Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tìm hiểu về vấn đề cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.5 KB, 10 trang )

Mục Lục
Trang
A.
Lời nói đầu……………………………………………………………………..2
B.
Nội Dung……………………………………………………………………….2
I.
Khái quát chung về hoạt cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại tòa
cấp sơ thẩm, phúc thẩm………………………………………………………………..2
1.
Khái niệm hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ…..2
2.
Bản chất hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự……………………………………………………………………………..3
3.
Ý nghĩa của hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ….4
II.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứ
và đánh giá chứng cứ tại tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm………………………………….5
1.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động cung cấp chứng cứ………5
2.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động thu thập chứng cứ……….5
3.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động nghiên cứu chứng cứ…….7
4.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động đánh giá chứng cứ……….7
III. Thực trạng áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề hoạt động cung
cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ………………………………………..8
1. Thực trạng hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm………………………………………………………………….8


2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm…………………………………..9
C.
Kết Luận………………………………………………………………………….9
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo……………………………………………………….10
Từ Viết Tắt
TTDS: Tố tụng dân sự
VKS: Viện kiểm sát

A. Lời Mở Đầu

1


Trong tố tụng dân sự, để giải quyết một vụ việc dân sự thì tòa án cần xác định được
những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc. Để xác định được những tình tiết, sự kiện
ấy thì tòa án cần phải nghe lời trình bày của đương sự, người làm chứng hoặc những
người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến sự kiện và xem xét các tài liệu đồ vặt có tin tức,
dấu vết sự kiện. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều khi những tình tiết, dấu vết hay tin tức liên
quan đến vụ việc bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau. Để đảm bảo việc giải quyết các
vụ việc dân sự được đúng đắn thì các hoạt động này cần được hiểu rõ và hướng dẫn cụ
thể. Do vậy, dưới đây là những tìm hiểu về vấn đề cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh
giá chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
vấn đề này.
B. Nội Dung
I. Khái quát chung về hoạt cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại tòa
cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
1. Khái niệm hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
Theo quy định tại điều 81 BLTTDS quy định khái niệm chứng cứ như sau: “Chứng cứ
trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác

giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự
là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
Chứng cứ có thể là những tin tức, dấu vết liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự được tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Song, để mọi người
có thể nhận thức được, tòa án có thể làm căn cứ thì chúng cần có những hoạt động thu
thập, cung cấp, nghiên cứu và đánh giá nhất định. Bởi, những tình tiết, sự kiện có liên
quan đến vụ việc thường xảy ra trước khi có đơn yêu cầu gửi lên tòa và không bởi vì
chúng xảy ra trước mà chúng ta không thể tiếp cận được với sự thật của vụ việc mà ngược
lại.
Thứ nhất, cung cấp có nghĩa giao nộp hay đưa cho ai đó cái gì mà họ cần. Do vậy, khái
niệm cung cấp chứng cứ là sự giao nộp những gì có thật của đương sự kèm theo yêu cầu
của họ hay sự giao nộp những tình gì có thật để phản đối yêu cầu của đương sự phía bên
kia cho Tòa án, giúp cho Tòa án có căn cứ để giải quyết vụ, việc dân sự.
Thứ hai, theo đại từ điển tiếng việc thì “thu thập” được hiểu là hoạt động “nhặt nhạnh, thu
góp lại”. kết hợp hai định nghĩa “thu thập” và “chứng cứ” đã nêu trên thì ta có thể hiểu
khái niệm thu thập chứng cứ trong TTDS là: nhặt nhạnh, thu góp các tình tiết, sự kiện, sự
việc có liên quan tới một vụ, việc dân sự đang được xem xét, giải quyết, nhằm khôi phục
bẳn chất vốn có, khôi phục lại sự thật khách quan của vụ việc đó. Từ đó ta có thể hiểu
rằng: hoạt động thu thập chứng cứ được hiểu là: hoạt động tố tụng dân sự của các chủ thể

2


chứng minh trong việc phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ bằng các
phương pháp, biện pháp theo một trình tự thủ tục do pháp luật TTDS quy định.
Thứ ba, Trong đại từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “ nghiên cứu” được giải thích là “xem xét,
làm cho nắm vững vấn đề nhận thức, tìm ra cách giải quyết”. Trong TTDS nghiên cứu
chứng cứ được đặt ra khi có các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập nhằm giải quyết các

vụ việc dân sự và như vậy nghiên cứu chứng cứ là việc xem xét, phân tích, so sánh chứng
cứ, đối chiếu các chứng cứ đã thu thập với các chứng cứ khác nhằm làm rõ khả năng
chứng minh của chứng cứ. Từ đó ta có thể hiểu rằng hoạt động nghiên cứu chứng cứ trong
TTDS là việc chủ thể chứng minh độc lập, xem xét, tìm hiểu chứng cứ trong hồ sơ vụ,
việc dân sự cũng nhưng kiểm tra, xem xét chứng cứ tại phiên tào để xác định mức độ phản
ánh chính xác của những chứng cứ về những tình tiết, sự việc liên quan đến vụ, việc dân
sự đó.
Thứ tư, thuật ngữ “đánh giá” trong Đại từ điển Tiếng Việt được giải thích là “nhận xét,
bình phẩm về giá trị”. Hoạt động đánh giá chứng cứ là hoạt đông tư duy logic của các chủ
thể chứng minh đặc biệt là Tòa án, được tiến hành trên cơ sở những hiểu biết về những
tình tiế, sự kiện đã thu thập được, dựa trên các cơ sở quy định của pháp luật để xác định
mức độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ.
Nhìn chung, chứng cứ là yếu tố xương sống của pháp luật tố tụng để giải quyết các vụ,
việc dân sự. Do đó việc định nghĩa các thuật ngữ trên đây và khái niệm những hoạt động
có liên quan giúp chúng ta hiểu một các đầy đủ hơn về chúng. Tạo cơ sở nhận thức cho
việc tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng trong thực tế.
2. Bản chất hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong tố
tụng dân sự.
Về bản chất hoạt động chứng minh trong TTDS chính là sự kết hợp của các hoạt động
cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Nghĩa là hoạt động chứng minh thực
chất là hoạt động sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động nói trên. Cụ thể.
- Hoạt động cung cấp chứng cứ. Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng
cứ là biện pháp thu thập chứng cứ bảo đảm cho Tòa án có đủ chứng cứ giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự. Do vậy ta có thể hiểu rằng, bản chất của hoạt động cung cấp chứng cứ
chính là trách nhiệm cung cấp chứng cứ của đương sự chứng minh cho yêu cầu hoặc phản
đối yêu cầu đồi với vụ, việc dân sự liên quan.
Trước tiên chúng ta phải khẳng định, nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc về trách
nhiệm của tất cả các chủ thể chứng minh mà trọng tâm là chủ thể đưa ra yêu cầu. Tòa án
chỉ thu thập chứng cứ trong những trường hợp do luật định. Quá trình thu thập chứng cứ
phải nhanh chóng, kịp thời và có trọng tâm. Khi thu thập chứng cứ cần bám sát vào đối

tượng chứng minh, phạm vi chứng minh trong vụ, việc dân sự. Như vậy, hiểu một cách
đơn giản nhất thì bản chất của hoạt động thu thập chứng cứ là tìm ra những tình tiết, sự

3


kiện có liên quan đến vụ, việc dân sự đang cần được giải quyết để nhằm tìn ra sự thật
khách quan, tạo cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự.
- Hoạt động nghiên cứu chứng cứ là hoạt động nhận thức được tất cả các chủ thể chứng
minh tiến hành trên cơ sở đọc, xem xét, tìm hiểu chứng cứ một cách cụ thể, toàn diện
trong hồ sơ vụ, việc dân sự cũng như tại phiên tòa để khẳng định hay phủ định các tình
tiết, sự kiện được xác định là chứng cứ của vụ, việc dân sự. Hoạt động nghiên cứu chứng
cứ được thực hiện trong suốt quá trình chứng minh. Vì thế, bản chất của hoạt động nghiên
cứu chứng cứ là kiểm tra các chứng cứ đã được thu thập từ giai đoạn trước.
- Đánh giá chứng cứ là một tư duy logic tương đối phức tạp dựa trên cơ sở quy định của
pháp luật. Nhưng ta có thể hiểu một cách đơn giản về bản chất của hoạt động đánh giá
chứng cứ là sự tổng hợp đánh giá các chứng cứ và đưa ra kết luận, khép lại hoạt động
chứng minh trong TTDS.
3. Ý nghĩa của hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán quyết
giải quyết hoặc chấm dứt tranh chấp. Trong đó, hoạt động chứng minh là hoạt động cơ
bản, trước tiên và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Quá
trình chứng minh gồm nhiều những giai đoạn khác nhau và cung cấp, thu thập, nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ là những quá trình mang tính tổng thể, gắn bó chặt chẽ với nhau,
chúng bổ sung và không tách rời nhau. Phải có hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ
mới phát sinh hoạt động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ và kết quả của hoạt động
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức từ vụ án dân sự. Do đó các
hoạt động trên có những ý nghĩa như sau:
- Hoạt động cung cấp chứng cứ có ý nghĩa là cơ sở khẳng định hoặc phủ định những
giả thiết đã nêu trong quá trình chứng minh.

- Hoạt động thu thập chứng cứ sẽ đảm bảo tính chính xác cao, có độ tin cậy tuyệt đối, là
căn cứ cho việ đưa ra kết luận đối với từng vấn đề cụ thể của đối tượng chứng minh hoặc
toàn bộ vụ án. Mặt khác, hoạt động này sẽ là biện pháp đảm bảo cho các hoạt động tố tụng
khác của quá trình giải quyết vụ, việc dân sự, nhất là hoạt động xét xử tại phiên tòa.
- Trong khi đó, ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu chứng cứ là giúp tòa án giải quiets
nhanh chóng vụ, việc dân sự và xác định được phương pháp giải quyết vụ, việc dân sự, có
cơ sở để xem xét ra các quyết định khác nhau. Tóm lại nghiên cứu chứng cứ là điểm tựa
cơ bản cho việc giải quyết các vụ việc dân sự.
- Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của hoạt động chứng minh. Hoạt động đánh
giá chứng cứ không chỉ có tính chất quyết định tới kết quả giải quyết vụ, việc dân sự mà
thong qua đánh giá chứng cứ, tòa án có thể xác định đối tượng chứng minh và sắp xếp dữ
liệu theo một trinh từ nhất định, trên cơ sở của những vấn đề được làm rõ

4


II. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứ
và đánh giá chứng cứ tại tòa cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động cung cấp chứng cứ.
Điều 6 BLTTDS năm 2004 có khẳng định rõ về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cảu
đương sự trong TTDS cụ thể “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ hợp pháp…Tòa án chỉ tiến
hành thu thập chứng cứ trong những trường hợp do luật này quy đinh”. Trong tố tụng dân
sự có sự quy định trên bởi lẽ đương sự là người có quyền lợi ích hợp pháp cần được bảo
vệ, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự đối với việc khởi kiện. Nghĩa là để bảo
vệ quyền và lợi ích của chính mình thì đương sự cần có nghĩa vụ cung cấp những chứng
cứ có lợi cho mình nhưng không vì thế mà dấu đi chứng cứ bất lợi. Khi các bên đưa tranh
chấp của họ ra tòa, thì tòa án là trong tài giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách
khách quan và đúng pháp luật. Tòa án không thể làm thay, chứng minh cho đương sự với
những yêu cầu của họ.

Trong trường hợp đương sự cố tình không cung cấp chứng cứ, không chấp hành đúng theo
yêu cầu của tòa án mà BLTTDS quy định thì đương sự đó phải xử lý như thế nào khi trong
BLTTDS chưa có quy định cụ thể về chế tài áp dụng.
Nếu Tòa chỉ căn cứ các chứng cứ do một bên cung cấp và các tài liệu đã thu thập được để
xét xử trong một vụ án cụ thể là không khả thi. Cho nên việc quy định đương sự phải chịu
hậu quả về việc chứng minh của mình vừa đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự vừa
nâng cao trách nhiệm cho đương sự.
2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động thu thập chứng cứ.
Thứ nhất, về chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ. Căn cứ điều 85 BLTTDS quy
định “1. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở
để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì
Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:….
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm”.
Ta nhận thấy rằng trong tố tụng dân sự đương sự có nghĩa vụ chứng minh chủ yếu nên
đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tiến
hành thu thập chứng cứ để cung cấp cho tòa án. Quyền và nghĩa vụ TTDS của đương sự
được quy định cụ thể tại Điều 5, 58, 59, 60, 61 BLTTDS. Theo đó, tòa án chỉ thu thập
chứng cứ trong những trường hợp được quy định ở Khoản 2 Điều 85 là khi đương sự
không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu. Bên canh đó, Viện kiểm sát
cũng có thẩm quyền thu thập chứng cứ và thẩm quyền này được ghi nhận là trong trường

5


hợp cần thiết. Tuy nhiên, các biện pháp thu thập chứng cứ mà VKS sử dụng được giới hạn
trong phạm vi yêu cầu của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ để đảm
bảo cho việc thực hiện quyền kháng nghị. Xem xét về chủ thể của hoạt động thu thập

chứng cứ ta nhận thấy rằng chủ thể thu thập chứng cứ ít bị hạn chế nhưng trọng tâm của
hoạt động này vẫn là đương sự. Bởi đương sự là người trực tiếp sẽ phải chứng minh cho
yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của người khác trong quá trình giải quyết vụ, việc
có liên quan.
Thứ hai, về nội dung của hoạt đông thu thập chứng cứ. Để thu thập chứng cứ được đầy đủ
và thể hiện rõ nét nhất những tình tiết liên quan đến vụ, việc dân sự thì chủ thể có trách
nhiệm thu thập chứng cứ cần có những phương pháp thu thập chứng cứ nhất định. Ví dụ
như các phương pháp thu thập chứng cứ của tòa án bao gồm: lấy lời khai của đương sự;
xem xét thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám định; định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; ủy
thác thác thu thập chứng cứ và yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, cung cấp chứng cứ.
- Đương sự là người tham gia vào sự việc nên biết được nhiều vấn đề liên quan đến vụ
việc dân sự. Tòa án muốn làm sáng tỏ được vụ kiện phải tiến hành lấy lời khai. Dù cho các
bên đương sự đã thừa nhận một trong các yêu cầu của phía đương sự bên kia thì Tòa án
cũng phải kiểm tra lại và làm rõ hơn. Việc lấy lời khai của đương sự được quy định ở điều
86 BLTTDS. Khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, thì
Thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết bản khai hoặc bản khai bổ sung và kí tên mình.
Chỉ trong trường hợp đương sự không tự viết được thì Thẩm phán tự mình hoặc thư kí tòa
án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản.
- Xem xét thẩm định tại chỗ được hiểu là việc Tòa án đến tận nơi có tài sản, vật chứng
hoặc nơi xảy ra sự việc để nghiên cứu, xác minh nắm vững sự việc. Vì vậy, điều kiện để
xem xét thẩm định tại chỗ có thể căn cứ theo yêu cầu của đương sự và theo đúng trình tự
thủ tục quy định tại điều 89 BLTTDS.
- Trưng cầu giám định. Kết luận giám định được Tòa án sử dụng như một công cụ
nhằm làm sáng tỏ tình tiết vụ án. Căn cứ vào điều 90 BLTTDS thì Tòa án chỉ tiến hành
chưng cầu giám định theo sự thỏa thuận lựa chon của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu
của một hoặc các bên đương sự. Theo Nghị quyết số 04/2005 thì sự thỏa thuận lựa chọn
hoặc yêu cầu của Tòa án trưng cầu giám định phải được thể hiện bằng văn bản.
- Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ
việc dân sự. Trong trường hợp cần phải xác định giá trị tài sản để giải quyết vụ việc dân sự
thì phải định giá, thẩm định giá tài sản. Định giá, thẩm định giá tài sản là việc xác định giá

trị tài sản của vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 92 BLTTDS định giá, thẩm định giá
tài sản là một trong những biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm giúp cho việc
giải quyết vụ việc được chính xác.

6


- Việc ủy thác thu thập chứng cứ được thực hiện trong trường hợp đối tượng tranh chấp
hoặc một trong các bên đương sự ở nơi khác với Tòa án đang giải quyết vụ án hoặc cần
phải thu thập các tài liệu, chứng cứ. Trong trường hợp thu thập chứng cứ phải tiến hành
ngoài lãnh thổ Việt Nam thì Tòa án làm thư ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam hoặc cơ quan tiến hành tố tụng dân sự nước ngoài mà nước đó và Việt Nam đã
kí kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam tham gia điều ước quốc tế có quy
định về vấn đề này.
- Thủ tục yêu cầu cá nhân, tổ chức, cơ quan, cung cấp chứng cứ được quy định tại điều
94 BLTTDS. Biện pháp này áp dụng trong trường hợp đương sự đã áp dụng biện pháp cần
thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa
án tiến hành thu thập chứng cứ. Do đó, Tòa án có thẩm quyền này được quy định cụ thể
trong pháp luật TTDS.
3. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt đông nghiên cứu chứng cứ.
Đây là yêu cầu khắt khe bởi nghiên cứu chứng cứ để xác định được giá trị chứng minh của
từng loại chứng cứ. Xác định được tính khách quan của chứng cứ, trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự tòa án loại bỏ được những cái không có thật, không sử dụng để giải
quyết vụ việc dân sự bảo đảm, nhanh chóng, đúng đắn.
Khi có một quá trình nghiên cứu chứng cứ một cách kĩ lưỡng thì việc giải quyết vụ việc
dân sự sẽ tránh được oan sai. Bởi cùng với hoạt động đánh giá chứng cứ thì hoạt động
nghiên cứu chứng cứ cũng dẫn tới việc kết luận cho vụ, việc dân sự đang được giải quyết.
Do đó, nếu hoạt động nghiên cứu chứng cứ qua loa sẽ dẫn tới hoạt động đánh giá chứng
cứ không xác định và nó sẽ kéo theo những hệ lụy đáng tiếc. Trong pháp luật TTDS chưa
có một điều luật cụ thể nào quy định về hoạt động nghiên cứu chứng cư nhưng ta cũng tự

hiểu rằng, nghiên cứ và đánh giá chứng cứ sẽ đi đôi và song hành cùng nhau.
4. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động đánh giá chứng cứ.
Trong TTDS, tất cả các chủ thể chứng minh đều có quyền đánh giá chứng cứ. Đối với
đương sự (người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự) có quyền phát biểu các ý kiến về việc đánh giá chứng cứ của mình và đề xuất
hướng giải quyết vụ, việc dân sự. Tuy nhiên việc đánh giá chứng cứ của các đương sự
không có tính chất bắt buộc nên việc đánh giá chứng cứ chủ yếu thuộc về Tòa án. Căn cứ
khoản 2 Điều 96 BLTTDS quy định “Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan
giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý của từng chứng cứ”. Từ đây ta nhận thấy,
việc đanh giá chứng cứ được thực hiện chủ yếu bởi tòa án. Cụ thể là việc đánh giá chứng
cứ của HĐXX tại phiên tòa và trong phòng nghị án. Đây là hoạt động tư duy cuối cùng và
mang tính chất quyết định nhằm kết luận về giá trị chứng minh và phù hợp của từng
chứng cứ.

7


III. Thực trạng áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề hoạt động cung
cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
1. Thực trạng hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
Thứ nhất, quy định về chủ thể thu thập chứng cứ, BLTTDS quy định, nếu xét thấy
chứng cứ chưa đầy đủ để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ
sung chứng cứ. Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn
không thể thu thập được chứng cứ thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ.
Như vậy, trong mọi trường hợp Toà án chỉ được phép yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ khi và chỉ khi đương sự có yêu cầu. Đây là một quy định tiến bộ đảm
bảo sự khách quan nhưng trên thực tế, quy định này đã tọa ra một lỗ hổng pháp lý, gây
khó khăn cho việc bảo vệ pháp chế của Tòa án.
Một vấn đề nữa là Điều 79 BLTTDS đã quy định: Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng

minh cho yêu cầu khởi kiện, cho sự phản đối yêu cầu của người khác là thuộc về đương
sự. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng
cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh hoặc
chứng minh không đầy đủ. Điều 84 BLTTDS quy định cụ thể thêm là: Trong quá trình Toà
án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà
án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không
nộp hoặc nộp không đầy đủ đó. Như vậy, BLTTDS quy định đương sự có nghĩa vụ giao
nộp chứng cứ và hậu quả của việc không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ nhưng lại
không quy định về thời hạn mà đương sự phải thực hiện việc giao nộp chứng cứ. Do đó,
có nhiều đương sự sau khi khởi kiện đã không tự giác thu thập chứng cứ để giao nộp cho
Toà án hoặc cố tình trì hoãn việc giao nộp chứng cứ làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án.
Thậm chí có chứng cứ nhưng chỉ chờ đến khi xét xử phúc thẩm mới chịu nộp, hậu quả dẫn
đến việc cấp phúc thẩm huỷ hoặc sửa án sơ thẩm là khó tránh khỏi. Vấn đề này thực tế đã
gây không ít phiền phức cho Toà án.
Thứ hai là về cách thức thu thập chứng cứ và nhận thức đánh giá chứng cứ. Một thực tế
hiện nay khi giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai khi một trong các bên đương sự giao
nộp cho Toà án các giấy tờ liên quan như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ), trích lục bản đồ địa chính thì bên đương sự khác lại cho rằng các giấy tờ tài
liệu đó là không đúng với thực tế mà có sự sai sót của cơ quan quản lý đất đai. Với tình
huống này có nơi Toà án không cần xem xét tính xác thực về lời khai của đương sự mà
căn cứ vào các giấy tờ, tài liệu đó để đưa ra phán quyết. Ngược lại, có Toà án thì lại đi
điều tra xác minh, căn cứ vào lời khai của đương sự, người làm chứng để phủ nhận giá trị

8


pháp lý của các loại giấy tờ tài liệu này. Từ đầy ta đã nhận thấy sự khác nhau trong việc
nhận thức của các chủ thể nói trên.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.

Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở hạ tầng
tương ứng, muốn pháp luật phát huy được vai trò tích cực của mình trong việc định hướng
sự vận động của xã hội, phục vụ được mục tiêu của nhà nước thì đòi hỏi nó phải thực tế,
phù hợp với những gì đang diễn ra trong đời sống xã hội. Do vậy, để giải quyết những vấn
thực tế có một số những giải pháp như sau:
Thứ nhất là cần sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật để có sự chặt chẽ hợn. Cụ
thể là những quy định ở Khoản 2 Điều 85 theo hướng trong trường hợp đương sự không
tự mình thu thập được chứng cứ thì không phải chỉ có yêu cầu thì tòa án mới có thẩm
quyền thu thập chứng cứ. Ngoài ra cũng cần phải sửa đổi những điểm nhỏ trong các quy
định về chứng cứ để có sự chặt chẽ hơn
Thứ hai là tạo điều kiện để đương sự có thể tiếp cận, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
được nhiều hơn, thuận tiện hơn. Bởi lẽ, ví dụ như cấp phúc thẩm, khi mà chứng cứ được
cung cấp tại cấp phúc thẩm mà các bên không thể có thời gian thu thập những chứng cứ
để phản bác và gây bất lợi nhiều cho họ vì bản án cấp phúc thẩm là bản ản có hiệu lực
ngay.
Cuối cùng là giáo dục ý thức pháp luật và tuyên truyền pháp luật để mọi công dân được
hiểu luật vì có hiểu về pháp luật thì sẽ hỗ trợ rất nhiều khi họ là đương sự trong các vụ,
việc dân sự có liên quan và họ cũng có thể biết cách tự bảo vệ mình.
C. Kết Luận.
Nhìn chung, những nguyên tắc tiến bộ của BLTTDS đó là quy định việc cung cấp
chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của mình là thuộc quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Đây không chỉ là quy định làm nền tảng bảo đảm tính khách quan trong việc giải quyết vụ
án mà còn góp phần đặt Toà án đúng vị trí, thực hiện đúng trọng tâm chức năng xét xử đó
là chỉ xem xét chứng cứ và phán quyết. Tuy nhiên, xem xét thực tế còn nhiều những bất
cập và chúng ta cần có những tìm hiểu kĩ lưỡng hơn để có thể đưa ra những giải pháp tốt
nhất cho việc hoàn thiên những quy định của pháp luật vêc chứng cứ và vấn đề chứng
minh.

9



Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo.
1. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam. Nxb Tư pháp, Trường Đại học luật Hà Nội.
2. Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004.
3. Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2005 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ
4. .
5. .

10



×