Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.61 KB, 12 trang )


CÁC TỪ VIẾT TẮT:
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự.
TTDS: Tố tụng dân sự.
TTHS: Tố tụng hình sự.

A. PHẦN MỞ BÀI:
Hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu đánh giá chứng cứ tại tòa sơ thẩm và phúc thẩm
là một trong những hoạt động cụ thể của hoạt động chứng minh tại tòa sơ thẩm, phúc thẩm.
Việc nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành và hoàn thiện các quy định của BLTTDS về
cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ là thực sự cần thiết. Bài viết dưới đây xin
phân tích về vấn đề này.
B. PHẦN THÂN BÀI:
I. Khái niệm vể hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại
tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm:
1. Khái niệm cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự:
Trước tiên ta tìm hiểu về chứng cứ. Trong BLTTDS năm 2004, khái niệm chứng cứ lần
đầu tiên được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo đó:
“ Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ
luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự
là các căn cứ hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự”.
Cung cấp chứng cứ được quy định tại Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), các
đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo về quyền lợi của mình, cá nhân, cơ
quan tổ chức khởi kiện yêu cầu để bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền
và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
Như vậy ta cũng có thể nhận thấy rằng quá trình chứng minh một vụ việc cũng không có gì
khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn.
2. Khái niệm về thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự:
Vì đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo về quyền lợi của mình. Lẽ đó, đương


sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải
tiến hành thu thập các chứng cứ cug cấp cho Tòa án nhằm chứng minh cho yêu cầu khởi kiện,
yêu cầu phản tố, yêu cầu đọc lập của mình. Tòa án cũng tham gia vào hoạt động thu thập
chứng cứ, nhưng vị trí và vai trò của Tòa án trong hoạt động chứng minh có điểm khác so với
các chủ thể khác. Việc thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ mang tính chất hỗ trợ các đương sự.
Dưới góc độ pháp luật tố tụng dân sự (TTDS), hoạt động thu thập chứng cứ được hiểu là:
Hoạt động tố tụng dân sự của các chủ thể chứng minh trong việc phát hiện, ghi nhận, thu giữ
và bảo quản chứng cứ bằng các phương pháp, biện pháp theo một trình tự thủ tục do pháp luật
tố tụng dân sự quy định.
3. Khái niệm nghiên cứu chứng cứ trong tố tụng dân sự:
Nghiên cứu chứng cứ là việc tiến hành xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ, đối chiếu các
chứng cứ đã thu thập với các chứng cứ khác đề nhằm làm rõ khả năng chứng minh của chứng
cứ đối với vụ việc d dang xem xét, từ đó có ý nghĩa quyết định đến việc đánh giá chứng cứ tìm
ra sự thật khách quan để giải quyết vụ, việc dân sự.
Có thể hiểu nghiên cứu chứng cứ trong TTDS là: Việc các chủ thể chứng minh độc lập,
xem xét, tìm hiểu chứng cứ trong hồ sơ vụ, việc dâ sự cũng như việc kiểm tra, xem xét chứng
cứ tại phiên tòa để xác định mức độ phản ánh chính xác của chứng cứ về những tình tiết, sự
2
kiện cần phải chứng minh cũng như những tình tiết, sự kiện cần thiết khác cho việc giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự.
4. Khái niệm về đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự:
Trong TTDS, khải niệm về đánh giá chứng cứ phải được đặt trong mối liên hệ với nghiên
cứu chứng cứ, nghiên cứu chứng cứ là việc trực tiếp thụ cảm, xem xét, phân tích, so sánh
chứng cứ nhằm nhìn nhận chứng cứ dưới góc độ trực giác, thì đánh giá chứng cứ là quá trình
xác định giá trị chứng minh của chứng cứ. Hay nói cách khác đánh giá chứng cứ là một quá
trình logic, là hoạt động suy luận dựa trên cơ sở nhận thức và tri thức của người đánh giá về
đối tượng đánh giá.
Như vậy, đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy logic của các chủ thể chứng minh đặc biệt
là Tòa án, được tiến hành trên cơ sở những hiểu biết về những tình tiết, sự kiện đã thu thập
được, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng, tập quán và niềm

tin nội tâm để xác định mức độ tin cậy và giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như cả hệ
thống chứng cứ trong vụ việc dân sự, được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ,
việc dân sự.
II. Nội dung quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động cung cấp,
thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm:
1. Quy định của pháp luật về hoạt động cung cấp chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm và
phúc thẩm:
1.1. Chủ thể của hoạt động cung cấp chứng cứ:
Các chủ thể của việc cung cấp chứng cứ bao gồm:
Các đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc có yêu cầu
cơ quan tiến hành tố tụng ra một quyết định trong quá trình tiến hành tố tụng phải cung cấp
chứng cứ chứng minh có yêu cầu đó.
Trong các trường hợp Viện kiểm sát khởi tố hoặc tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung
thì Viện kiểm sát hoặc tổ chức xã hội đó có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ.
Các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các công dân có quyền cung cấp cho Tòa án
những tin tức về vụ án, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ chứng cứ giao chứng
cứ ( điểm b khoản 2 Điều 58)
Ngoài ra nghĩa vụ cung cấp chứng cứ còn được quy định cho các chủ thể khác: Người đại
diện hợp pháp hoặc được ủy quyền của đương sự.
1.2. Nội dung của hoạt động cung cấp chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật TTDS, các đương sự có địa vị pháp lý bình đẳng
với nhau, có quyền bình đẳng trong việc cung cấp bổ sung chứng cứ. Khi làm đơn khởi kiện,
thì việc cung cấp chứng cứ với nguyên đơn là nghĩa vụ của họ. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu
mà không chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong thực tế hoặc đưa ra những
chứng cứ không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được chứng cứ có tính
thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu cầu của nguyên đơn sẽ bị Tòa án bác
bỏ. Về phía bị đơn, họ là người bị kiện nên họ có quyền cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền
lợi của mình trước Tòa án. Tuy nhiên, việc cung cấp chứng cứ sẽ trở thành nghĩa vụ đối với bị
đơn nếu bị đơn phản đối yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu
cầu của nguyên đơn, có thể bị đơn chỉ chấp nhận 1 phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của

yêu cầu đó. Trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn thì bị
đơn phải cung cấp chứng cứ để chỉ ra các yêu cầu đó có cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý, có đúng
3
đắn không ? Khi đó nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu đó của bị đơ đồng thời
phải chứng minh cho việc phản đối yêu cầu của mình.
Theo quy định tại Điều 165, 175 BLTTDS ngay khi khởi kiện đương sự thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh bằng việc gửi kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được thông báo về
việc thụ lý vụ án phải gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng
cứ, tài liệu kèm theo, quy định tại Điều 84 BLTTDS quy định về việc đương sự có quyền và
nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án trong quá trình Tòa á giải quyết vụ việc dân sự, quy
định tại Điều 224 BLTTDS về việc người kháng cáo phải gửi cho tòa án các tài liệu, chứng cứ
bổ sung kèm theo đơn kháng cáo ( nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ
hợp pháp.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, họ có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập dù đứng về phía nguyên
đơn hay bị đơn, họ đều có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh cùng nguyên đơn hay bị
đơn vì lợi ích của họ liên quan đến vụ kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ là nhằm làm sáng
tỏ các tình tiết của vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho đương sự mà họ đứng về phía đương sự đó,
hoặc có thể làm căn cứ cho yêu cầu của họ dưới một trong các bên đương sự; hoặc chứng cứ
do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối về việc kiện đòi hoàn lại mà 1 bên đương sự đặt ra
cho họ.
Chứng cứ cung cấp có thể là giấy tờ, tài liệu liên quan đến vụ kiện và các vật chứng chứa
đựng chứng cứ phải được trực tiếp chuyển giao đến Tòa án. Trong quá trình cung cấp chứng
cứ, đương sự có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp điều tra cần thiết như xem xét tại
chỗ, trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan, công dân cung cấp tài liệu chứng cứ cần thiết, lấy
lời khai...Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên mà đương sự có nghĩa vụ
phải cung cấp chứng cứ. Tại phiên tòa sơ thẩm đương sự vẫn có quyền, nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình, vẫn có quyền cung cấp chứng cứ mới, bổ sung những

chứng cứ đã cung cấp. Ở cấp phúc thẩm, đương sự cũng có quyền đưa ra những chứng cứ mới
mà vì một lý do nào đó trong quá trình giải quyết vụ kiện ở cấp sơ thẩm đương sự chưa xuất
trình được.
2. Quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa cấp sơ thẩm và phúc
thẩm:
2.1. Chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ:
* BLTTDS đã quy định đương sự là chủ thể chủ yếu trong hoạt động thu thập chứng cứ,
Tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong những trường hợp pháp luật quy định như lấy lời
khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết ( Khoản 1 Điều 87 BLTTDS ), đối chất khi có
mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng khi xét thấy cần thiết ( khoản 1
Điều 88 BLTTDS ), định giá tài sản trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm
mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí ( điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS ). Còn lại,
các biện pháp thu thập chứng cứ khác được quy định tại chương VII BLTTDS “ Chứng cứ và
chứng minh”, đều thuộc về đương sự như: đương sự có quyề được khai báo ( Điều 86), yêu cầu
lấy lời khai của người làm chứng ( Điều 87), yêu cầu đối chất ( Điều 88), giám định, giám định
bổ sung ( Điều 90), yêu cầu định giá tài sản ( Điều 92).
4
* Người đại diện của đương sự trong TTDS là người thay mặt cho đương sự, thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Người đại diện trong TTDS bao gồm người đại diện
theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyề và người đại diện do Tòa án cử.
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong việc đề ra các
yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhưng vai trò chứng minh của
người đại diện cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự. Đương sự
không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì
theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc Tòa án sẽ
chỉ định người đại diện cho họ. Hoạt động thu thập chứng cứ của người đại diện khi đó thay
cho đương sự.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là người được đương sự nhờ và
Tòa án chấp nhận, tham gia TTDS với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự ( khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là Luật sư hoặc bất cứ chủ thể nào đủ

điều kiện mà được đương sự tin tưởng. Theo Điều 64 BLTTDS thì người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự có quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho
Tòa án. Với quy định này làm giảm phần lớn sự can thiệp quá sâu của Tòa án vào công việc
thu thập chứng cứ, đồng thời tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho các đương sự và người bảo
vệ quyền hợp pháp thông qua chứng cứ do chính mình cung cấp và thu thập.
* Các cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác
cũng có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp theo khoản 3
Điều 79 BLTTDS.
* Viện kiểm sát cũng là một chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ bằng cách yêu cầu
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng ( khoản 3 Điều 85). Khi
tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm mà Viện kiểm sát kháng nghị, Kiểm sát viên có
quyền tham gia hoạt động thu thập chứng cứ ( thông qua việc xuất trình bổ sung chứng cứ ).
* Tòa án cũng là một chủ thể của hoạt động thu thập chứng cứ nhưng chỉ trong phạm vi rất
hạn chế, khi mà đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ
2.2. Nội dung của hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:
2.2.1. Phương pháp thu thập chứng cứ của Tòa án:
* Lấy lời khai của đương sự: khoản 1 Điều 86 BLTTDS quy định việc lấy lời khai của
đương sự, biện pháp này chỉ được tiến hành khi đương sự chưa có bản tự khai hoặc nội dung
bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải làm đúng quy định tại
khoản 2 Điều 86 BLTTDS.
* Lấy lời khai của người làm chứng: những trường hợp cần lấy lời khai của người làm
chứng được quy định tại Điều 87 BLTTDS “ theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần
thiết”. Về căn bản, phương pháp lấy lời khai của người làm chứng và cách ghi biên bản lấy lời
khai của người làm chứng được thực hiện giống như đối với phương pháp lấy lời khai của
đương sự. Sau khi lấy lời khai của người làm chứng, biên bản ghi lời khai phải được người
khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp Thư ký ghi biên bản thì
cả Thư ký và Thẩm phán cần phải ký vào biên bản, có đóng dấu của Tòa án.
* Đối chất: khoản 1 Điều 88 BLTTDS quy định “ theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét
thấy có sự mâu thuẫn.......người làm chứng với nhau”. Như vậy, việc đối chất chỉ tiến hành khi
có yêu cầu của đương sự, đương sự không có yêu cầu nhưng xét thấy có sự khác nhau của các

bên đương sự, người làm chứng.
5

×