1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như các bạn đã biết, trong điều kiện kinh tế phát triển đang trên con
đường hội nhập, đất nước chúng ta phải giao lưu với nhiều nền văn hóa khác
nhau. Làm thế nào để thế hệ trẻ của chúng ta “Hòa nhập mà không hòa tan”
trong mỗi chúng ta vẫn giữ được những gì gọi là văn hóa của dân tộc việt trong
thời đại mới. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghê, sự cạnh
tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi
mới thực chất là cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay về nguồn lực và khoa
học, công nghệ vì vậy nghị quyết số 29-NQ/TW của ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI đã xác định:“Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”
[1]. Đổi mới căn bản phải đảm bảo tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, phù hợp
với từng loại đối tượng và cấp học, các giải pháp đồng bội, khả thi, có trọng tâm,
trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước. Đảng và nhà nước ta rất
quan tâm trong vấn đề vị trí của giáo dục mầm non trong chiến lược “Phát triển
nguồn lực con người ” sự phát triển thể lực của trẻ em mầm non hiện nay như
thế nào.
Chăm sóc - giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc
sống là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
sự nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người
tương lai của đất nước. Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em sinh ra có
quyền được chăm sóc và bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và
cộng đồng. Vì thế, giáo dục con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa
là nghĩa vụ của mỗi con người đối với xã hội, đối với cộng đồng. Trẻ em là công
dân của xã hội, là thế hệ tương lai của đất nước nên ngay từ thuở lọt lòng chúng
ta cần chăm sóc giáo dục trẻ thật chu đáo. Đặc biệt, giáo dục thể chất cho trẻ
càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi trong nghị quyết Trung ương 4 về những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân có ghi
rõ: “Sức khoẻ là cái vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội là nhân
tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [2].
Phát triển thể chất là một trong năm mặt phát triển toàn diện cho trẻ ở
trường mầm non thông qua nhiều nội dung chăm sóc nuôi dưỡng phát triển các
vận động tinh - vận động thô cho trẻ…chúng ta có thể khẳng định rằng một cơ
thể khỏe mạnh luôn là tiền đề cho mọi tài năng, trẻ hoạt động thể chất thỏa mãn
nhu cầu vận động tạo cho tinh thần được sảng khoái, cơ thể khỏe mạnh phát
triển cân đối, hài hòa là một biểu hiện của nét đẹp về hình thể, các bài vận động
có nhịp điệu kết hợp với âm nhạc giúp trẻ cảm nhận được tốt hơn, dứt khoát các
động tác nhất là hoạt động phát triển các cử động bàn tay, ngón tay giúp phát
triển các vận động tinh tế khéo léo. Nhưng trên thực tế các bậc phụ huynh có xu
hướng sợ con mình bị va chạm, tổn thương khi vận động nên thường hạn chế
cho trẻ vận động, cho trẻ chơi các thiết bị điện tử. Vậy làm thế nào để thay đổi
được nhận thức của các bậc phụ huynh vấn đề phát triển sức khỏe cho trẻ qua
1
các hoạt động mang đến cho trẻ một thể lực phát triển cân đối để nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trong nghành học mầm non nói chung và trường mầm
non Hạ Trung nói riêng việc hình thành rèn luyện ở trẻ những nhân cách ban đầu
để trở thành công dân tí hon hoàn thiện. Vì tất cả lý do này tôi mạnh dạn chọn đề
tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng vận động nhằm phát triển thể chất cho
trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non Hạ Trung” tôi không ngừng suy nghĩ,
học tập và sáng tạo, bằng tất cả nỗ lực, cố gắng đó tôi cảm thấy một phần nào ý
nguyện của mình đã thực hiện được.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, các nhiệm vụ giáo dục
thể chất được hoàn thành bằng các hình thức khác nhau hình thức giáo dục thể
chất ở trường mầm non là sự tổng hợp giáo dục về những hoạt động vận động
nhiều dạng của trẻ, mà cơ bản là tính tích cực vận động của chúng. Sự tổng hợp
những hình thức đó tạo nên một chế độ vận động nhất định, cần thiết cho sự phát
triển đầy đủ về thể chất và cũng cố sức khỏe cho trẻ.
Là hình thành ở trẻ tính tự tin, mạnh dạn, hoàn thiện các kỹ năng, kỹ sảo
khi vận động. Giúp cho giáo viên ứng dụng các phương pháp, biện pháp dạy học
tích cực nhằm cho trẻ có đủ năng lực sẵn sàng cho trẻ vào lớp một.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
“Một số biện pháp rèn kỹ năng vận động nhằmphát triển thể chất cho
trẻ 5 - 6 tuổi trong trường mầm non Hạ Trung”
Việc sử dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả phát triển thể chất cho trẻ
5-6 tuổi. Để đáp ứng được mục tiêu giáo dục hiện nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết; Tham khảo, nghiên
cứu tài liệu hướng dẫn về phương pháp, kỹ năng.Với mục tiêu chung là nâng cao
chất lượng giáo dục phát triển vận động giúp cơ thể trẻ phát triển các tố chất vận
động(nhanh, bền, dẻo dai và khéo léo) góp phần nâng cao tầm vóc và thể lực của
trẻ.
- Giúp cho giáo viên ứng dụng các phương pháp, biện pháp dạy học tích
cực gây hứng thú nhằm nâng cao chất lượng phát triển vận động cho trẻ ở
trường mầm non. Tôi tiến hành sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp một
số tuyển tập nói về các trò chơi dân gian, vè, ca dao, đồng dao, sưu tầm qua báo,
qua mạng…về các bài tập vận đông cho trẻ.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Sử dụng phiếu điều tra về nhận thức, thái độ về tổ chức luyện tập thể
chất và sự hiểu biết ý nghĩa, vai trò của trò của lĩnh vực thể chất của trẻ ở trường
Mầm non Hạ Trung – huyện Bá Thước.
- Trao đổi với giáo viên về việc tổ chức Tập luyện các bài tập thể dục
nhằm thu thập thông tin để phát hiện thực trạng và làm sáng tỏ các thông tin thu
nhận được từ phương pháp điều tra.
2
- Trao đổi với trẻ trong quá trình tập luyện để hiểu rõ thái độ chơi, kỹ
năng chơi tập, kết quả tập các bài tập phát triển thể chất làm cơ sở cho những đề
xuất khi tổ chức cho trẻ rèn kỹ năng tập luyện thể chất.
1.4.3. Phương pháp quan sát sư phạm.
Quan sát và ghi chép hoạt động của trẻ kết hợp trao đổi để tìm hiểu hứng
thú, thái độ, khả năng luyện tập của trẻ.
- Quan sát và ghi chép quá trình tổ chức tập luyện các bài tập thể dục cho
trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi tại trường Mầm non Hạ Trung.
1.4.4. Phương pháp thi đua: Giúp trẻ tham gia tích cực vào hoạt động,
khơi dậy ở trẻ lòng nhiệt tình, sự phấn khích mong muốn được dành chiến thắng
1.4.5. Phương pháp thực hành, trải nghiệm: Là hướng đến ý thức của
trẻ, đối với trẻ mầm non lời nói cụ thể, rõ ràng có sức hút lôi cuốn trẻ là một
trong những phương tiện nhận thức đặc biệt gần gủi với trẻ.
1.4.6. Phương pháp thống kê, sử lí số liệu.
Sử dụng một số công thức toán học thống kê như tính tỉ lệ %, tính điểm
trung bình, để sử lí số liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến.
Quyết định 55 của bộ giáo dục qui định mục tiêu, kế hoạch đào tạo của
Nhà trẻ - Mẫu giáo Hà Nội, 1990 trang 6 ghi rõ mục tiêu giáo dục mầm non là:
"...Hình thành ở trẻ những cơ sở đầu tiên của nhân cách con người mới XHCN
Việt Nam[3].
- Khỏe mạnh – Nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hài hòa cân đối
Vận động là nhu cầu tự nhiên của cơ thể, đặc biệt là với cơ thể đang phát
triển như trẻ mầm non. Vai trò vận động đối với cơ thể trẻ đã được các nhà khoa
học khẳng định ngay từ thế kỉ XVIII: "Cơ thể không vận động giống như nước
trong ao tù", "Nguyên nhân chậm phát triển của cơ thể hài nhi là do thiếu
vận động" [4]. Ngày nay khoa học đã chứng minh được rằng: phần lớn những
trẻ ít vận động thì các vận động phức hợp và chức năng thần kinh thực vật
thường kém phát triển, hoạt động hệ tuần hoàn và hệ hô hấp bị hạn chế, khả
năng lao động chân tay giảm sút, trọng lượng cơ thể tăng nhanh.
Vận động có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của cơ thể, ở
mỗi một giai đoạn thì nhu cầu vận động của trẻ là khác nhau. Vì vậy khi lập
chương trình giáo dục thể chất nhằm phát triển vận động cần dựa trên những cơ
sở sau:
+ Các bài tập vận động phải phù hợp với từng độ tuổi làm sao gây được
hứng thú cho trẻ.
3
+ Các bài tập vận động có tác dụng chung đến toàn bộ cơ thể, kích thích
được nhiều cơ bắp tham gia thúc đẩy sự hoạt động của toàn bộ các hệ cơ quan
trong cơ thể.
+ Cùng với việc dạy trẻ các bài tập vận động chúng ta cũng phải chú ý
đến việc phát triển các kỹ năng, tố chất vận động.
+ Cần tăng cường ưu tiên các nhóm cơ bắp còn yếu về mặt sinh lý và giáo
dục tư thế đúng cho trẻ, giúp trẻ có một thân hình cân đối, các động tác nhẹ
nhàng chính xác.
+ Sự phát triển vận động được thực hiện thông qua nhiều hình thức phong
phú phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo như trò chơi vận động, thể
dục sáng, tiết học thể dục, dạo chơi, các trò chơi thể thao lao động.
Do đó phát triển tính tích cực vận động trong giáo dục thể chất cho trẻ em
cần được tiến hành một cách mạnh mẽ, toàn diện, cần được sự quan tâm ủng hộ
của toàn xã hội, tạo điều kiện cho trẻ phát triển tốt nhất.
Trẻ em là tương lai, là nền móng của dân tộc là sự phát triển tiến bộ của
quốc gia. Khi nói đến thể chất chúng ta có thể nghĩ ngay rằng đó là chất lượng
của cơ thể con người có thể sử dụng vào thực tiễn một việc nào đó trong học tập,
lao động, thể thao… Phạm trù thể chất bao gồm những mặt sau:
Tầm vóc cơ thể: ( Là trạng thái phát triển và hình thái, cấu trúc cơ thể bao gồm
sự sinh trưởng hình thể và tư thế thân người của một cơ thể)[5]. Sinh trưởng
chủ yếu chỉ qua quá trình biến đổi dần về khối lượng cơ thể từ nhỏ đến lớn, từ
thấp đến cao, từ nhẹ đến nặng. Năng lượng tham gia vận đông thể lực của một
cơ thể, đây là một nhân tố hết sức quan trọng nó thúc đẩy và giúp các chức năng
sinh lý của cơ thể phát triển một cách nhịp nhàng. Khả năng thích ứng của cơ
thể đối với môi trường sống với phương châm và lý tưởng sống “Hãy giành tất
cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em” mỗi bậc phụ huynh luôn quan tâm con em
mình mọi lúc, mọi nơi. Mỗi giáo viên cần tạo cho trẻ những cơ hội tốt nhất để
trẻ tham gia hoạt động để cung cấp những kiến thức cơ bản trong chương trình
giáo dục. Nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo, tiếp
tục học hỏi bồi dưỡng bản thân để luôn đổi mới hình thức tổ chức cho trẻ hoạt
động.
Tất cả những nội dung trên cần được tiến hành thường xuyên đối với trẻ.
Đặc biệt để nâng cao các tố chất vận động ở trong trẻ thì giáo viên phải tự tạo
dựng lên những bài tập, giáo án hay, đồ dùng đồ chơi đẹp mắt phù hợp với trẻ,
tích hợp nội dung giáo dục thể chất với các hoạt động khác nhau trong cuộc
sống hàng ngày ở lớp một cách cụ thể, có hiệu quả thì mới mong thực hiện được
yêu cầu đó. Muốn vậy chung ta cần sử dụng đúng và đầy đủ các phương pháp cơ
bản của giáo dục thể chất. Đối với trẻ mầm non lời nói cụ thể rõ ràng, có sức hút
4
lôi cuốn trẻ có hình ảnh của giáo viên thực hành là một trong những phương tiện
đặc biệt gần gũi để hiểu đối với trẻ. Trẻ tham gia tích cực hoạt động, khơi dậy ở
trẻ lòng nhiệt tình, sự phấn khích mong muốn dành chiến thắng.
Trong chương trình giáo dục mầm non, bộ môn giáo dục thể chất là môn
nghệ thuật hết sức gần gũi với trẻ là hoạt động được trẻ yêu thích, là nguồn hứng
thú mạnh mẽ để trẻ cảm thụ nghệ thuật và nó còn là phương tiện thiết thực cho
các hoạt động giáo dục khác. Năm nay tôi được phân công dạy lớp 5- 6 tuổi tổng
số trẻ 26 trẻ, chưa mạnh dạn tự tin vào khả năng của mình… Tôi tiếp tục nghiên
cứu, tìm tòi học hỏi vốn kinh nghiệm làm thế nào để trẻ vận động các kỹ năng,
kỹ sảo một cách thuần thục mà không gây nhàm chán thích tìm hiểu về các bài
tập tôi đã trực tiếp áp dụng vào lớp mình.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi.
Dưới sự chỉ đạo của sở giáo dục đào tạo Thanh Hóa, Phòng giáo dục đào tạo huyện Bá Thước, trường mầm non Hạ Trung đã liên tục thực hiện đổi
mới các hình thức giáo dục trẻ mầm non với mong muốn để trẻ phát triển toàn
diện trong đó có hoạt động giáo dục thể chất.
Trường rộng rải thoáng mát, là khu trung tâm của xã nên rất thuận tiện
cho phụ huynh đưa đón trẻ và đầy đủ các phòng học rộng rãi, bàn ghế ngồi
đúng quy cách. Sân chơi ngoài trời rộng cho trẻ học và chơi. Có cây xanh trong
sân trường tạo khoảng không gian vui chơi mát mẻ cho hoạt động thể dục. Nhà
trường thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, tổ chức hội
thi đồ dùng đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập. Trường liên tục đạt tiên
tiến cấp huyện, chất lượng giảng dạy càng được nâng cao, được phụ huynh tin
tưởng số lượng trẻ ngày một đông.
Năm học 2017– 2018 được sự phân công của ban giám hiệu nhà trường
tôi chủ nhiệm lớp 5 - 6 tuổi, sĩ số trẻ là 26 trẻ trong đó có 10 trẻ gái và 14 trẻ
trai. Độ tuổi đồng đều cũng là thuận lợi cho việc truyền thụ kiến thức cho trẻ,
100% trẻ sống ở vùng nông thôn là con em nông dân, các trẻ rất hiếu động,
thông minh ham học hỏi, lớp học được gần khu trung tâm cha mẹ trẻ cũng biết
được nhu cầu của con em mình trong độ tuổi 5- 6 tuổi là rất cần được học bộ
môn giáo được thể chất và hiểu được tầm quan trong khi đưa trẻ đến trường để
học tập và rèn luyện. Duy trì trẻ ăn bán trú tại trường, trẻ có cùng độ tuổi mạnh
dạn, tự tin trong giao tiếp.
Là một giáo viên trẻ, với tấm lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình, tích cực
tham gia trong công việc, nghiên cứu các phương pháp. Bản thân luôn học hỏi
đồng nghiệp, đồng chí giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm, thành tích trong
giảng dạy.
Sưu tầm các tài liệu, tập san về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ được nhà
trường, phòng giáo dục cấp kịp thời. Đặc biệt nhà trường có máy vi tính kết nối
internet tạo điều kiện cho tôi cập nhật thông tin mới một cách nhanh chóng và
thuận tiện. Được sự quan tâm của bán giám hiệu nhà trường tạo điều kiện cho
giáo viên thường xuyên được tổ chức thăm lớp, dự giờ rút kinh nghiệm.
5
2.2.2. Khó khăn.
Bên cạnh thận lợi trên khi đi vào thực tế trong quá trình giảng dạy tôi còn
gặp phải một số khó khăn như sau:
Tuy nhà trường đã quan tâm mua sắm một số đồ dùng đồ chơi, dụng cụ
luyện tập cho trẻ xong để đáp ứng với mục tiêu phát triển thể chất cho trẻ còn
thiếu, đồ dùng trực quan chưa hấp dẫn đối với trẻ.
Các trẻ ở nông thôn, 100% gia đình bố mẹ trẻ sống và làm việc bằng nghề
nông nghiệp nên nhiều trẻ bố mẹ cũng ít có thời gian quan tâm chăm sóc đến
con cái, ít có điều kiện cho trẻ đi chơi ở khu vui chơi giải trí, trẻ không được
tham gia những trò chơi có có cảm giác mạnh mẽ, cần sự mạo hiểm nên khi học
thể dục các bài tập vận động mạnh là trẻ còn sợ. Khả năng nhận thức của trẻ
không đồng đều dẫn đến kết quả học tập chưa cao. Tâm lý của trẻ lứa tuổi này
đang phát triển nên trẻ lại chóng nhớ mau quên. Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
việc dạy học chưa phong phú. Nguồn thu của nhà trường còn thấp nên chưa có
điều kiện đầu tư nhiều cho các trang thiết bị đồ dùng đồ chơi trong giảng dạy.
Là một trong những trường thuộc vùng nông thôn, đa số phụ huynh làm
nông nghiệp ít có điều kiện quan tâm đến con cái. Họ đưa con đến trường rồi
phó mặc việc giáo dục trẻ cho giáo viên, cho con đi học chỉ cần biết cái chữ, số,
biết viết chữ cái, còn lại các việc khác không quan tâm. Đặc biệt là vấn đề phát
triển thể lực cho trẻ, không có công viên hay khu giải trí trẻ không được trải
nghiệm những cảm giác mạnh từ đó trẻ không tự tin khi tham gia hoạt động thể
dục. Do vậy sức khỏe của trẻ trong toàn trường nói chung và lớp tôi nói riêng là
không được đồng đều. Trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ giáo viên chưa
có nhiều hình thức tổ chức linh hoạt sáng tạo vào hoạt động khiến trẻ gò bó chưa
hứng thú học cho nên giờ hoạt động thể chất chưa đạt hiệu quả cao.
2.2.3.Kết quả khảo sát đầu năm học.
Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng.
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
Nội dung
Tổng
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém
đánh giá
số trẻ
SL TL SL TL SL TL SL TL
TL
0
%
%
%
%
%
Sự tập trung chú ý,
hứng thú của trẻ khi 26
7
27 8
31 10 38 1
4
0 0
tham gia vận động.
Trẻ tích cực tự giác 26
6
23 9
35 10 38 1
4
0 0
trong giờ học
Trẻ khỏe mạnh,
26
nhanh nhẹn, có thể
6
23 10 38 9
35 1
4
0 0
lực tốt
Trẻ có các kỹ năng,
26
7
27 8
31 10 38 1
4
0 0
kỹ xảo vận động tốt
6
* Nhận xét: Bài tập 1 và bài tập 2.
Sau hai bài tâp trẻ thường mắc lỗi sau:
+ Trẻ tung không đúng cách.
+ Trẻ sợ tung lên sẽ không đón được bóng.
+ Tâm lý của trẻ còn sợ không giám lên thực hiện và còn khóc.
* Nguyên nhân:
Qua một thời gian tìm tòi suy nghĩ bằng việc sử dụng một số biện pháp
như động viện khuyến khích trẻ thực hiện, tôi đã tìm ra một số nguyên nhân dẫn
tới tỷ lệ dạt được của trẻ còn thấp đó là:
+ Do đồ dùng chưa đẹp, chưa hấp dẫn trẻ, ít đồ dùng sáng tạo nên chưa
thu hút được trẻ.
+ Các hình thức tổ chức thi đua luyện tập tinh thần cổ vũ bạn chưa sôi
nổi. Trong quá trình giảng dạy cô giáo còn hạn chế ngôn ngữ, nói chưa rõ ràng,
cụ thể, do tâm lý của trẻ ít được tham gia chơi theo mục đích yêu cầu mà trẻ
thường chơi tự do nên khi gắn vào hoạt động có chủ định trẻ lại sợ mình không
thực hiện được các bạn sẽ cười…
Trong hoạt động giáo dục thể chất là lĩnh vực không thể thiếu được đối
với mỗi giáo viên và phát triển của trẻ. Sự vận động phát triển của trẻ phải được
thông qua các bài tập vận động thể dục thường xuyên trong trường mầm non sẽ
giúp trẻ phát triển các tố chất vận động vốn có cũng như giúp trẻ có được một cơ
thể khỏe mạnh. Từ những hạn chế và khuyết điểm trên cần phải có nổ lực của
giáo viên, mà còn nhờ sự giúp đỡ kết hợp giữa gia đình và nhà trường, cũng
nhận thức được tình hình thực tế hiện nay tôi suy nghĩ và tìm ra những biện
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ một cách thiết thực và đạt
kết quả cao nhất tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp thực hiện như sau:
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Biện pháp 1: Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hạy học.
Đất nước ta hiện nay đang trong giai đoạn phát bùng nổ công nghệ thông
tin, để đáp ứng yêu cầu của xã hội hiện nay các cấp học rất cần thiết được ứng
dụng cộng nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào trường mầm non sẽ làm đa dạng hóa hình thức dạy học giúp trẻ
được thay đổi không khí mới, hấp dẫn trong giờ học, tạo cho trẻ niềm hứng thú
hăng say tích cực tham gia vào hoạt động, làm cho hoạt động giáo dục cao. Đặc
biệt giúp giảm bớt đồ dùng không cần thiết, giảm bớt sức lao động sự vất vả của
giáo viên.
Để dạy trẻ tôi không chỉ sưu tầm trên mạng các bài tập thể dục sáng theo
lời của các bài hát để lôi cuốn sức hấp dẫn của trẻ vào hoạt động đầu tiên của
một ngày đến trường của bé. Qua các bài âm nhạc này trẻ cảm thấy vận động
thích thú và vui tươi hơn, với các bản nhạc sôi động kích thích trẻ tham gia thi
đua sôi nổi. Tôi còn tìm các trò chơi trong phần mềm cài đặt có nội dung liên
quan đến kiến thức cần truyền đạt, các động tác tư thế để dạy trẻ cho phù hợp
với bài học hơn.
7
Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy tôi thấy các trẻ thích thú khi
được thay đổi không khí, có ý thức, say sưa và tích cực tham gia học tập hơn.
Ngoài những hình thức trên bản thân tôi còn
2.3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý trẻ.
Tôi thường xuyên đến từng nhà để động viên các phụ huynh cho con em
mình ra lớp, qua đó tìm hiểu hoàn cảnh gia đình từng trẻ để rồi kịp thời nắm bắt
được đặc điểm tâm sinh của từng trẻ trong lớp, kịp thời động viên giúp đỡ trẻ
trong học tập, vui chơi trong các hoạt động khác. Ở cùng một độ tuổi, cùng một
năm nhưng có sự chênh lệch về tháng tuổi, nên sự phát triển tư duy ngô ngữ của
trẻ không đồng đều.
Tôi thường động viên khi các cháu gặp khó khăn, chú ý đến những trẻ còn
nhút nhát, khó khăn về kiến thức thì cô đưa ra biện pháp cụ thể hơn, yêu cầu đơn
giản hơn. Ngoài ra còn có quyển sổ theo giỏi kết quả học tập của trẻ tiến bộ đến
đâu, năng khiếu của trẻ như thế nào, để giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng cho trẻ
cũng như môn học khác.
Qua tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy mặt tâm lý nhiều trẻ trong lớp mạnh dạn
tự tin trong trừng hợp này tôi dụng phương pháp nêu gương để phát huy tính
sáng tạo chủ động của trẻ còn những trẻ nhút nhát tôi sử dụng biện phát động
viên khích lệ trẻ, tạo cho trẻ sự tin tưởng mạnh dạn tham gia vào các hoạt động
trên tiết học tốt hơn.
2.3.3. Biện pháp 3: Phối kết hợp với phụ huynh trẻ.
8
(Hình ảnh: Phối kết hợp với phụ huynh trẻ)
Sinh thời Bác Hồ thường nhắc nhở các nhà giáo phải mật thiết liên hệ với
gia đình, nhà trường, xã hội là ba yếu tố không tách rời nhau. Bởi vì giáo dục
nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục của ngoài xã hội và trong gia
đình để giúp cho việc giáo dục trong trường được tốt hơn.
Trường mầm non là nơi cha mẹ trẻ tin tưởng và gửi gắm tất cả vào cô
giáo, trẻ có chăm ngoan khỏe mạnh cha mẹ mới tin tưởng và yên tâm với công
việc. Hằng ngày trẻ tới trường cô chăm sóc cho trẻ từng bữa ăn, giấc ngủ tới các
hoạt động vui chơi. Với quảng hai phần ba thời gian ở cùng với cô, việc trẻ
được tập luyện phát triển thể chất là vấn đề không thể thiếu trong hoạt động học
tập của trẻ và cha mẹ trẻ cũng nhận thức thấy rõ tầm quan trọng của việc phát
triển thể chất đối với trẻ. Hiểu được mối quan tâm của phụ huynh trong việc
chăm sóc và phát triển toàn diện cơ thể cho trẻ, tôi suy nghĩ tìm cách vận dụng
với thực tế tại lớp của mình. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã tuyên
truyền với các phụ huynh về tầm quan trọng của việc giáo dục thể chất đối với
trẻ và sự cần thiết trong việc trang thiết bị cơ sở vật chất cho giảng dạy trẻ ở
trường mầm non, tuyên truyền phụ huynh học sinh ủng hộ mua dép đi trong nhà
vào mùa đông cho trẻ hay tổ chức “Tuần lễ sức khỏe” một cách khoa học sẽ giúp
cho trẻ củng cố được các kỹ năng vận động nhưng rất thoải mái nhẹ nhàng.
Ngoài ra cho trẻ tham gia “Ngày hội sức khỏe” ở cấp trường giúp cho trẻ
thâm gia trực tiếp vào hoạt động thể dục thể thao…Lớp tôi đã có đủ các đồ dùng
dụng cụ cơ bản như ghế thể dục, thang leo, vòng thể dục, gậy thể dục, cờ, nơ
hoa,…cho trẻ khi tập luyện. Đặc biệt phụ huynh nhận thức sâu sắc về sự cần
thiết phải tổ chức các hoạt động phát triển vận động cho trẻ như thông qua một
số việc ở nhà, phụ huynh không nên làm thay trẻ những việc đơn giản mà trẻ
thích làm, cho trẻ trải nghiệm thực tế phù hợp với lứa tuổi như: Nhổ cỏ, bắt sâu,
quét nhà… Qua đó phụ huynh ngày càng tin tưởng khi thấy con mình mạnh dạn
tự tin, thể lực của trẻ ngày càng nâng cao rõ rệt, trẻ khỏe mạnh và tăng cân đều.
2.3.4. Biện pháp 4: Tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ khi tham gia hoạt động
thông qua các hoạt động học tập mà trẻ vẫn cảm thấy được vui chơi.
a. Giờ thể dục sáng.
Như chúng ta đã biết tác dụng của thể dục sáng đối với trẻ em hằng ngày
có ý nghĩa to lớn về giáo dục sức khỏe cho trẻ em, buổi sáng sau khi ngủ dạy tập
thể dục đơn giản tập thường xuyên như vậy cơ thể của trẻ nâng cao hoạt động
các cơ quan của cơ thể, thúc đẩy sự phát triển những kỹ năng vận động cần thiết,
củng cố các nhóm cơ, hình thành tư thế đúng đắn.
Trong giờ thể dục sáng trẻ mặc quần áo thích hợp để dễ vận động với các
dụng cụ gậy thể dục, vòng thể dục, hoa cờ… thể dục phù hợp với các động tác
để tạo hứng thú cho trẻ tập. Giáo viên nên quan sát cách đứng của trẻ, như đứng
thẳng, vai thả đều, không lên gân, tay cử động thoải mái, không cúi đầu… Giữ
cho trẻ tư thế đứng ngay cả khi nghỉ, khi đi bộ, chạy và làm các động tác khác.
Số lần lập lại mỗi bài tập phụ thuộc và tính chất mỗi động tác, cũng như trình độ
năng lực của trẻ, những bài tập khó, có khối lượng lớn chỉ nên lặp lại hai đến ba
9
lần, còn động tác phát triển chung các động tác luyện tập phải thực hiện theo thứ
tự các bộ phận trên cơ thể “ Hô hấp- tay - lườn - lưng - bụng - chân”. Chọn một
số động tác bài tập thúc đẩy sự hình thành tư thế đúng, gây sự hoạt động tích
cực của các cơ quan hô hấp, tuần hoàn, các nhóm cơ.. sẽ rất tốt nếu tổ chức thể
dục buổi sáng bằng trò chơi vận động thay đổi theo chủ đề mà trẻ học. Sự đa
dạng đó thụ thuộc vào óc tưởng tượng của mỗi chúng ta để lôi cuốn trẻ.
b. Trong giờ học thể dục.
* Khởi động.
Khi tổ chức một tiết thể dục bám vào kế hoạch năm, trước hết tôi phải lựa
chọn nội dung bài dạy sau khi xác định mục tiêu cần đạt sau bài dạy, giờ thể dục
gồm có ba phần: Khởi động, trọng động, hồi tỉnh. Mỗi phần giải quyết một
nhiệm vụ nhất định, các phần có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau để trẻ tập trung chú ý
giáo viên sử dụng tín hiệu khác nhau như: xắc sô, nhạc, trống… làm tín hiệu để
thu hút trẻ. Tuy nhiên trong tiết học giáo viên nên sử dụng các khẩu lệnh, mệnh
lệnh phù hợp với thực tế của lớp mình dạy như: “Nghiêm, nghỉ, đi, chạy, dừng
lại…” rõ ràng dứt khoát và lôi cuốn sự tập chung chú ý của trẻ có thể tiến hành
phần khởi động như sau:
Giáo viên cho trẻ đi vòng tròn khép kín, giáo viên đi vào phía trong của
vòng tròn ngược chiều với trẻ để theo dõi và điều khiển trẻ tập, cho trẻ đi kết
hợp với các kiểu đi: đi kiễng gót chân,đi mũi bàn chân, đi chậm, chạy nhanh,
chạy chậm…cuối phần khởi động giáo viên cho chơi trò chơi nhẹ nhàng
“chuông reo ở đâu, tiếng ai gọi, bạn ở phía nào của con…” ngoài ra tùy theo mỗi
phần có thể kết hợp những bài hát, bản nhạc cho trẻ thoải mái hứng thú trong khi
luyện tập trước khi chuyển sạng phần trọng động.
*Trọng động:
Trong những động tác mới hoặc động tác cũ hay nâng cao trình độ luyện
tập của trẻ, rèn luyện phát triển thân thể toàn diện và các tố chất thể lực. Bồi
dưỡng và giáo dục và ý chí, phẩm chất đạo đức tốt cho trẻ, khi thực hiện bài tập
phát triển chung nhằm phát triển và rèn luyện các nhóm cơ chính: cơ bả vai, cơ
chân, cơ mìnhnhững động tác phát triển hệ hô hấp những động tác hỗ trợ cho bài
tập vận động cơ bản.
Khi tập cho trẻ cần các dụng cụ như cờ, nơ, gậy thể dục…..các dụng cụ
phải phù hợp với vận động và không gây mệt mỏi cho trẻ, dụng cụ đó phải tạo
cho trẻ lượng vận động chính xác, được sắp đặt theo từng thể loại để dễ lấy và
phân phát nhanh gọn phù hợp với mỗi bài tập.
Ví dụ: Trong chủ đề gia đình: Tôi cho bài tập vận động cơ bản là “Bật liên
tục qua năm vòng, trò chơi chuyền bóng” khi chọn bài tập phát triển chung giáo
viên lưu ý chọn động tác chân bật và tập động tác này số lần nhiều hơn các động
còn lại. Hoặc bài tập vận động cơ bản là “bật xa” nhiệm vụ chính tập cho trẻ biết
nhún chân, giáo viên chọn bài tập phát triển chung có động tác đứng lên ngồi
xuống nhiều hơn. Làm đầu cho trẻ làm quen thì giáo viên phải làm mẫu toàn bộ
sau đó chú ý tư thế bật của chân cuối cùng là cách vung tay bật nhún, khi trẻ
10
nắm được phần cơ bản của bài tập giáo viên cho trẻ làm mẫu của bạn mình rồi
nhận xét chọn vị trí tập sao cho tất cả các trẻ đều quan sát được.
(Biện pháp 4 – Hình ảnh: Bài tập vận động bật liên tục qua năm vòng)
Dạy cho trẻ thực hiện bài tập “bật liên tục qua năm ô vòng” cô giáo có thể
gợi ý, đố các các con cô có mô hình vòng như thế nào thì chúng mình sẽ vận
động thế nào?
+ Hôm nay cô sẽ cho các con tập bài bật liên tục qua năm vòng.
+ Lớp đồng thanh.
+ Cô làm mẫu lần một
+ Cô làm mẫu lần hai giải thích: Tư thế chuẩn bị hai chân sát vạch, hai tay
chống hông, mắt nhìn thẳng về phía trước khi có hiệu lệnh hai gối khuỵu xuống
lấy đà bật liên tục vào năm ô vòng sau đó về cuối hàng.
+ Lớp thực hiện lần lượt (cô quan sát sửa sai).
+ Chia hai nhóm thi đua thực hiện“cô bao quát sửa sai.
Ví dụ: Trong chủ đề thế giới thực vật - tết nguyên Đán: Trong bài tập:
Ném trúng đích nằm ngang, Cô giới thiệu phần thi thứ ba “Vượt qua thử thách”.
Trong phần thi này sau mỗi một vận động hai đội sẽ được ban tổ chức dành tặng
những bông hoa rất đẹp. Để đón chờ xem đội nào dành được nhiều hoa nhất,
ngay bây giờ chúng ta bước vào vận động đầu tiên, trong quá trình trẻ thực hiện.
Nếu trẻ thực hiện chưa được thì cô thực hiện lai cho trẻ xem.
* Trò chơi vận động.
Cũng cố và hỗ trợ cho bài tập vận động cơ bản giáo viên lựa chọn những
trò chơi cơ bản như trò chơi: Tín hiệu, chó sói xấu tính, bắt chước tạo giáng, cáo
và thỏ, kéo co, chuyền bóng… hay trong bài tập vận động đi, chạy, thì trò chơi
vận động là đi, chạy theo tín hiệu, bật liên tục qua năm vòng thì trò chơi vận
động là “ kéo co”. Mục đích nhằm rèn luyện những kỹ năng vận động cơ bản.
11
Trò chơi vận động có ảnh hưởng tích cực đến các hoạt động của các cơ
quan trong cơ thể trẻ thông qua để hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động, khi
tham gia trò chơi trẻ tích cực chủ động sáng tạo vì thế “ Trò chơi vận động” còn
là phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ. Ngoài ra hoạt động tự do của trẻ có
vai trò quan trọng trong việc phát triển vận động và tinh thần cho trẻ, hằng ngày
tôi giành ít thời gian cho trẻ chơi vận động chạy, nhảy, tham gia chơi các trò
chơi sẵn có trong sân, dụng cụ thể dục, trò chơi dân gian đơn giản, lao động
chăm sóc sân vườn, vệ sinh đồ chơi trong sân.
* Hồi tỉnh.
Đưa cơ thể về trạng thái bình thường sau quá trình vận động liên tục, giáo
viên phải làm cho trẻ cảm giác thoải mái, phấn khởi đỡ mệt mỏi, giáo viên có
thể tiến hành nhiều hình thức: cho trẻ đi vòng tròn, hít thở….
2.3.5. Biện pháp 5: Tận dụng môi trường ở mọi lúc, mọi nơi và lồng
tiết học dưới hình thức “học mà chơi, chơi mà học”.
Với phương châm “Học mà chơi, chơi mà học”, vui chơi là hoạt động chủ
đạo nên trong quá trình tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cô cho trẻ thường
xuyên sử dụng trò chơi trong tiết học có vận động để nhằm mục đích ôn luyện
và cũng cố kiến thức cho trẻ. Với tính chất của trò chơi là vui nhộn, trẻ được
hành động bằng tay, chân, được chạy, nhảy nó đã tạo nên các tố chất ở trẻ, nó đã
lôi cuốn và thu hút sự chú ý tập trung cao độ ở trẻ và trẻ tham gia tích cực vào
hoạt động.
Vào các buổi trong ngày tôi luôn tìm cách giáo dục thể chất cho trẻ ở mọi
lúc mọi nơi và kết hợp vào tất cả các hoạt động trong một ngày của trẻ, giờ đón
trẻ tôi cho trẻ tự do lên xuống các đồ chơi ngoài trời, kể cả các đồ chơi mạo
hiểm cô yêu cầu cao hơn mức mà đồ chơi trẻ chơi, cô cho trẻ chạy theo cô với
các bài chạy nhanh hay chậm mà chương trình đã dạy.
* Trong giờ hoạt động học có chủ định:
a. Hoạt động: Thể dục:
Hoạt động giáo dục thể chất thật sự thu hút đối với trẻ nếu giáo viên biết
khai thác và tìm tòi để đưa những đề tài hay, mới lạ dưới nhiều hình thức:
Tổ chức chương trình “ Chúng em là chiến sỹ, hội khỏe phù đổng, hội thi bé
khỏe, bé ngoan…” giúp trẻ cảm hấy hứng thú và phấn kích để tham gia mà
không cảm thấy tẻ nhạt, nhàm chán.
Ví dụ: Trong chủ đề nghề nghiệp: Tôi cho trẻ tập bài tập: “Bò chui qua
cổng, trò chơi kéo co”. Tôi tổ chức chương trình “Chúng em là chiến sỹ” trẻ
được đóng làm các chú bồ đội đến từ các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa với
những cái mũ Sao xanh, Sao đỏ. Tổ chức cho các chiến sỹ tham gia vào các
phần thi.
+ Phần 1: Khởi động: Làm các chiến sỹ hành quân ra thao trường.
+ Phần 2: Trọng động:
+ Bài tập phát triển chung: Cho các chiến sỹ đồng diễn một bài tập thể
dục nhịp điệu trên nền nhạc của bài hát.
12
+ Trò chơi vận động: Chuyền bóng, về đúng nhà, nhảy qua suối… Cô tổ
chức cho trẻ thực hiện có thi đua và thưởng cờ, đến số cờ để tuyên dương đội
thắng cuộc.
b. Hoạt động: Làm quen với toán:
Thông qua các trò chơi ở phần luyện tập mà cô giáo đưa ra cách tích hợp
hoạt động giáo dục thể chất như: Bật nhảy qua suối, bật liên tục qua các vòng…
Qua đó củng cố các kiến thức mà trẻ đã được học và tăng sức hút với trẻ ở khả
năng thi đua.
c. Hoạt động: Làm quen chữ cái:
Khi trẻ được gia học tập làm quen với chữ cái hay tập tô với chữ cái cô
cho trẻ tập các động tác tay hay lườn, lưng sẽ tạo cho trẻ có tâm thế thoái mái để
tiếp tục học tập tiếp và đạt kết quả cao hơn khi thực hành.
d. Hoạt động: Khám phá khoa học. Trẻ được tham gia trải nghiệm với các kiến
thức của bài dạy, khi tập luyện để cũng cố kiến thức giáo viên thường tổ chức
các trò chơi trẻ được chơi khi đó trẻ được chạy nhảy cũng cố góp phần phát triển
thể chất cho trẻ.
e. Các tiết học khác.
Nhiệm vụ phát triển vận động cho trẻ không chỉ trên tiết học mà còn được
tổ chức các môn học khác như vẽ, cắt, xé, đọc thơ, kể chuyện… với hình thức tổ
chức cho trẻ đi dạo chơi, đi thăm quan đã cho trẻ bầu không khí trong lành, ánh
sáng làm thỏa mãn về nhu cầu vận động của trẻ. Giáo dục thể chất thường sử
dụng dưới hình thức trò chơi cần có sự vận động của các vận động của các bộ
phận trên cơ thể trẻ, nó góp phần phát triển thể chất cho trẻ mầm non.
2.3.6. Biện pháp 6: Giáo viên xây dựng môi trường hoạt động thể chất
đảm bảo an toàn cho trẻ .
Để gây hứng thú cho trẻ mỗi khi đến lớp việc tạo môi trường hoạt động là
điều tất yếu, giáo viên xác định nhiệm vụ cụ thể đối với việc tập luyện cho trẻ
lựa chọn các bài tập hoặc trò chơi phù hợp với nhiệm vụ mức độ thể lực của trẻ.
Cần xác định thứ tự các bài tập đã lựa chọn, các phương pháp hướng dẫn, lựa
chọn dụng cụ, nhạc đệm… chuẩn bị trước khi tập, an toàn của dụng cụ, bố trí
dụng cụ cho buổi tập, biết chọn nội dung lồng ghép, tích hợp phù hợp với từng
đề tài.
Ở nông thôn do trình độ hạn chế thái độ nhận thức lại kém, chưa hiểu biết
và còn coi nhẹ nghành học mầm non. Một số bậc phụ huynh chỉ nghĩ rằng: giáo
viên mầm non có cần gì đâu chỉ cần hát hay múa dẻo là được và đặc biệt hơn là
các trẻ chỉ cần học chữ cái là đủ, cô giáo luôn luôn có thái độ tích cực và tôn
trọng các biểu hiện của trẻ, phải tạo cho trẻ bầu không khí thực sự tin tưởng đối
với trẻ, cô giáo cần biết động viên khen gợi kịp thời, hướng trẻ quan sát và kích
thích trẻ thực hiện theo các yêu cầu của cô, trẻ tìm ra và thực hiện yêu cầu của
cô giáo mà bài tập đòi hỏi.
Trẻ mầm non thường thích nhẹ nhàng, tình cảm và ưa dỗ ngọt. Vì vậy nên
trong quá trình giáo dục và dạy dỗ trẻ giáo viên cần phải có thái độ yêu thương,
quý mến trẻ, gần gũi với trẻ, tuyệt đối không quát mắng và dọa nạt trẻ, luôn thể
13
hiện sự dịu dàng, nhẹ nhàng, ân cần và yêu mến trẻ, coi trẻ như chính con đẻ của
mình.
Ví dụ: Chủ đề gia đình trong bài dạy thể dục “Bật liên tục qua năm vòng”
khi cô cho trẻ thực hiện cần động viên, khuyến khích trẻ thực hiện thì trẻ mới
giám bật. Vì một số trẻ do sợ mình không bật được không giám bật, cô cần
hướng dẫn trẻ cách bật liên tục và tuyên dương trẻ thích thú thực hiện và trẻ cảm
thấy rằng: “à! Có gì khó đâu bản thân mình đã thực hiện được rồi”. Đồng thời
qua đó giúp trẻ say sưa và thích thú hơn trong các giờ hoạt động khác. Khi
hướng dẫn cô giáo cần những lời nói nhẹ nhàng, tình cảm, mức độ và cường độ
giọng nói của cô giáo có những lời nói diễn cảm kết hợp cùng với các cử chỉ,
điệu bộ, ánh mắt hiền hậu, dứt khoát từng câu ngắn gọn, động tác để trẻ dễ nhập
tâm dể thực hiện nhất.
Ví dụ: Trong chủ đề nghề nghiệp bài tập vận động cơ bản là bò chui qua
cổng, trò chơi kéo co. Khi cô phân tích động tác nói châm,rõ ràng “À để bò qua
được cổng các chú bồ đội phải rất khéo léo và linh hoạt đấy các con quan sát
xem các chú làm gì trước nhé. Đầu tiên là đứng trước vạch xuất phát cúi người
xuống, hai bàn tay đặt trước vạch xuất phát, mũi bàn tay hướng về phía trước,
các ngón tay chụm lại đầu gối cẳng chân và mũi bàn chân đặt sát sàn, cẳng chân
thẳng ra phía sau… Khi có hiệu lệnh bò phối hợp chân nọ tay kia,bò thẳng
hướng đến cổng thì cúi đầu xuống để bò qua cổng bò tiến đến vạch đích thì
dừng lại, sau đó về cuối hàng.
Khi phân tích động tác của bài tập thể dục thì giọng nói của cô cần ngắn
gọn, dể hiểu, dể thực hiện đối với trẻ. Cô làm mẫu cần tập đúng, chính xác nhẹ
nhàng để có biểu tượng đúng về bài tập vận động và kích thích thực hiện tốt.
(Hình ảnh: Bài tập vận động cơ bản: Bò chui qua cổng)
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với
bản thân, đồng nghiệp, nhà trường:
2.4.1. Đối với giáo dục:
14
Qua một năm học 2017-2018 áp dụng sáng kiến tôi cảm thấy hoạt động
giáo dục thể chất đạt hiệu quả cao hơn so với cách dạy trước đây. Qua đó tạo
cho trẻ hứng thú học. Đồng thời các cháu cũng tích cực và tự tin hơn, tính tự
giác cao.
Sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng trong thời gian qua và chất
lượng trẻ đã được cải thiện rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau:
- Trước khi áp dụng SKKN:
- Bảng 1: Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm học.
Kết quả
Nội dung
đánh giá
Sự tập trung chú ý,
hứng thú của trẻ khi
tham gia vận động.
Trẻ tích cực tự giác
trong giờ học
Trẻ khỏe mạnh,
nhanh nhẹn, có thể lực
tốt
Trẻ có các kỹ năng, kỹ
xảo vận động tốt
-
Tổng
số trẻ
26
26
Tốt
SL TL
%
Đạt
Khá
SL TL
%
TB
SL TL
%
Chưa đạt
Yếu
Kém
SL TL
TL
0
%
%
7
27
8
31
10
38
1
4
0
0
6
23
9
35
10
38
1
4
0
0
6
23
10
38
9
35
1
4
0
0
7
27
8
31
10
38
1
4
0
0
26
26
Sau khi áp dụng SKKN rèn kỹ năng vận động nhằm phát triển thể chất
cho trẻ 5- 6 tuổi năm học 2017-2018
Bảng 2: Kết quả sau khi áp dụng SKKN.
Kết quả
Nội dung
đánh giá
Sự tập trung chú ý, hứng
thú của trẻ khi
tham gia vận động.
Trẻ tích cực tự giác
trong giờ học
Trẻ khỏe mạnh nhanh
nhẹn, có thể lực tốt
Trẻ có các kỹ năng, kỹ
xảo vận động tốt
Tổng
số trẻ
26
26
26
26
Đạt
Chưa đạt
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém
SL TL SL TL SL TL SL TL
TL
0
%
%
%
%
%
10
38
11
42
5
20
0
0
0
0
10
38
12
46
4
16
0
0
0
0
11
42
12
46
3
12
0
0
0
0
9
35
11
42
6
23
0
0
0
0
Qua 2 bảng so sánh cho ta thấy kết quả khảo sát khi chưa thực hiện biện
pháp và bảng sau khi thực hiện biện pháp tôi thấy chất lượng của năm học 2017
- 2018 được nâng lên rõ rệt tỷ lệ trẻ đạt khá, giỏi ở các mức độ đạt 38-> 46%
tăng so với năm học trước là 7-> 8%:
15
+ Trẻ chưa đạt không còn.
+ Khi vận dụng những biện pháp nâng cao bản thân nhận thấy các trẻ rất
hứng thú tham gia, hăng hái tích cực vào các hoạt động của cô đã thu được kết
quả cao. Chứng minh rằng các biện pháp tôi đề ra là phù hợp và cần thiết.
2.4.2. Đối với bản thân:
Để giáo dục thể chất cho trẻ nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng, sau khi
áp dụng SKKN của mình bản thân thấy tự tin hơn khi tổ chức thực hiện và
truyền đạt kiến thức, kỹ năng cho trẻ về phát triển vận động. Và cốt yếu nhất ở
người giáo viên cần phải:
+ Cô giáo phải biết được các đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ, xem
trẻ phù hợp với các bài tập vận động đẻ có phương pháp dạy tích hợp.
+ Cô giáo phải nắm chắc nội dung chương trình,phương pháp bộ môn, rèn
luyện để có kiến thức vững vàng các vận động cơ bản môn thể dục.
+ Cô giáo luôn học tập, sáng tạo, rèn luyện để thể hiện hấp dẫn đối với
trẻ, luôn linh hoạt sử dụng đa dạng hóa các hoạt động để trẻ đỡ nhàm chán và
làm tăng sự tích cực hoạt động của trẻ.
2.4.1. Đối với đồng nghiệp:
- Đây cũng là một cách tổ chức hoạt động đạt hiệu quả tốt được đồng
nghiệp ủng hộ và áp dụng vào hoạt động của mình
2.4.1. Đối với nhà trường:
- Việc đổi mới phương pháp dạy học trong đó có phương pháp nâng cao
hoạt động phát triển cho trẻ chất lượng phát triển thể chất được nâng lên rõ rệt.
từ đó góp phần nâng cao chất lượng đại trà của nhà trường.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Có thể nói không ai có thể phủ nhận vai trò của sứ khỏe đối với sự phát
triển của mỗi người, bởi sức khỏe là vốn quý giá nhất có ý nghĩa sống còn với
con người, đặc biệt là trẻ em dưới sáu tuổi. Ở lứa tuổi này quá trình tăng trưởng
của trẻ diễn ra rất nhanh chóng, việc hoạt động giáo dục thể chất không chỉ tạo
cơ hội trẻ vận động một cách thoải mái tích cực để phát triển thể lực mà qua
hoạt động này trẻ học được tính kỹ luật biết hợp tác chia sẻ cùng bạn.
Giáo dục thể chất hay nói đúng hơn là hoạt động thể dục thực sự gần gũi
với trẻ thơ, đó là hoạt động thường ngày không thể thiếu được nó vừa là nội
dung giáo dục vừa là phương tiện góp phần giáo dục toàn diện nhân cách của
trẻ. Vậy để làm tốt nội dung giáo dục thể chất đòi hỏi giáo viên cần phải có lòng
yêu nghề, mến trẻ… đặc biệt phải có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm biết
xây dựng và sử dụng linh hoạt những phương pháp, biện pháp, các thủ thuật để
đề ra trong tiết học.
Khi xây dựng đề tài nghiên cứu đã thu được kết quả nhất định, những vấn
đề thuộc về lý luận chung và đặc điếm sinh lý lứa tuổi giúp chúng ta thấy rõ khả
năng hoạt động thể chất của trẻ, trên những đặc điểm đó ta có hướng động tác
phù hợp cho quá trình tâm sinh lý của trẻ ngày càng hoàn thiện hơn. Sau một
quá trình nghiên cứu “một số biện pháp rèn kỹ năng nhằm phát triển thể chất
16
cho trẻ 5 - 6 tuổi”, tôi nhận thấy trẻ rất thoải mái, thích thú và có khả năng hoạt
động thể dục rất tốt. Có thể đề ra vận dụng những giải pháp, biện pháp phù hợp
với khả năng vận động thể dục của trẻ, từ đó cô giáo khuyến khích trẻ thực hiện
nhiệm vụ học tập, không áp đặt, gò bó trẻ… các tiết học sao cho nhiều trẻ được
tham gia cô giáo là người dẫn chương hướng dẫn cho trẻ. Như vậy chúng ta đã
góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thể chất cho trẻ ngay từ tuổi ấu thơ. Từ
những vốn kinh nghiệm tích lũy ấy, tôi đã áp dụng hiệu quả ở lớp mình nhằm
hình thành ở trẻ những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hòa
đó là sự phát triển thẩn mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực trong mối quan hệ chặt
chẽ với nhau góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn
diện, vì trẻ em hôm nay thế giới ngày mai.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với nhà trường:
Tạo điêu kiện cho giáo viên được đi dự giờ đồng nghiệp để cùng trao đổi
học hỏi kinh nghiệm trong giảng dạy.
Cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với chính quyền địa phương,
tăng cường về cơ sở vật chất để tạo điểu kiện cho việc tổ chức các hoạt động
phát triển vận động cho trẻ được tốt hơn.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm về đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ
năng vận động nhằm phát triển thể chất cho trẻ 5 - 6 tuổi” của cái nhân tôi được
đúc kết từ những trải nghiệm trong công tác của mình. Tôi mạnh dạn đưa ra để
các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp xem xét góp ý cho bản kinh nghiệm của
tôi được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Bá Thước ngày 30 tháng 03 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người
khác.
Người thực hiện
Mai Thị Lan
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạo điều kiện cho chúng tôi đi thăm quan,học hỏi các trường bạn.
Hướng dẫn thực hiện tổ chức chương trình giáo dục mầm non độ tuổi mẫu
giáo lớn( 5- 6 tuổi).
17
1.
2.
3.
4.
5.
Tài liệu Nghị quyết số 29-NQ/TW của ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI.
Nghị quyết Trung ương 4 về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.
Quyết định 55 của bộ giáo dục qui định mục tiêu, kế hoach đào tạo của
Nhà trẻ - Mẫu giáo Hà Nội, 1990 trang 6 ghi rõ mục tiêu giáo dục mầm
non.
Module MN 1: Đặc điểm phát triển thể chất – Những mục tiêu và kết quả
mong đợi ở trẻ mầm non về thể chất.
Sách hướng dẫn chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi.
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU……………………………...……………………..........................1
1.1. Lý do chọn đề tài………………………………………….………………1-2
1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………..........................2
18
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………...……….……............2
1.4.Phương pháp nghiên cứu…………………..……...….…….………….…...3
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết……………...……………….…........3
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn……………………...………….........3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM…………………….……..........3
2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến……………………………………….…..........3
2.2. Thực tạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm………...........4
2.2.1. Thuận lợi…………………..…………………………………………….4
2.2.2. Khó khăn………………..…………………………...………………......5
2.2.3. Kết quả khảo sát đầu năm học………………...……………...…............6
2.3. Các biện pháp……………….………………………………………….....7
2.3.1. Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hạy học………………...……7
2.3.2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý trẻ………………………………………7
2.3.3. Phối kết hợp với phụ huynh trẻ……………………………..………......8-9
2.3.4. Tạo cho trẻ tâm thế vui vẻ khi tham gia hoạt động thông qua các hoạt
động học tập mà trẻ vẫn cảm thấy được vui chơi……….…………………….10
2.3.5. Tận dụng môi trường ở mọi lúc, mọi nơi và lồng tiết học dưới hình thức
“học mà chơi, chơi mà học”……………………..………..……….………….11
2.3.6. Giáo viên xây dựng môi trường hoạt động thể chất đảm bảo an toàn cho
trẻ…...............................................................................................................11-12
2.4. Hiệu quả……...…………………………………………………….…..12-13
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………...………..……..13-14
3.1. Kết luận…………………………………………..……………………13-14
3.2. Kiến nghị…………………………………………..…………………......15
3.3. Tài liệu tham khảo………………………………………..………….…...16
19