Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lý hành c

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.3 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

Trang
2

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Cơ sở lí luận:
II. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí
hành chính Nhà nước:
1. Cơ sở của nguyên tắc :
2. Đặc điểm của nguyên tắc:
3. Các hình thức tham gia quản lý hành chính Nhà nước:
4. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo
vào quản lý hành chính Nhà nước.
III. Việc vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia
đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay:
1. Tích cực
2. Hạn chế:
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

1

2

3
3
4
8
8
9


10
11


A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Với bản chất dân chủ sâu sắc, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân được nhà nước xă hội chủ nghĩa ghi nhận và đảm
bảo.Để nhân dân lao động thực sự giữ vai trò là người làm chủ dất nước, nhà
nước ta không ngừng tạo điều kiện để nhân dân lao động tham gia vào quản kí
hành chính nhà nước và ghi nhận như một nguyên tác quan trọng trong quản lí
hành chính nhà nước. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt
động quản lí hành chính nhà nước đã khẳng định rõ vai trò quan trọng của nhân
dân lao động trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, em lựa chọn đề tài
“Phân tích nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính nhà nước và đánh giá việc vận dụng nguyên tắc này trong quản lý
hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Cơ sở lí luận:
1. Khái niệm nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước:
Nguyên tắc trong quản lí hành chính Nhà nướclà những tư tưởng chủ đạo bắt
nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được
quy định trong pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước.
2. Đặc điểm:
- Các nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp, các văn bản luật đến văn bản
dưới luật. Điều này thể hiện tính pháp lý của các nguyên tắc trong quản lý hành
chính Nhà nước.
- Các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước thể hiện tính khách quan và khoa

học, vì:
+ Được xây dựng và đúc rút từ thực tế của cuộc sống, từ thực tiễn quản lý
hành chính Nhà nước.
+ Được xây dựng và ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước,
chúng được xây dựng trên cơ sở của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước chứ
không phải ý muốn chủ quan của các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước.
+ Những tư tưởng, nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước cũng có yếu tố

2


chủ quan, bởi vì: chúng được xây dựng nên bởi con người, được rút ra từ thực tế
cuộc sống, nhờ có con người thông qua bộ óc con người. Cho nên, các nguyên
tắc này bao giờ cũng chịu sự chi phối của điều kiện về chính trị, giai cấp, xã
hội…
- Các nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước mang tính ổn định cao, vì:
+ Chúng phản ánh các qui luật khách quan của quản lý hành chính Nhà
nước, cho nên tính ổn định phải được đảm bảo trong từng thời kỳ.
+ Tuy nhiên, chúng không phải là bất biến, bởi vì cuộc sống luôn phát triển
cùng với qui luật của nó.
+ Mỗi nguyên tắc trong quản lý hành chính Nhà nước có nội dung riêng
phản ánh từng khía cạnh khác nhau của quản lý hành chính Nhà nước. Cho nên,
có nhiều nguyên tắc khác nhau trong quản lý hành chính Nhà nước và chúng có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống thống nhất.
II. Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lí hành chính
Nhà nước:
1. Cơ sở của nguyên tắc :
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
Nhà nước được hình thành trên hai cơ sở cơ bản là bản chất nhà nước và cơ sở
pháp lý. Cụ thể là:

- Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- Cơ sở pháp lý: Điều 3 – Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ
về mọi mặt của nhân dân”, điều này có nghĩa là quyền được tham gia vào quản
lý các công việc của Nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận.
2. Đặc điểm của nguyên tắc
- Thứ nhất, nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước,
từ Hiến pháp, các văn bản luật đến văn bản dưới luật. Điều này thể hiện tính pháp
lý của nguyên tắc này trong quản lý hành chính Nhà nước. Như đã nêu trên, điều
3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà nước bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của công dân”. Như

3


vậy, quyền được tham gia vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội là
quyền cơ bản của công dân, được Hiến pháp ghi nhân và trên thực tế, nó đã được
bảo đảm thực hiện thông qua hàng loạt những hoạt động cụ thể.
- Thư hai, nguyên tắc này khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao
động trong quản lý hành chính Nhà nước, đúng như nguyên lý khoa học “nhân
dân là gốc của quyền lực nhà nước” mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra và thực
tiễn đã chứng minh. Mặt khác, nó cũng xác định những nhiệm vụ mà nhà nước
phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản đề nhân dân lao động
tham gia vào quản lý hành chính Nhà nước.
- Thứ ba, nguyên tắc này thể hiện tính khách quan và khoa học, vì:
+ Được xây dựng và đúc rút từ thực tế của cuộc sống, từ thực tiễn quản lý hành
chính Nhà nước.

+ Được xây dựng và ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, nguyên
tắc này được xây dựng trên cơ sở của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước
chứ không phải ý muốn chủ quan của các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước.
+ Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà
nước cũng có yếu tố chủ quan, vì: nó được xây dựng nên bởi con người, được rút
ra từ thực tế cuộc sống, nhờ có con người thông qua bộ óc con người. Cho nên,
nguyên tắc này bao giờ cũng chịu sự chi phối của điều kiện về chính trị, giai cấp,
xã hội…
- Thứ tư, là một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính Nhà nước nên
nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà
nước mang tính ổn định cao, vì:
+ Chúng phản ánh các quy luật khách quan của quản lý hành chính Nhà nước,
cho nên tính ổn định phải được đảm bảo trong từng thời kỳ. Song chúng không
phải là bất biến, bởi vì cuộc sống luôn phát triển cùng với qui luật của nó.
+ Có mối liên hệ với các nguyên tắc cơ bản khác trong quản lý hành chính Nhà
nước.
3. Các hình thức tham gia quản lý hành chính Nhà nước:
* Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà
nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình
thức tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành chính

4


nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể
tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào công việc quản lý hành chính nhà
nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước
với tư cách là thành viên của cơ quan này - họ là những đại biểu được lựa chọn

thông qua bầu cử hoặc với tư cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan
nhà nước. Khi ở cương vị là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người
lãnh đạo trực tiếp xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của
từng địa phương trong đó có các vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi ở
cương vị là cán bộ viên chức nhà nước thì người lao động sẽ sử dụng quyền lực
nhà nước một cách trực tiếp để thực hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện
thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh.
Ngoài ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các
cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng
đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa
phương. Ðây là hình thức tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động
quản lý hành chính nhà nước.
* Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội
Các tổ chức xã hội là công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc
thực hiện quyền tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Thông qua các hoạt
động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động
được phát huy. Ðây là một hình thức hoạt động có ý nghĩa đối với việc bảo đảm
dân chủ và mở rộng nền dân chủ ở nước ta.
Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham
gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhà nước ban hành
nhiều quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã
hội trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng và quản lý nhà nước nói chung.
Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân”. Các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bao gồm các tổ chức
chính trị xã hội (Đảng CS Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,

5



Hội Phụ nữ Việt Nam…) và các tổ chức xã hội nghề nghiệp (Hội luật gia Việt
Nam, Hội nhà báo Việt Nam…).
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất và tinh thần để cho các tổ
chức xã hội thực sự trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc
thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của mình. Nhân dân có thể tham gia
vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua các tổ chức xã hội,
đoàn thể quần chúng mà mình là hội viên để từ đó, thông qua các hình thức hoạt
động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân lao động
được phát huy trong quản lý hành chính nhà nước. Trên thực tế, các tổ chức xã
hội đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào
quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, đây là một hình thức hoạt động rất có ý
nghĩa đối với việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Các tổ chức xã hội ở nước ta đã, đang hoạt động ngày càng có hiệu quả
trên nhiều lĩnh vực của đời sồng xã hội, có vai trò ngày càng quan trọng, có đóng
góp cho sự phát triển của đất nước. Trong tổ chức, hoạt động mang đậm nét tính
xã hội - chính trị, các tổ chức ngày càng chủ động tham gia tích cực trong sự
nghiệp phát triển đất nước, thực hiện công tác vận động quần chúng của Đảng và
đã phản ánh được với Đảng, Nhà nước tâm tư, nguyện vọng của quần chúng lao
động, tham gia vào công tác xây dựng chủ trương, chính sách, của Đảng, Nhà
nước.
* Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực
hiện các hoạt động mang tính chất tự quản. Đây là hoạt động do chính nhân dân
thực hiện, có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác nhau của quản lý
nhà nước, quản lý xã hội và rất thiệt thực, gần gũi với đời sống người dân như
bảo vệ an ninh trật tự, vệ sinh môi trường…Những hoạt động này xảy ra ở nơi
cư trú, làm việc, sinh hoạt nên mang tính chất tự quản của nhân dân. Ví dụ như
tổ nhân dân tự quản về an ninh, trật tự là tổ chức quần chúng được thành lập trên
tinh thần tự nguyện của các hộ gia đình liền kề ở các thôn, khu phố thuộc các xã,

phường, thị trấn để tham gia giữ gìn an ninh, trật tự, vận động quần chúng nhân
dân chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và các quy định của địa phương nơi cư trú như các hương ước, quy ước của thôn,

6


khu phố…, góp phần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh ở khu dân cư, phục
vụ phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản này người lao động là
những chủ thể tham gia tích cực nhất, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội của họ được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Nhà nước đã tạo những điều
kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để phát huy vai trò chủ động, tích cực của
nhân dân lao động trong việc tham gia những hoạt động có tính chất tự quản nêu
trên. Đây là hình thức đơn giản nhất để mỗi người nhân dân lao động đều có thể
tham gia vào việc quản lý hành chính nhà nước.
* Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành
chính nhà nước
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã quy định
công dân có quyền “tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận
các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước,
biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Bên cạnh việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ này thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ cũng là một hình
thức tham gia vào QLHCNN của nhân dân lao động. Ví dụ như tham gia trực
tiếp với tư cách là thanh viên không chuyên trách trong hoạt động cơ quan quản
lý, các cơ quan xã hội; tham gia với tư cách là thành viên của tập thể lao động
trong việc giải quyết những vấn đề quan trọng của cơ quan... Việc trực tiếp thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước là
một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm

chủ của mình.
Ðây là nguyên tắc được nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ sâu sắc giữ vai trò quan trọng thiết yếu
trong quản lý hành chính nhà nước. Nhân dân không chỉ có quyền giám sát đối
với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện khiếu nại tố cáo nếu
cho rắng cán bộ hành chính nhà nước vi phạm quyền lợi của họ hoặc thực hiện
không đúng đắn, mà còn có quyền tự mình tham gia vào hoạt động quản lý nhà
nước, trực tiếp thể hiện quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Ðiều này này
khẳng định vai trò hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành
chính nhà nước, đồng thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện

7


trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia
vào quản lý hành chính nhà nước. Ðiểm thú vị về mặt lý luận của nguyên tắc vì
vậy chỉ có ý nghĩa khi được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể mở rộng, tăng
cường quyền của công dân trong hoạt động quản lý, nhưng không được phép hạn
chế, thu hẹp những gì mà Hiến pháp đã định.
4. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý
hành chính Nhà nước.
Thứ nhất, nó khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong
quản lý hành chính Nhà nước, tuân theo nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin “Nhân dân là cái gốc của quyền lực Nhà nước” đã được thực tiễn lịch sử
chứng minh.
Thứ hai, phát huy dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào quản lý
hành chính Nhà nước nhằm bảo đảm cho Nhà nước ta giữ vững bản chất là Nhà
nước “của dân, do dân, vì dân”, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả các chính sách của
Đảng, của Nhà nước.
Thứ ba, việc mở rộng hình thức tham gia của nhân dân vào hoạt động quản

lý hành chính Nhà nước không chỉ đòi hỏi từ sự hội nhập mà quan trọng hơn là từ
chính yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, dân chủ hóa
đời sống xã hội và của bản than Nhà nước. Mở rộng sự tham gia mạnh mẽ của
người dân vào các quá trình ra quyết định, các hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước sẽ góp phần quan trọng cho việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ,
ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Do đó, chỉ khi
nào người dân thật sự đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý hành chính
Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mới thành công.
III. Việc vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào
quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay:
1. Tích cực:
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính
nhà nước là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều năm qua, Nhà nước ta đã tạo
nhiều điều kiện để nhân dân lao động được tham gia vào các hoạt động của nhà
nước nói chung và quản lý hành chính nói riêng.
8


Nhà nước đã bảo đảm bảo cho nhân dân lao động tham gia đông đảo và
tích cực vào việc tổ chức lập ra bộ máy nhà nước. Sự bảo đảm này trước hết thể
hiện trước hết ở chỗ phải có đầy đủ cơ sở pháp lý và các biện pháp tổ chức phù
hợp để nhân dân thể hiện ý chí của mình, phát huy quyền làm chủ bầu ra các cơ
quan đại diện của mình và thông quan hệ thống cơ quan đại diện để lập ra các hệ
thống cơ quan khác. Việc bầu cử đại biểu quốc hội cũng thể hiện rõ được ý kiến
người dân, giúp cho hiệu quả làm việc của Quốc hội được nâng cao.
Nhà nước đã đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý
các công việc nhà nước và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.

Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì việc nhân dân tham gia đông đảo
vào quản lý các công việc nhà nước là cơ sở để dân trực tiếp phát huy sức lực, trí
tuệ và vai trò làm chủ của mình trong quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của nhà
nước, của tập thể và cá nhân. Công dân chỉ cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà
luật định và có năng lực đều được tham gia đóng góp sức mình cho các công
việc nhà nước.
Nhà nước có cơ chế đảm bảo cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám
sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và
cá nhân khác được trao những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc
của nhà nước. Từ đó đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng mục đích
phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chống những biểu hiện tiêu cực như
quan liêu, hách dịch, tham nhũng, xa rời quần chúng của đội ngũ cán bộ nhà
nước.
Trong những năm gần đây, số lượng và chất lượng của nhân dân lao động
trong các tổ chức xã hội như Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, hội, hiệp hội,
liên hiệp, câu lạc bộ tăng lên đáng kể. Đánh giá cao hơn cả ở đây là sự tự
nguyện, tích cực tham gia vào các tổ chức xã hội này. Điều này chứng tỏ việc
vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào QLHCNN trong
QLHCNN ở nước ta hiện nay có hiệu quả to lớn. Mặt khác, nhà nước cũng có
những chính sách tạo điều kiện cho người dân lao động tham gia và sự phát triển
của tổ chức xã hội.
2. Hạn chế:
Hiến pháp quy định nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước thông qua việc trưng cầu ý dân nhưng hiện nay vấn đề trưng cầu ý

9


dân chưa được triển khai thực hiện, Luật trưng cầu dân ý vẫn đang chỉ là một dự
án. Việc tiếp dân và giải quyết những thắc mắc cho nhân dân của các đại biểu

Quốc hội vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả của hoạt động này chưa cao.
Việc tham gia vào các hoạt động tự quản ở địa phương của nhân dân thực hiện
chưa được đồng bộ, mạnh mẽ mà chỉ lẻ tẻ ở một số đơn vị. Việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo cho người dân chưa được thực hiên tốt. Nhiều đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân chưa được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết
hợp lý gây mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền.
Mối quan hệ giữa người đại diện (đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng
nhân dân) với nhân dân vẫn còn khoảng cách khá xa và lỏng lẻo. Những người
được bầu vẫn đại diện cho nhân dân một cách chung chung, mà không phải là
cho những cộng đồng lợi ích cụ thể, nên chưa có sự gắn bó giữa người được bầu
với cử tri. Nó thể hiện ở chỗ người được bầu không cần đi vận động, không cần
hứa hẹn với cử tri vẫn được bầu và khi đã trúng họ không rõ những nguyện vọng
mà người bầu ra họ là những gì. Trong thời gian đảm nhiệm trọng trách đại biểu
của dân, theo quy định, họ phải tiếp xúc cử tri trước và sau các kỳ họp để nắm bắt
ý kiến của nhân dân, nhưng cơ chế bắt buộc họ phải tiếp nhận và trực tiếp xử lý
những vấn đề cụ thể của người dân yêu cầu là không có.
Việc thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện sự tham gia quản lý của nhân
dân bằng và thông qua các cơ quan đại biểu rõ ràng vẫn còn nhiều hạn chế. Ngoài
sự hạn chế từ những cơ chế quy định hiện hành, bản thân người dân, do trình độ
nhận thức, nhất là trình độ pháp lý, cũng chưa thấy hết được quyền lợi và nghĩa
vụ của mình đối với việc tham gia quản lý nhà nước, chưa làm hết sức mình khi
tham gia quản lý nhà nước ở hình thức này. Nó thể hiện ở sự bỏ phiếu lấy lệ, cho
xong của nhiều người trong các lần bầu cử.
* Nguyên nhân.
Thứ nhất là do nhận thức xã hội, nhận thức của những người quản lý. Mặc
dù hiện nay tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân đã được phổ biến trong xã hội nhưng việc nhận thức đúng về tư
tưởng này vẫn còn khoảng cách. Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở
người dân. Ngược lại chính người dân cũng coi đó chỉ là nhiệm vụ của các cơ
quan Nhà nước mà không phải là của mình.

Thứ hai, trình độ dân trí nhất là trình độ hiểu biết pháp luật của người dân
còn rất hạn chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp
10


mà ý thức chấp hành pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy khi tham
gia vào công việc quản lý hành chính Nhà nước người dân vẫn còn đang rất lung
túng.
Thứ ba,việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân
được các cơ quan Nhà nước thực hiện cũng chưa thật khoa học. Nhiều văn bản
quy phạm pháp luật được tổ chức lấy ý kiến của người dân chưa thật sự hướng
vào các đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân
đưa ra chậm và luôn bị tránh né làm giảm long tin và nhiệt tình của nhân dân.
* Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc
nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính Nhà nước.
-Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội
và Hội đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân,
phản ánh được ý chí, nguyện vọng của người dân.
-Tiếp tục đẩy mạnh cải cách nên hành chính Nhà nước, đổi mới cơ cấu tổ chức
và phương thức hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Mở rộng sự công khai,
minh bạch, tạo cơ hội để người dân nằm bắt được các công việc của Nhà nước
một cách chủ động, thiết thực và hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước, công chức trong việc tiếp thu ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
-Tiếp tục có các biện pháp giáo dục, nâng cao trình độ nhất là ý thức chính
trị, tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức
hơn nữa trong việc tham gia vào công việc xã hội và hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Quản lý hành chính là một vấn đề phức tạp. Việc vận dụng nguyên tắc nhân
dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước là một điều

cũng rất khó khăn. Tuy nhiên chính nguyên tắc này này cũng khẳng định vai trò
hết sức đặc biệt của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đồng
thời xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo
những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động được tham gia vào quản lý hành
chính nhà nước.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà nội, nxb Công
an nhân dân.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội.
4. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
5. Luật Mặt trận tổ quốc Việt nam.
12


6. Luật cán bộ, công chức.
7. Luật tổ chức Chính phủ.
8. http:// www.tapchicongsan. Org.vn.

13



×