Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

nhận xét, đánh giá một số các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.85 KB, 9 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Xét xử tại phiên tòa sơ thẩm dân sự (PTSTDS) là giai đoạn tố tụng quan trọng
nhất, quyết định nhất bởi tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án giải quyết tất cả các vấn đề của
vụ án, các đương sự công khai bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa
án.Ở phiên tòa, Hội đồng xét xử không chỉ dựa vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án mà phải xác định lại chúng đồng thời làm rõ thêm những tình tiết bằng cách
nghe ý kiến trình bày của các đương sự, những người tham gia tố tụng khác, xem xét
các tài liệu, vật chứng. Chỉ sau khi nghe ý kiến của những người tham gia tố tụng và
kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới nghị án để
ra các quyết định về việc giải quyết vụ án. Theo quy định Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ an dân sự (PLTTGQCVADS) việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm tuân theo một
trình tự nhất định bao gồm: thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận
tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Trong bài viết này sẽ nhận xét, đánh giá một số các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ
thẩm dân sự và kiến nghị.

B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề cơ bản về phiên tòa sơ thẩm dân sự.
1. Khái niệm và đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Theo giáo trình Luật tố tụng dân sự năm 2005 của trường Đại học Luật Hà Nội
thì “phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của Tòa
án”. Khái niệm này mới chỉ giải thích về PTSTDS theo Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) Việt Nam ở mức độ khái quát nhất mà chưa phản ánh đầy đủ các đặc điểm
cơ bản của PTSTDS. Để đưa ra khái niệm PTSTDS, cần thiết phải làm rõ các đặc
điểm của PTSTDS:
Thứ nhất, PTSTDS là phiên họp của Tòa án để xét xử lần đầu một vụ án dân
sự. Các hoạt động tố tụng trong các giai đoạn khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử sơ
thẩm là tạo tiền đề và chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc xét xử lần
đầu nội dung vụ việc dân sự tại PTSTDS. Trong trường hợp bản án, quyết định của
Tòa án bị Tòa án cấp trên hủy để xét xử lại từ đầu thì toàn bộ quá trình tố tụng trước
đó sẽ bị hủy bỏ và việc giải quyết vụ việc dân sự sẽ được chuẩn bị và xét xử sơ thẩm


lại. Vì thế, phiên họp xét xử lại vụ việc đầu tiên cũng là PTSTDS.
Thứ hai, PTSTDS được tiến hành công khai với sự có mặt của tất cả những
người tham gia tố tụng. Bao gồm: các đương sự, người đại diện của đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch và sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát (nếu có).
Thứ ba, tại PTSTDS, trên cơ sở kết quả tranh tụng hoặc giải quyết công khai
yêu cầu của các bên đương sự, Tòa án ra phán quyết để giải quyết về toàn bộ vụ việc
dân sự hoặc những vấn đề còn tranh chấp giữa các bên đương sự.
Từ việc phân tích trên cho thấy, PTSTDS là phiên họp công khai lần đầu của
Tòa án với sự tham gia của những người tham gia tố tụng theo những nguyên tắc và


thủ tục nhất định để Tòa án ra phán quyết để giải quyết về toàn bộ vụ việc dân sự
hoặc những vấn đề còn tranh chấp giữa các bên đương sự.
2. Ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Phiên tòa sơ thẩm là phiên xử lần đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
việc giải quyết vụ án dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm tòa án sẽ quyết định giải quyết các
vấn đề của vụ án, xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự làm cơ sở cho việc thi
hành án. Sau khi Tòa án tiến hành phiên tòa sơ thẩm việc giải quyết vụ án dân sự kết
thúc, trừ trường hợp có kháng cáo, kháng nghị.
Thông qua hoạt động xét xử của Tòa án, những người tham dự phiên tòa biết rõ
hơn các quy định của pháp luật được Tòa án áp dụng giải quyết vụ án từ đó nâng cao
được ý thức pháp luật của họ.
Hoạt động xét xử của tòa án tại phiên tòa sơ thẩm là để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan xét xử, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
II. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm
dân sự và thực tiễn thực hiện.
Thủ tục phiên tòa sơ thẩm được quy định tại chương XIV BLTTDS (Điều 213
đến Điều 239), bao gồm các thủ tục: bắt đầu phiên tòa, hỏi, tranh luận, nghị án và
tuyên án.

1. Bắt đầu phiên tòa.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định từ Điều 213 đến Điều 216 BLTTDS,
bao gồm các thủ tục sau:
- Khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trước khi chủ tọa khai mạc phiên tòa, thư kí tòa án ổn định trật tự trong phòng
xử án; kiểm tra và xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa
theo giấy triệu tập, giấy báo của tòa án, nếu có người vắng thì phải làm rõ lý do; sắp
xếp chỗ ngồi cho các đương sự và người làm chứng; phổ biến các nội quy phiên tòa.
Mục đích của thủ tục này nhằm kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng
theo giấy triệu tập của tòa án và ổn định trật tự của phiên tòa. Khi HĐXX bước vào
phòng xử án, thư kí tòa án yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy, chủ tọa
phiên tòa khai mạc phiên tòa.
- Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa
theo giấy triệu tập, giấy báo của tòa án và kiểm tra căn cước của các đương sự.
Chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của các đương sự thông qua việc hỏi để đương sự
trả lời trực tiếp về họ tên, tuổi, địa chỉ, nơi cư trú (cá nhân); hỏi tên, địa chỉ, trụ sở
chính (cơ quan, tổ chức). Đối với if đại diện hợp pháp của đương sự, chủ tọa phiên tòa
hỏi họ về họ, tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, nơi cư trú, quan hệ với đương sự. Việc
kiểm tra căn cước của các đương sự nhằm đối chiếu lại lời trình bày của họ với các tài
liệu trong hồ sơ vụ án.
- Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và những người
tham gia tố tụng khác.
Theo BLTTDS, quyền và nghĩa vụ nói chung của đương sự được quy định từ
Điều 58 đến Điều 62. Đây là quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng


ở tất cả các giai đoạn tố tụng, cho nên, chủ tọa phiên tòa chỉ lựa chọn, phổ biến những
quyền và nghĩa vụ của đương sự tại PTSTDS và các quyền, nghĩa vụ liên quan đến
việc khởi kiện, khiếu nại, thi hành bản án, quyết định sơ thẩm.
- Chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người

giám định, người phiên dịch.
HĐXX của những chủ thể này có tính chất quyết định đến tính chính xác,
khách quan của bản án, quyết định dân sự sơ thẩm cho nên đối với ngoài yêu cầu về
chuyên môn, nghiệp vụ thì yêu cầu về sự vô tư, khách quan khi làm nhiệm vụ là rất
quan trọng. BLTTDS đã dự liệu những trường hợp mà người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu có
người yêu cầu thay đổi họ tại các Điều 46, 47, 48, 49, 72. Vì vậy, thủ tục này nhằm
đảm bảo cho những người tham gia tố tụng và kiểm sát viên thực hiện quyền yêu cầu
thay đổi những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (Điều 214
BLTTDS).
Như vậy, các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa của BLTTDS rất chi tiết và
cụ thể. Với quy định của BLTTDS về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì vai trò của Thẩm
phán - chủ tọa phiên tòa là rất lớn. Tất cả các hoạt động của thẩm phán tại thủ tục này
nhằm đảm bảo cho việc quản lý của vụ án của tòa án được chặt chẽ, đảm bảo cho việc
xét xử được đúng đối tượng, đúng thủ tục tố tụng và những người tham gia tố tụng
được biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình tại PTSTDS.
Về cơ bản, các tòa án đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thủ tục
bắt đầu phiên tòa. Tuy nhiên, trên thực tế do có nhiều vụ án phức tạp, đương sự gây
khó khăn nên có tình trạng phải hoãn phiên tòa nhiều lần, kéo theo việc bổ sung phiên
tòa ngoài kế hoạch…Việc xử vắng mặt đương sự tại phiên tòa nhiều trường hợp
không đúng quy định của pháp luật vẫn còn xảy ra. Bên cạnh đó, cá biệt đã có trường
hợp giả danh đương sự để trả lời trước tòa án, nhưng khi kiểm tra căn cước, HĐXX
không phát hiện ra.
2. Hỏi tại phiên tòa
2.1. Hỏi để xác định yêu cầu của đương sự.
Để xác định phạm vi xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, Điều 217 BLTTDS quy định
trước khi hỏi về nội dung vụ án, chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự về các vấn đề thay
đổi, bổ sung, rút yêu cầu, cụ thể:
- Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay đổi,
bổ sung rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không?

- Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố
hay không?
- Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi bổ
sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không?
Nếu các đương sự thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, HĐXX sẽ xem xét, giải quyết theo
thủ tục sau:
- Đối với trường hợp thay đổi, bổ sung yêu cầu.


Khoản 1 Điều 218 BLTTDS quy định “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu của
đương sự, nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. Quy định này nhằm bảo
đảm quyền tự định đoạt của các đương sự đồng thời bảo đảm cho đương sự phía bên
kia có điều kiện biết trước yêu cầu của đương sự đối lập để chuẩn bị các chứng cứ, tài
liệu chống lại yêu cầu đó và thực hiện việc tranh tụng một cách tốt nhất. Mọi yêu cầu
thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trong
trường hợp HĐXX chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự thì phải ghi
trong bản án.
BLTTDS không quy định rõ “yêu cầu ban đầu” nhưng Nghị quyết
02/2006/NQ-HĐTP đã hướng dẫn “yêu cầu ban đầu là yêu cầu được thể hiện trong
đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu của người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”. Có thể thấy hướng dẫn này là chưa hợp lý và sẽ làm
hạn chế quyền tự định đoạt của các đương sự. Bởi theo nguyên tắc quyền tự định đoạt
của đương sự trong quá trình tố tụng các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi bổ
sung các yêu cầu của mình so với yêu cầu trong đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu
cầu độc lập. Yêu cầu chấm dứt, thay đổi, bổ sung của đương sự được phản ánh trong
các biên bản lấy lời khai, hòa giải tại tòa án.
Nghị quyết 02 hướng dẫn “không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu là không
được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu”. Song

hướng dẫn trên không giải thích cụ thể cụm từ “phạm vi” là phạm vi quan hệ pháp
luật tranh chấp hay về giá trị yêu cầu nên chưa giải quyết được triệt để các vướng mắc
liên quan đến điều luật này. Từ đó, có thể dẫn đến cách hiểu không vượt quá yêu cầu
ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới, không được tăng giá trị yêu cầu.
Ví dụ: Ban đầu A khởi kiện đòi B 20 triệu đồng vì cho rằng ngày 20/10/2005 B
đã gây thiệt hại cho A. Tại phiên tòa, A yêu cầu đòi thêm B 10 triệu đồng nữa và A
xuất trình thêm chứng cứ để chứng minh tổng giá trị thiệt hại mà B đã gây cho A là 30
triệu đồng. Với cách hiểu này, yêu cầu đòi thêm B 10 triệu đồng của A không được
chấp nhận vì đã vượt qua phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Tuy nhiên, với quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hiện nay về việc đương sự có quyền cung cấp chứng cứ
trong suốt quá trình tố tụng thì tại PTSTDS, A vẫn có quyền xuất trình chứng cứ để
đòi thêm B 10 triệu đồng.
- Đối với trường hợp đương sự rút yêu cầu
Việc xem xét, giải quyết việc rút yêu cầu của đương sự được quy định tại khoản
2 Điều 218 BLTTDS: “Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu của mình và việc rút đó là hoàn toàn tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và
đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”. Nhưng
BLTTDS không quy định và Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP cũng không hướng dẫn
cụ thể về hình thức của việc đình chỉ xét xử và hậu quả pháp lý của nó, dẫn đến có các
cách hiểu và áp dụng khác nhau về việc điều luật này.


Để đảm bảo việc giải quyết dứt điểm tranh chấp giữa các bên đương sự. Điều
219 BLTTDS quy định, trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên
đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn. Nếu cả nguyên đơn và bị đơn đều rút toàn bộ
yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu phản tố, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
giữ nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở
thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn.
Việc thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự trong những trường hợp này

nhằm tránh việc Tòa án ra quyết định đình chỉ xét xử, sau đó nếu bị đơn đưa ra yêu
cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập, Tòa án lại
phải thụ lý và giải quyết các yêu cầu đó. Trong khi quan hệ pháp luật tranh chấp đó đã
được Tòa án thụ lý và xem xét. Vì vậy, quy định về thay đổi địa vị tố tụng của các
đương sự nhằm bảo đảm việc giải quyết tranh chấp dân sự một cách nhanh chóng, tiết
kiệm, hiệu quả.
Tuy nhiên, BLTTDS không quy định cụ thể về trường hợp nguyên đơn rút một
phần yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập của mình và không quy định
hình thức đình chỉ xét xử khi nguyên đơn rút toàn bộ hoặc một phần yêu cầu nên có
những cách hiểu khác nhau.
Ngoài ra, BLTTDS không quy định về thời điểm thực hiện việc phản tố của bị
đơn và đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Vì thế,
tại PTSTDS, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có
quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không và hậu quả của việc nguyên
đơn rút đơn là những vấn đề có những cách hiểu khác nhau.
2.2. Hỏi về việc tự hòa giải của các đương sự
Điều 220 BLTTDS quy định tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự
có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Đây là điểm mới quan
trọng của BLTTDS so với các văn bản pháp luật trước kia về thủ tục tiến hành
PTSTDS.
- Những vụ án dân sự pháp luật khuyến khích đương sự thỏa thuận và Tòa án
hỏi các đương sự về việc tự hòa giải.
Trường hợp hòa giải do Tòa án tiến hành thì Tòa án không hòa giải đối với
những vụ án không hòa giải được và không được hòa giải. Vậy, đối với những vụ án
không được hòa giải và những vụ án không hòa giải được, HĐXX có hỏi các đương
sự về thỏa thuận hay không? Do Điều 220 BLTTDS không quy định cụ thể nên dẫn
đến có những nhận thức khác nhau về vấn đề này.
Cách hiểu thứ nhất, Điều 220 BLTTDS không quy định về những vụ án mà
HĐXX không được hỏi về việc tự hòa giải của các đương sự. Vì vậy, tất cả các vụ dân

sự đều bắt buộc phải áp dụng thủ tục hỏi các đương sự về sự thỏa thuận.
Cách hiểu thứ hai, mặc dù Điều 220 BLTTDS không quy định cụ thể nhưng
những quy định chung về hòa giải được quy định ở phần chuẩn bị xét xử sơ thẩm
cũng được áp dụng tại phiên tòa sơ thẩm. Do đó phải trừ những vụ án không được hòa


giải và những vụ án không hòa giải được, còn lại tòa án mới hỏi các đương sự về sự
thỏa thuận.
Các cách hiểu trên đều có những điểm hợp lý nhưng chưa xem xét vấn đề một
cách thấu đáo trên cơ sở bản chất của từng loại việc. Tuy trường hợp hòa giải thành
do Tòa án tiến hành và trường hợp các đương sự tự hòa giải khác nhau về thủ tục, vai
trò của Tòa án và hậu quả pháp lý nhưng đều có chung bản chất là Tòa án công nhận
sự thỉa thuận của các đương sự. Mà bản chất của sự thỏa thuận về giải quyết vụ án
đương sự là một dạng giao dịch dân sự. Cho nên, Tòa án chỉ công nhận giao dịch đó
nếu thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
2.3. Các đương sự tự trình bày.
Theo Điều 221 BLTTDS , nếu các đương sự không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án thì HĐXX sẽ nghe các bên đương sự trình bày về yêu cầu và
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, theo thứ tự nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu vụ án có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thay mặt
các đương sự trình bày các yêu cầu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, sau đó đương
sự bổ sung ý kiến.
Thủ tục các đương sự trình bày là điểm mới của BLTTDS. Việc kiểm tra, xem
xét, đánh giá chứng cứ tại PTSTDS hoàn toàn do HĐXX chủ động, các đương sự ở vị
trí bị động và chỉ là người trả lời các câu hỏi của các thành viên HĐXX. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ có quyền giúp đỡ đương sự về mặt pháp
lý mà không có quyền thay mặt các đương sự trả lời các câu hỏi của HĐXX. Quy
định đó đã làm hạn chế vai trò, khả năng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự.

2.4. Hỏi để làm rõ nội dung vụ án.
Sau khi các đương sự trình bày xong sẽ đến phần hỏi tại phiên tòa. Điều 222
BLTTDS quy định Chủ tọa phiên tòa là người hỏi trước, sau đó đến Hội thẩm nhân
dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự, những người
tham gia tố tụng khác và kiểm sát viên là người hỏi sau cùng. Người được hỏi trước
tiên là nguyên đơn, sau đó là bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người
làm chứng và người giám định (Điều 223 đến Điều 230 BLTTDS). Có thể thấy so với
các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động thì thứ tự người
hỏi đã có sự thay đổi. Các pháp lệnh quy định HĐXX là những ngươì hỏi trước, sau
đó đến kiểm sát viên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người
làm chứng, người giám định. Các đương sự là người bị hỏi nên không được hỏi những
người tham gia tố tụng khác. Như vậy, quy định của BLTTDS về người hỏi, một mặt
vẫn đề cao vai trò của HĐXX đối với việc thu thập chứng cứ mới và kiểm tra chứng
cứ tại phiên tòa, mặt khác, đề cao vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự và của đương sự đối với việc xác định sự thật của vụ án dân sự, hạn chế
sự can thiệp của Viện kiểm sát vào việc giải quyết các vụ án dân sự.
Vấn đề đương sự là người có quyền tham gia vào việc hỏi tại PTSTDS là điểm
mới của bộ luật tố tụng dân sự. Tuy vậy điểm 1 khoản 2 Điều 58 quy định “Đương sự


chỉ được quyền đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; đối chất với
nhau hoặc với nhân chứng”. Do đó, quy định này không nhất quán với Điều 222. Điều
này dẫn đến những cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau về quyền đưa ra câu hỏi
của đương sự cho những người tham gia tố tụng khác.
3. Tranh luận.
3.1. Phát biểu của các bên đương sự khi tranh luận.
Điều 233 BLTTDS quy định “Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian
tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến…”.
Như vậy, không hạn chế thời gian tranh luận là điểm mới của BLTTDS, thể hiện tinh
thần mở rộng tranh tụng, tạo điều kiện cho đương sự có khả năng sử dụng mọi

phương pháp chứng minh theo luật định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
3.2. Phát biểu của Kiểm sát viên.
Điều 234 BLTTDS quy định “Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ
tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ
án”. Bản chất của tranh luận trong tố tụng dân sự là là việc tranh luận giữa các bên
đương sự về việc giải quyết những vấn đề còn tranh chấp, mâu thuẫn trong vụ án.
VKS không phải là một bên tranh chấp nên nếu giữ nguyên quy định của Điều này thì
các đương sự không tranh luận với kiểm sát viên về ý kiến phát biểu.
4. Nghị án và tuyên án.
4.1. Nghị án.
- Trình tự nghị án: khoản 2 Điều 236 BLTTDS quy định “Hội thẩm nhân dân
biểu quyết trước, thẩm phán biểu quyết sau cùng”. Quy định này tạo điều kiện cho
HTND có được tiếng nói khách quan về vụ án. Hơn nữa, quy định này còn có ý nghĩa
phát huy vai trò và trách nhiệm của HTND trong hoạt động tố tụng, buộc hội thẩm
nhân dân phải đầu tư thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa. Điều
đó giúp cho HTND nắm vững nội dung vụ án, tham gia một cách nghiêm túc và có
hiệu quả vào việc xét xử.
- Căn cứ vào nội dung nghị án: Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc xét xử trực
tiếp, khoản 3 Điều 236 BLTTDS quy định: “Khi nghị án các thành viên Hội đồng xét
xử chỉ được căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa,
kết quả việc hỏi tại phiên tòa và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia
tố tụng, Kiểm sát viên”. Như vậy, trên cơ sở việc kiểm tra, thẩm định chứng cứ tại thủ
tục hỏi, các bên đương sự, Kiểm sát viên trình bày quan điểm củ mình về đánh giá và
đề xuất hướng giải quyết vụ án, HĐXX sẽ nghị án để đánh giá chứng cứ lần cuối để
đưa ra phán quyết về vụ án. Quy định này của BLTTDS là hợp lý.
4.2. Tuyên án.
Theo điều 239 BLTTDS, thủ tục tuyên án có những nội dung mới giúp cho việc
tuyên án phù hợp hơn với thực tế: “Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án đứng

dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa hoặc
một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải


thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo”. Có thể thấy, quy định của
BLTTDS nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các đương sự. Họ sẽ được ngồi nghe
tuyên án mà không phải đứng dậy, trong trường hợp sức khỏe yếu, bệnh tật,…Bên
cạnh đó ngoài chủ tọa phiên tòa, một thành viên khác của HĐXX cũng có quyền đọc
bản án nhằm giải quyết tình huống bản án quá dài, đến ngày tuyên án sức khỏe của
chủ tọa không tốt. Tuy nhiên, BLTTDS không quy định rõ một thành viên HĐXX
phải đọc tòan văn hay bản án hay quyết định của bản án. Thực tiễn xét xử cho thấy, đa
số các phiên tòa HĐXX đều đọc toàn văn bản án. Nếu vụ án được xét xử kín thì tùy
từng trường hợp có thể đọc toàn bộ bản án hoặc chỉ tuyên bố công khai phần quyết
định.
III. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục tiến hành phiên tòa
sơ thẩm dân sự.
1. Sửa đổi, bổ sung quy định liên quan việc xác định phạm vi yêu cầu của
đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.
Như đã phân tích ở mục II, vấn đề đặt ra đối với khoản 1 Điều 218 BLTTDS là
cần làm rõ thế nào là phạm vi yêu cầu ban đầu và không vượt quá phạm vi yêu cầu
ban đầu của đương sự. Để xác định phạm vi yêu cầu ban đầu của các đương sự phải
làm rõ được khái niệm “yêu cầu” và “ban đầu”. Cần hiểu “yêu cầu” ở đây chính là
quan hệ pháp luật nội dung tranh chấp giữa các bên mà Tòa án có nhiệm vụ xem xét;
không “vượt quá” phạm vi yêu cầu ban đầu là không làm xuất hiện thêm quan hệ
pháp luật tranh chấp mới so với yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
ban đầu hay yêu cầu tại PTSTDS không làm phát sinh thêm quan hệ pháp luật mới.
2. Sửa đổi quy định liên quan đến việc rút yêu cầu của đương sự tại phiên
tòa sơ thẩm dân sự.
Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử đối với yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Cách giải quyết tương tự

này cũng được áp dụng trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu, bị đơn rút
toàn bộ yêu cầu phản tố nhưng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn giữ
nguyên yêu cầu độc lập. Vì vậy, cần sửa đổi Điều 218 “Trong trường hợp đương sự
rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện
thì HĐXX chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đã
rút, quyền định đoạt đình chỉ xét xử yêu cầu có hiệu lực pháp luật ngay”.
3. Bổ sung quy định liên quan đến quyền hỏi của đương sự tại PTSTDS.
Quy định tại điểm 1 khoản 2 Điều 58 BLTTDS là chưa thống nhất với Điều
222. Vì vậy cần bổ sung điểm 1 khoản 2 Điều 58 theo hướng “Đương sự có quyền hỏi
người khác, đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác, đối chất với nhau
hoặc với nhân chứng.
C. KẾT LUẬN
Trên đây là một số nhận xét, đánh giá về quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự và một số kiến nghị. Các quy
định của pháp luật về cơ bản tương đối chi tiết, cụ thể, phù hợp với thực tiễn xét xử
song vẫn còn những hạn chế nhất định và cần phải sửa đổi, bổ sung.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
2. Học viện tư pháp, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
3. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội,
2009.
4. Bùi Thị Huyền, “Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự”, Tạp chí luật học, 2005.
5. Phan Hữu Thư, Tiến tới xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam của thời kỳ đổi
mới, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004.




×