Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự 1 đề 6 8điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.88 KB, 12 trang )

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
TNHS: Trách nhiệm hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................2
BÀI TẬP HỌC KỲ.....................................................................................................................2
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG....................................................................................................3
1. Theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS trường hợp phạm tội của C thuộc loại
tội rất nghiêm trọng.................................................................................................................3
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP hình thức............................................5
3. C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có vẫn bị truy cứu TNHS
về tội cướp tài sản. Giai đoạn thực hiện tội phạm trong tình huống này là tội phạm hoàn
thành........................................................................................................................................7
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình...........................8
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C vẫn phải chịu TNHS về
hành vi của mình.....................................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................11

BÀI TẬP HỌC KỲ
Bài 6
C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của K, tài sản chiếm đoạt có giá
trị 30 triệu đồng. Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133
BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù.
2



Hỏi:
1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS? (1 điểm)
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức? Tại sao? (1 điểm)
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị
truy cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm? (2 điểm)
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao? (1,5 điểm)
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
TNHS về hành vi của mình không? Tại sao? (1,5 điểm)

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG

1. Theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS trường hợp phạm
tội của C thuộc loại tội rất nghiêm trọng
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và
phải chịu hình phạt. Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như vậy nhưng mỗi hành
3


vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau.
Chính do sự khác nhau như vậy mà vấn đề cá thể phân hó và cá thể hóa hình phạt
đã được đặt ra và được coi là nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam. Thể hiện
nguyên tắc này, luật hình sự Việt Nam phân tội phạm thành bốn nhóm tội phạm
khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo khoản 3 Điều 8 BLHS, các nhóm tội phạm được định nghĩa như sau:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm

trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên
mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Như vậy, khoản 3 Điều 8 BLHS phân loại tội phạm trên cơ sở mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy.
Một cách phân loại sai lầm mà nhiều người còn nhầm lẫn đó chính là dựa
vào mức hình phạt mà tòa án đã tuyên. Đây là một nhận thức sai lầm căn bản bởi
vì căn cứ để tòa án quyết định hình phạt gồm: Các quy định của BLHS; Tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội;
Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS. Đây là một nhận thức sai lầm về căn bản, căn
cứ để phân loại tội phạm chỉ có thể dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy.
Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS: “Người
nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội này là đến mười năm tù.
4


Như vậy, theo phân loại tội phạm tại khoản 3 Điều 8 BLHS: “...tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù...”, trường hợp phạm tội
của C thuộc loại tội rất nghiêm trọng.

2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP hình thức
Cấu thành tội phạm ( CTTP) là tổng thể những dấu hiệu chung có tính chất

đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Các CTTP
của tất cả các loại tội phạm cụ thể tuy đều là hình thức phản ánh trong luật hình sự
nội dung của bốn yếu tố cấu thành tội phạm nhưn được xây dựng với những đặc
điểm cấu trúc khác nhau. Có CTTP chỉ ghi nhận hành vi nguy hiểm cho xã hội là
dấu hiệu phản ánh mặt khách quan của tội phạm nhưng cũng có CTTP ghi nhận cả
hậu quả nguy hiểm cho xã hội; có CTTP hoàn toàn không có dấu hiệu phản ánh
nội dung của khách thể cũng có CTTP có cả những dấu hiệu phản ánh toàn bộ
hoặc một bộ phận của khách thể. Căn cứ vào những đặc điểm cấu trúc khác nhau
như vậy, có thể phân chia CTTP về mặt khoa học thành những loại CTTP với
những tên gọi khác nhau.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể
chia CTTP thành CTTP vật chất và CTTP hình thức:
- CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu thuôc mặt khách quan là hành vi,
hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Trong đó, dấu hiệu hậu
quả là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP.
- CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Trong đó dấu hiệu hậu quả không bắt buộc trong CTTP.
Trong các CTTP hình thức có dạng đặc biệt mà hiện nay gọi là CTTP cắt
xén. Trong các CTTP cắt xén, dấu hiệu hành vi không phải là sự phản ánh chính
hành vi phạm tội (của loại tội phạm được CTTP cắt xén phản ánh) mà là hành vi

5


“hoạt động” nhằm thực hiện hành vi đó – hành vi phạm tội của loại tội phạm được
CTTP cắt xén phản ánh.
Khoản 1 Điều 133 BLHS là CTTP cơ bản của tội này quy định: “ 1. Người
nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho
người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt
tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”

Ta nhận thấy: CTTP cơ bản Điều 133 BLHS chỉ mô tả một dâu hiệu của mặt
khách quan đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội gồm 3 hành vi: dùng vũ lực (1);
đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc(2); có hành vi khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được (3) mà không mô tả dấu hiệu hậu quả.
Chỉ riêng 3 hành vi này đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm, khi
xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe tính mạng của người bị
tấn công, xâm phạm quan hệ nhân thân được luật hình sự bảo vệ. Cho nên, khẳng
định rằng CTTP của tội cướp tài sản ( Điều 133 BLHS) là CTTP hình thức.
Có quan điểm cho rằng do có dấu hiệu thứ (3) nên tội cướp tài sản vừa có
CTTP hình thức, vừa có CTTP vật chất. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi
thuộc dấu hiệu thứ (1) và thứ (2) thì tội phạm có CTTP hình thức. Còn nếu người
phạm tội thực hiện hành vi thuộc dấu hiệu thứ (3) thì tội phạm có CTTP vật chất
và như vậy tội cướp có giai đoạn phạm tội chưa đạt. Những người theo quan điểm
này giải thích đó là trong trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi
thuộc mặt khách quan của cấu thành nhưng vì lý do khách quan nên tội phạm vẫn
không xảy ra theo ý muốn của họ. Quan điểm này không chính xác bởi lẽ nếu coi
tội cướp tài sản có CTTP vật chất, chỉ đến khi có hậu quả xảy ra thì người thực
hiện tội phạm mới bị truy cứu TNHS thì dẫn đến tình trạng gia tăng tội phạm cướp
tài sản và bỏ lọt tội phạm, dẫn đến nhũng hệ lụy hết sức khó lường trong công tác
phòng tránh tội phạm.

6


3. C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có vẫn
bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản. Giai đoạn thực hiện tội phạm trong tình
huống này là tội phạm hoàn thành
Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở để xác định
phạm vi TNHS của người phạm tội, luật hình sự Việt Nam phân biệt ba mức độ
thực hiện tội phạm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành

(Điều 17, Điều 18 BLHS). Theo luật hình sự Việt Nam, vấn đề các giai đoạn thực
hiện tội phạm chỉ đặt ra với tội cố ý trực tiếp. Đối với tội cố ý gián tiếp hay vô ý
chỉ có thể có trường hợp có tội và không có tội.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các
dấu hiệu mô tả trong CTTP. Đối với tội phạm có CTTP hình thức, tội phạm hoàn
thành ngay sau khi người phạm tội thực hiện được hành vi phạm tội được mô tả
trong cấu thành tội phạm.
Tội cướp tài sản ( Điều 133 BLHS) có CTTP là hình thức, trong đó chỉ mô
tả một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi: “dùng vũ lực; đe doạ dùng vũ lực
ngay tức khắc; có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được” và dấu hiệu mục đích: “nhằm chiếm đoạt tài sản..
Người phạm tội chỉ cần thực hiện một trong các hành vi “dùng vũ lực; đe doạ
dùng vũ lực ngay tức khắc; có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được” nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì tội
cướp tài sản ở giai đoạn hoàn thành. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP cơ bản của tội cướp tài sản, cho nên không cần đến lúc có hậu quả xảy
ra thì người thực hiện các hành vi trên đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
cướp tài sản.
Cho nên, trong trường hợp C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt
được tài sản tức là C đã tác động vào cơ thể của nạn nhân như: đấm, đá, bóp cổ,
đâm, chém.. hành vi dùng vũ lực có thể làm cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại
đến sức khỏe, tính mạng thì với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác đã thể
hiện được tính nguy hiểm của tội cướp tài sản. C không chiếm đoạt được tài sản
7


tức là hậu quả do hành vi của C chưa xảy ra trên thực tế, nhưng hành vi “dùng vũ
lực” mà C thực hiện đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi được mô tả trong CTTP tội
cướp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS nên C bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và giai đoạn phạm tội của C là phạm tội hoàn thành.

4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình
Điều 12 BLHS. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“ 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.”
Việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 1999 một mặt
thể hiện chính sách của nhà nước đối với người chưa thành niên có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, mặt khác để khẳng định trong trường hợp bình thường, người đạt
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người có đủ điều kiện để có thể có lỗi khi thực
hiên hành vi nguy hiểm cho xã hội. BLHS của Nhà nước ta đã xác định tuổi chịu
TNHS đấy đủ là từ đỉ 16 tuổi trở lên và tuổi chịu TNHS hạn chế là từ đủ 14 (chưa
đủ 16). Cụ thể:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm – tội cố
ý cũng như tội vô ý; tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng cũng như tội ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, người chưa đủ 18 tuổi được hưởng
chính sách giảm nhẹ theo quy định của Chương X BLHS năm 1999.
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên (nhưng chưa đủ 16 tuổi) chỉ phải chịu TNHS về
tội đặc biệt nghiêm trọng (tội cố ý hoặc vô ý) và về tội (cố ý) rất nghiêm trọng.
Như vậy ở độ tuổi này, họ không phải chịu TNHS về tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng cũng như tội (vô ý) rất nghiêm trọng.
Nếu C mới tròn 14 tuổi – nghĩa là C đủ 14 tuổi, căn cứ vào điều 12 BLHS, C
chỉ phải chịu TNHS về tội đặc biệt nghiêm trọng (tội cố ý hoặc vô ý) và về tội (cố
8


ý) rất nghiêm trọng, C không phải chịu TNHS về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng cũng như tội (vô ý) rất nghiêm trọng. Để biết C có phải chịu TNHS về hành
vi của mình hay không ta cần xét đến hành vi của C thỏa mãn CTTP thuộc loại tội

phạm nào theo phân loại tội phạm và C có lỗi trong tình huống này hay không và
nếu có thì lỗi của C là lỗi gì?
Trong tình huống này, ta thấy rằng:
Thứ nhất, hành vi của C đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi khách quan được mô
tả trong CTTP của tội cướp tài sản Khoản1 Điều 133. Như đã phân loại tội phạm
đối với khoản 1 Điều 133, đây là tội rất nghiêm trọng.
Thứ hai, về vấn đề C có lỗi trong tình huống này hay không:
- Về lý trí: tuy chưa hoàn thiện về thể chất và tâm lý nhưng C hoàn toàn có
thể nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và thấy
trước hậu quả của hành vi đó. C có khả năng hiểu biết nhất định để có những xử sự
phù hợp với pháp luật, hành vi cướp tài sản mà C đã thực hiện là sự lựa chọn của
C, trong khi C có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện
xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội (C muốn có tiền thì C làm thuê, buôn
bán, xin gia đình..).
- Về ý chí: C mong muốn hành vi cướp tài sản của mình được thực hiện
thành công nên.
Vậy khẳng định C có lỗi và lỗi của C là lỗi cố ý trực tiếp.
Căn cứ theo Điều 12 BLHS ta đi đến kết luận: C đủ 14 tuổi, thực hiện hành
vi cướp tài sản – loại tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý trực tiếp nên C phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C vẫn phải
chịu TNHS về hành vi của mình
Điều 17 BLHS quy định về chuẩn bị phạm tội: “ Chuẩn bị phạm tội là tìm
kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực

9


hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc
biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện”.

Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của hoạt động phạm tội, đây là giai
đoạn sớm nhất của quá trình phạm tội, mà những hành vi này mặ dù chưa xâm hại
trực tiếp đến khách thể của tội phạm nhưng nó đã thực sự nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi chuẩn bị phạm tội thể hiện ở một số dạng như: chuẩn bị công cụ, phương
tiện phạm tội; thăm dò địa điểm phạm tội; thăm dò làm quen với nạn nhân hoặc
người bị hại.
Vấn đề TNHS chỉ được đặt ra đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội bị dừng
lại bởi những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội. Nghĩa là
trong trường hợp này, việc người phạm tội dừng lại không thực hiện tội phạm nữa
là do những trở ngại khách quan (như: Chuẩn bị giết người thì bị người khác, nạn
nhân phát hiện hoặc công an bắt giữ, chuẩn bị trộm cắp tài sản nhưng khi đến địa
điểm thì tài sản đã được chuyển đi nơi khác…) còn bản thân người phạm tội vẫn có
xu hướng ý chí mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng. Đây là điểm khác biệt
với tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
Người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội định phạm là
tội rất nghiêm trọng hoặc là tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản, căn cứ vào Khoản
3 Điều 8 BLHS, ta phân loại tội phạm đối với tội cướp tài sản Điều 133 như sau:
- Khoản 1 Điều 133 mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ở khoản
này là “bị phạt tù...đến mười năm” nên đây là tội rất nghiêm trọng
- Khoản 2 Điều 133 mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ở khoản
này là “bị phạt tù...đến mười lăm năm” nên đây là tội rất nghiêm trọng
- Khoản 3 Điều 133 mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ở khoản
này là “bị phạt tù...đến hai mươi năm” nên đây là tội đặc biệt nghiêm trọng
- Khoản 1 Điều 133 mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ở khoản
này là “bị phạt tù...đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình” nên đây là tội
đặc biệt nghiêm trọng.
10



Theo quy định tại điểm a Mục 1 Nghị quyết 01/2000/NQ – HĐTP về hướng
dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS 1999 thì chỉ người
chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý mới
chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện. C chuẩn bị phạm tội cướp tài sản,
theo phân tích ở câu 4 lỗi của C là lỗi cố ý trực tiếp.
Bên cạnh đó, C đang chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ, tội phạm
không thể tiếp tục thực hiện vì lý do khách quan chứ không phải C tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội của mình theo quy định tại Điều 19 BLHS.
Như vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, tội cướp tài sản quy định tại
Điều 133 thuộc loại tội rất nghiêm trọng (Khoản 1,2), thuộc loại tội đặc biệt
nghiêm trọng (Khoản 3,4), lỗi của C là lỗi cố ý trực tiếp.
Khẳng định: căn cứ vào Điều 17 BLHS quy định về chuẩn bị phạm tội, C
mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C vẫn phải chịu TNHS về
hành vi của mình.
Ở đây cần chú ý: Nếu hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản của C đã cấu
thành tội phạm độc lập khác thì C phải chịu TNHS về tội độc lập đó. Ví dụ vì có ý
định chiếm đoạt tài sản của K nên C đã chuẩn bị súng quân dụng để tiến hành
khống chế, đe dọa K nhằm chiếm đoạt tài là 30 triệu đồng, nhưng sau khi có súng
chưa kịp thực hiện việc cướp tài sản thì đã bị bắt giữ. Trong trường hợp này, hành
vi tìm kiếm và tàng trữ vũ khí là hành vi chuẩn bị phạm tội của tội cướp tài sản
nhưng bản thân hành vi này đã cấu thành tội độc lập khác là tội tàng trữ trái phép
vũ khí quân dụng ( Điều 230 – BLHS). Khi đó C không chỉ phải chịu TNHS về tội
cướp tài sản ở giai đoạn chuẩn bị mà còn phải chịu TNHS về tội tàng trữ trái phép
vũ khí quân dụng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự năm 1999, đã sửa đổi bổ sung năm 2009.

11



2. Nghị quyết 01/2000/NQ – HĐTP về hướng dẫn áp dụng một số quy định
trong phần chung của BLHS 1999.
3. Bộ Tư pháp, Viện ngiên cứu khoa học pháp lý, TS. Uông Trung Lưu (chủ
biên) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, tập I, Phần Chung,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001
4. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập I,
NXB.CAND.2010
5. TS. Nguyễn Đức Mai, GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh, TS. Trần Văn Luyện,
TS. Trần Quang Tiệp, Th.s Nguyễn Mai Bộ, Th.s Nguyễn Văn Huấn, Bình luận
khoa học bộ luật hình sự, NXB. Chính trị quốc gia. 2010.
6. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học bộ luật hình sự phần các tội phạm tập II. Nxb. TPHCM. 3/2003.
7. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm. Nxb. CAND.
2010

12



×