đó, việc thực hiện các quy định
trong khuôn khổ tổ chức này (ví dụ như hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực
chung CEPT) thông qua việc đưa các quy định đó vào nội luật của Việt Nam là
chậm hơn so với các quốc gia thành viên khác.
Trên quy mô toàn cầu, sự tác động qua lại giữa điều ước quốc tế và pháp luật
quốc gia không tồn tại một cách riêng lẻ, rời rạc mà nó tồn tại trong một chỉnh thể,
nơi gặp nhau của ý chí chung, lợi ích chung. Sự tác động qua lại giữa điều ước
quốc tế và pháp luật quốc gia thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Pháp luật quốc gia ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển
của điều ước quốc tế.
Các điều ước quốc tế được hình thành dựa trên cơ sở sự thoả thuận và thống
nhất ý chí của các quốc gia. Chính vì vậy về mặt ý nghĩa, quá trình xây dựng một
điều ước quốc tế là quá trình đưa ý chí của quốc gia đó vào xây dựng lên các điều
ước quốc tế nói riêng và pháp luật quốc tế nói chung thông qua quá trình thảo luận,
đàm phán, thoả thuận và ký kết giữa các quốc gia. Với ý nghĩa đó, pháp luật quốc
gia thể hiện sự định hướng về nội dung, tính chất của điều ước quốc tế. Tuy nhiên,
lợi ích tối đa cho mỗi quốc gia không có nghĩa sẽ bỏ qua lợi ích của cộng đồng, vì
vậy dù nói theo cách nào thì điều ước quốc tế vẫn là sản phẩm của sự thống nhất ý
chí của các quốc gia thành viên. Mọi sự thay đổi hay phát triển tiến bộ của pháp
luật quốc gia đều tác động thúc đẩy sự phát triển của pháp luật quốc tế theo chiều
hướng tích cực.
Sự ảnh hưởng có tính chất quyết định của pháp luật quốc gia đến sự hình
thành và phát triển của điều ước quốc tế được thể hiện ở nhiều nội dung, nhiều cấp
độ, nhiều phương thức khác nhau. Cụ thể các đại diện của quốc gia tham gia vào
quá trình đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế đều bị chi phối bởi các quan điểm
của pháp luật quốc gia mình. Thực tế đã chứng minh rất nhiều nguyên tắc và các

quy phạm pháp luật quốc tế có nguồn gốc từ pháp luật của các quốc gia tiến bộ.
2


- Điều ước quốc tế thường xuyên thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện pháp
luật quốc gia.
Điều ước quốc tế đóng vai trò bổ sung và hoàn thiện pháp luật quốc gia, đảm
bảo sự hài hoà giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế, tạo hành lang pháp
lý vững chắc cho sự phát triển các quan hệ hợp tác giữa các nước, quan hệ dân sự
(theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài giữa các chủ thể của tư pháp quốc tế. Bên
cạnh đó, với tính chất là văn kiện pháp lý quốc tế, tổng hợp những tinh hoa của kỹ
thuật lập pháp cũng như các tư tưởng tiến bộ, các điều ước quốc tế thực sự đã góp
phần bổ sung đáng kể cho pháp luật quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triền nhằm hoàn thiện hệ thống nội luật với những quy phạm pháp luật tiên tiến,
phù hợp với xu hướng của thời đại hội nhập, đồng thời cũng làm loại trừ những
quy phạm, chế định pháp luật thiếu tiến bộ, không còn phù hợp với tình hình phát
triển của thế giới hiện nay.
Thực tiễn còn cho thấy rằng, điều ước quốc tế không những thúc đẩy sự phát
triển và hoàn thiện pháp luật quốc gia mà còn tạo điều kiện đảm bảo cho pháp luật
quốc gia trong quá trình thực hiện. Do sự phát triển mạnh mẽ của giao lưu quốc tế,
của quá trình hội nhập quốc tế, nhiều quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) vượt ra
khỏi phạm vi quốc gia do có yếu tố nước ngoài. Ví dụ như bản án ly hôn có hiệu
lực pháp luật của Toà Án nước này nhưng đối tượng là tài sản được chia lại ở một
quốc gia khác, từ đó cần có sự công nhận và cho thi hành bản án của toá án nước
ngoài thông qua sự điều chỉnh của các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa các nước.
2.2.

Pháp luật quốc gia với vai trò là phương tiện đảm bảo việc
thực thi điều ước quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia


Một trong những công cụ hữu hiệu nhằm đảm bảo việc thực thi các điều ước
quốc tế trong phạm vi lãnh thổ mỗi quốc gia chính là hệ thống pháp luật của quốc
gia đó. Để các điều ước quốc tế thực sự được thi hành một cách đầy đủ và toàn
diện thì các điều ước phải thông qua phương tiện chuyển hoá là pháp luật quốc gia
để được phổ biến rộng rãi và đảm bảo việc bắt buộc thực hiện trong toàn bộ lãnh
thổ quốc gia.
Mặc dù có quy định khác nhau về cách thức thực hiện pháp luật quốc tế
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia nhưng nhìn chung các quốc gia đều thừa nhận hiệu
lực ưu tiên thi hành của điều ước quốc tế so với luật trong nước. Điều này hoàn
3


toàn phù hợp với một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế nói
chung và của luật điều ước quốc tế nói riêng, đó là nguyên tắc Pacta sunt servanda,
theo đó các quốc gia có nghĩa vụ phải tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết
quốc tế. Quốc gia không được phép viện dẫn quy định của pháp luật trong nước
làm lý do để không thi hành cam kết quốc tế.
3. Mối quan hệ giữa tập quán quốc tế và pháp luật quốc gia
Hầu hết các quốc gia, cả những quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ và
quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đều thừa nhận tập quán quốc tế là
một bộ phận của pháp luật quốc gia và có hiệu lực thi hành trực tiếp trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia. Các tập quán quốc tế đều được Toà án quốc gia áp dụng mà
không cần phải thông qua chuyển hoá. Tuy nhiên, các quốc gia lại có quy định
khác nhau về vị trí của tập quán quốc tế so với tập quán trong nước. Một số quốc
gia chỉ áp dụng tập quán quốc tế nếu nó không mâu thuẫn với pháp luật quốc gia
(Ví dụ như ở Anh, Pháp,…). Nhưng một số quốc gia khác lại thừa nhận hiệu lực ưu
tiên thi hành của tập quán quốc tế ngay cả khi nó mâu thuẫn với đạo luật do cơ
quan lập pháp ban hành hoặc án lệ của Toà Án (Ví dụ như Hoa Kỳ).
III.


Thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa các loại nguồn của tư pháp quốc tế
ở Việt Nam hiện nay

Trên thực tiễn pháp luật Việt Nam cho thấy vấn đề về vị trí ưu tiên của điều
ước quốc tế đối với pháp luật quốc gia đã được quy định thống nhất và rõ ràng
trong các văn bản pháp luật Việt Nam. Cụ thể luật ký kết , gia nhập và thực hiện
điều ước quốc tế 2005 quy định tại khoản 1 điều 6 như sau: “Trong trường hợp văn
bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy
định của điều ước quốc tế”.
Và trong nhiều văn bản pháp luật chuyên nghành khác của nước ta như luật
hôn nhân và gia đình, luật đầu tư, luật lao động,… đểu có quy định mang tính
khuôn mẫu về việc trong trường hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên có quy định khác thì sẽ áp dụng quy định đó. Tuy nhiên, điều cần đáng lưu ý
là việc quy định như vậy đã đảm bảo tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc
4


tế nhưng có những trường hợp chưa đảm bảo được các đường lối, chính sách của
đảng và nhà nước, cũng như đảm bảo lợi ích của công dân Việt Nam, của quốc gia
một cách tối đa trong giai đoạn hiện nay.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia khá
phức tạp, Không có một khuôn mẫu nào cho việc áp dụng điều ước quốc tế trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia. Mỗi quốc gia, căn cứ vào lợi ích và điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của quốcgia mình mà có các quy định cần thiết về điều ước quốc tế
trong mối quan hệ với pháp luật quốc gia. Một số quốc gia quy định hiệu lực thi
hành trực tiếp của điều ước quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia; có quốc gia
lại đòi hỏi phải chuyển hoá điều ước quốc tế bằng một đạo luật do cơ quan lập
pháp ban hành hoặc quyết định của toà án; một số quốc gia khác lại kết hợp cả hai
cách thức, tức là một số điều ước quốc tế quốc gia quy định có hiệu lực thi hành

trực tiếp còn một số khác lại phải thông qua bước chuyển hoá trước khi được áp
dụng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Pháp luật Việt Nam quy định hai phương thức đảm bảo thực thi các điều ước
quốc tế tại Việt Nam (theo khoản 3 điều 6 luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005). Đó là phương thức thừa nhận hiệu lực trực tiếp, áp dụng
trực tiếp một phần hoặc toàn bộ điều ước quốc tế và phương thức chuyển hoá bằng
cách ban hành các văn bản pháp luật, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hay ban hành một
văn bản pháp luật mới hướng dẫn thi hành. Nhìn vào thực tế, Việt Nam công nhận
hiệu lực thi hành trực tiếp cho rất nhiều điều ước quốc tế mà không thông qua quá
trình chuyển hoá, đặc biệt là các điều ước quốc tế là đòn bẩy cho sự phát triển kinh
tế và các điều ước là bước đệm cho sự hội nhập nhanh và mạnh như các hiệp định
về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các hiệp định thương mại song phương,… Ví
dụ:cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Ngày 29 tháng 11 năm 2006, quốc
hội đã ban hành nghị quyết số 71/2006/QH11 phê chuẩn nghị định thư gia nhập
Hiệp định thành lập tổ chức thương mại thế giới của Nước CHXHCN VN và chỉ
dẫn cho các doanh nghiệp phần nội dung trong cam kết WTO sẽ được áp dụng trực
tiếp.
Còn các điều ước Việt Nam thực hiện thông qua quá trình chuyển hoá
thường là các điều ước mang tính xã hội, các điều ước đa phương về các vấn đề
toàn thế giới quan tâm hoặc điều ước về khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ như
hiệp định TRIPS, thoả ước MADRIT, công ước Lahay về nuôi con nuôi,… Những
5


điều ước này cần thiết có sự chuyển hoá để đảm bảo dễ dàng thực hiện và phù hợp
với tình hình kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, sau khi ký kết hàng
loạt các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ song phương và đa phương, Việt Nam
đã ban hành các văn bản sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật trong nước như Bộ
luật dân sự 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005, Luật cạnh tranh 2004,…và các văn bản
dưới luật để hướng dẫn thi hành.

IV.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các vấn đề tồn tại trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
- Thứ nhất,pháp luật Việt Nam cần thể hiện rõ quan điểm về mối quan hệ
giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Cụ thể là pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập nhưng luôn có mối quan hệ qua
lại mật thiết với nhau, trong đó điều ước quốc tế phải được quy định cụ thể
có giá trị pháp lý như thế nào, cao hơn hay thấp hơn so với pháp luật trong
nước và đặc biệt là so với Hiến pháp.
- Thứ hai, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ về tiêu chuẩn xác định loại
điều ước quốc tế nào có thẻ áp dụng trực tiếp, loại điều ước quốc tế nào có
thể áp dụng trực tiếp, loại điều ước quốc tế nào buộc phải chuyển hoá.
- Thứ ba, pháp luật Việt Nam cần tạo ra cơ chế thực thi điều ước quốc tế một
cách đồng bộ và hiệu quả hơn, tránh tình trạng điều ước được thi hành ở
mỗi nơi một khác.

Hết.

6



×