Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

MỘT số PHƯƠNG PHÁP dạy học từ hán VIỆT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG môn NGỮ văn ở TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.18 KB, 12 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TỪ HÁN VIỆT NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN
QUAN HÓA, HUYỆN QUAN HÓA

Người thực hiện: Nguyễn Thị Mười
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Thị trấn
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
TT Mục
1

Nội dung

1 Mở dầu

Trang
1

2

1.1 Lí do chọn đề tài



1

3

1.2 Mục đích nghiên cứu

1

4

1.3 Đối tượng nghiên cứu

1

5

1.4 Phương pháp nghiên cứu

1

6

2 Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

1

7

2.1


Cơ sở lí luận

1

8

2.2

Cở sở thực tiễn

2

9 2.2.1 Nhầm lẫn từ Hán Việt được vay mượn là đảo vị trí các yếu tố
tạo thành từ ghép song âm tiết
10 2.2.2
11

2.3

Nhầm lẫn trong việc phân biệt ý nghĩa của các từ, từ tố Hán Việt
đồng âm
Một số phương pháp giảng dạy từ Hán Việt nhằm nâng cao
chất lượng môn Ngữ Văn.

2
2
3

12 2.3.1 Hướng dẫn HS nhận diện từ Hán Việt


3

13 2.3.2 Chỉ ra việc hiểu sai dẫn đến việc dùng sai từ Hán Việt.

4

14 2.3.3 Phương án học từ Hán Việt

4-5

15 2.3.4 Yêu cầu sử dụng từ Hán Việt.

5-6

16

2.4 Bài tập ứng dụng và thực hành

6-8

17

2.5 Kết quả

18

3 Kết luận, kiến nghị

8

9


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc đã để lại cho chúng ta một vốn từ Hán Việt phong phú và đa
dạng. Số lượng từ Hán Việt chiếm đến 80% kho ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta.
Lớp từ này đã góp một phần tích cực vào việc làm cho tiếng Việt thêm giàu có, tinh
tế, chuẩn xác và uyển chuyển, đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi yêu cầu
do cuộc sống văn hoá xã hội phát triển và sự cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi tác
phẩm văn học qua việc hiểu cặn kẽ những từ Hán Việt trong mỗi tác phẩm đó.
Tuy nhiên, cũng chính vì sự phong phú ấy khiến cho việc sử dụng ngôn từ
Hán Việt trong cuộc sống nói chung, trong cách hiểu và viết lách của học sinh nói
riêng có nhiều nhầm lẫn. Việc viết/nói sai dẫn đến người đọc/nghe hiểu sai gây ra
những nhầm lần, những hậu quả khó lường.
Thiết nghĩ, là một giáo viên dạy văn, việc hướng dẫn cho học sinh hiểu đúng,
dùng đúng, hơn thế, có thể dùng “hay” trong mỗi câu nói, lời văn là trách nhiệm, là
tâm huyết. Song để thực hiện điều đó là điều không phải dễ dàng, ngày một ngày
hai. Với mong muốn được chia sẻ một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc giảng dạy từ
Hán Việt cho các em học sinh, đặc biệt học sinh trung học cơ sở (THCS) để mỗi
giáo viên có thêm trang bị mang đến cho các em những giờ học tốt, hiệu quả nhất,
tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Một số phương pháp giảng dạy từ Hán Việt nhằm
nâng cao môn Ngữ văn ở trường THCS Thị trấn Quan Hóa, huyện Quan Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Để giải quyết tình trạng học sinh còn nhiều bỡ ngỡ với tiếng Hán, với đề tài trên,
trước hết, tôi mong muốn các em học sinh (HS) nhận ra, “hiểu đúng” rồi “dùng
đúng”, vận dụng cao hơn nữa là dùng “hay” từ Hán Việt trong khi nói và viết.
Qua đề tài, tôi mạnh dạn chỉ ra những lỗi cơ bản các em học sinh thường gặp
phải khi sử dụng từ Hán Việt; đồng thời cũng muốn chia sẻ đến các đồng nghiệp
một vài kinh nghiệm nhỏ trong giảng dạy để cùng mang đến cho các em những giờ

học hữu ích, hiệu quả.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối với tất cả học sinh các khối lớp từ lớp 6 đến lớp 9 trường THCS thị trấn
Quan Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tài liệu, áp dụng thực tiễn trong dạy học, phát phiếu điều tra, đánh
giá, đối chiếu trước và sau khi áp dụng…
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Trong cuộc sống, chúng ta giao tiếp hàng ngày, thậm chí có thể sử dụng
bằng văn bản, song đôi khi vẫn có những hiện tượng nhầm lẫn trong việc sử dụng
từ Hán Việt xảy ra.
Đối với các em học sinh, là những đối tượng nhỏ tuổi, chưa được tiếp xúc
nhiều với các loại ngôn ngữ, tư duy cũng chưa tối đa trong việc giải nghĩa, suy
1


luận các vốn ngôn ngữ phong phú, phức tạp. Điều đó dẫn đến tình trạng nhầm lẫn,
việc sử dụng, vận dụng sai cũng dễ hiểu. Bên cạnh đó, thời lượng của các tiết học
rất hạn chế nên việc học sinh được tiếp xúc, mở rộng rất khó khăn. Chính vì vậy,
việc tìm ra một giải pháp thiết yếu để giúp các em vừa có hứng thú trong học từ
Hán Việt, vừa có hiệu quả là điều cần thiết.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Sau gần một năm giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THCS, tôi được dạy học
sinh ở các khối lớp từ lớp 7 đến lớp 9. Tôi nhận thấy việc dùng từ Hán Việt ở các
em thường gặp một số lỗi sau:
2.2.1. Nhầm lẫn từ Hán Việt được vay mượn là đảo vị trí các yếu tố tạo
thành từ ghép song âm tiết (nhưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa)
Ví dụ (VD):
Lệ ngoại = Từ Hán (H) - Ngoại lệ = Từ Việt (V).

Ngoại hướng (H) - Hướng ngoại (V); Cải hoán (H) - Hoán cải (V); Khai triển
(H) - Triển khai (V) [1].
Sự thay đổi này cũng có giới hạn. Cần lưu ý những trường hợp đảo vị trí dẫn
đến ý nghĩa khác hoặc một từ khác.VD: "lai vãng" và "vãng lai" trong Hán ngữ ý
nghĩa không thay đổi, nhưng tiếng Việt "vãng lai" có ý nghĩa chung là lưu động,
không cố định, (tới rồi lại đi như khách vãng lai), còn "lai vãng" cũng có ý nghĩa
chung là qua lại, tới, đến nhưng ngữ khí nặng nề mang ý răn đe, ngăn cấm) [1].
VD: Từ nay tam cấm cửa không cho mày lai vãng đến đây nữa!
2.2.2. Nhầm lẫn trong việc phân biệt ý nghĩa của các từ, từ tố Hán Việt đồng âm
*. Đồng âm giữa từ Hán Việt với từ Hán Việt.
Cũng giống như trong tiếng Việt, tiếng Hán cũng có hiện tượng đồng âm
nhưng khác nghĩa, tức là những từ có chung một âm thanh nhưng lại khác xa nhau
về nghĩa.
Ví dụ: Từ thiên, trong trường hợp đứng cùng với thiên tử, có nghĩa là trời.
Trường hợp khác, từ thiên đứng trong cụm từ thiên kinh vạn quyển thì thiên lại là
nghìn. Trong trường hợp khác nữa, khi chúng ta dùng từ thiên vị thì thiên ở đây lại
hiểu là sự nghiêng về một phía, không công bằng) [1],...
Chính vì sự phong phú về ngôn ngữ ấy, khi học sinh không nắm vững sẽ dẫn
đến dễ bị nhầm lẫn.
*. Đồng âm giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt
Ví như từ "ngoan" trong Hán ngữ có nghĩa là cứng đầu, cứng cổ, bướng bỉnh
cố chấp, cứng cỏi. Nó chỉ xuất hiện với tư cách là yếu tố trong từ ghép Hán Việt
như "ngoan cố, ngoan cường", nhưng trong từ thuần Việt lại có nghĩa gần như trái
ngược: ngoan ngoãn, chăm ngoan,... – ý chỉ những con người có đức tính hiền
lành, biết vâng lời, biết kính trên nhường dưới,....
Từ những nguyên nhân trên, đầu học kì II năm học 2017 – 2018 tôi đã mở
một cuộc điều tra ở các khối lớp 6,7,8,9 bằng cách đưa ra 10 từ Hán Việt để các em
giải nghĩa và sau đó đặt câu với những từ đó. Kết quả là:
2



Lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

6

29

1

0,3

7

24

15

58,7

4

14,9

1

0,3

7


45

2

11

15

12.5

13

32.5

10

25

8

20

8

50

3

6.5


4

12.9

16

51.6

6

19.3

3

9.7

9

36

1

4

8

32

13


52

3

12

0

0

Toàn
trường

160

7

5,4

22

17,1

57

44,2

28


21,7

15

11,6

Với kết quả điều tra trên, tôi không khỏi suy nghĩ là làm thế nào để các em
"hiểu đúng" và "dùng đúng" từ Hán Việt.
2.3. Một số phương pháp giảng dạy từ Hán Việt nhằm nâng cao chất lượng
môn Ngữ Văn ở trường THCS
2.3.1. Hướng dẫn HS nhận diện từ Hán Việt bằng cách nắm được đặc điểm
của từ vựng Hán ngữ cổ - từ vựng văn ngôn, nòng cốt của lớp từ Hán Việt
Từ ghép trùng lặp: là hai từ đơn có kết cấu âm tiết và ý nghĩa nội hàm hoàn
toàn giống nhau, sau khi lắp ghép thành một chỉnh thể trở thành một từ ghép song
âm. Ví dụ:
nhân dân: mọi người, tất cả mọi người, ai nấy (đều...)
xứ xứ: khắp nơi, khắp chốn, mọi nơi
gia gia: mọi nhà
niên niên: hàng năm, năm này qua năm khác [1]
Từ ghép kết hợp hai từ đơn có ý nghĩa giống nhau hoặc tương tự nhau tạo
thành một nghĩa mới hàm ý nói chung hoặc tăng thêm sắc thái ý nghĩa. Ví dụ:
bằng hữu: bạn be
hiểm trở: địa thế không thuận lợi cho việc đi lại [1]
Mặt khác, còn phải cho học sinh nắm được một từ (một chữ) Hán có thể có
nhiều nghĩa nhưng cũng lại có hiện tượng một ý nghĩa có thể được biểu đạt bằng
rất nhiều từ (chữ) khác nhau. Tuy nhiên mỗi từ (chữ) này, ngoài nghĩa chung nhất
còn mang nhiều sắc thái khác nhau. Ví dụ:
Để định danh sự vật là "con ngựa" bên cạnh từ "mã" còn có nhiều từ khác để
chỉ các loại ngựa khác nhau:
Câu: Ngựa còn non tuổi, khoẻ mạnh, sung sức, đẹp mã. [1]

" Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời". [3]
Ô thông: Ngựa sắc lông đen nhánh, cao khoẻ còn gọi tắt là ô (ngựa ô) [1]
"Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô". [4]
3


Bát:
Ngựa khoảng tám tuổi
Li:
Ngựa sắc lông đen
Đích: Ngựa có mảng lông trắng ở trán
Hà:
Ngựa hồng đốm trắng [1]
...
Hoặc bên cạnh từ Sơn để chỉ núi còn có:
hỗ:
núi có cây, có cỏ
dĩ:
núi trọc
hộc:
núi có nhiều tảng đá
ngao: núi có nhiều đá nhỏ [1]
...
2.3.2. Chỉ ra việc hiểu sai có thể dẫn đến dùng sai tiếng Hán
Ví dụ:
a) "Bạn Nam không chăm học, đó là yếu điểm của bạn ấy."
b) "Cố Bộ trưởng Bộ giáo dục đang nghỉ hưu tại một vùng quê yên tĩnh"
c) "Sắp đến giờ đi học rồi, em phải khẩn cấp làm xong bài tập ở nhà để có bài

tập nộp cho cô giáo".
Ta thấy: ở câu (a)
Yếu điểm và điểm yếu khác nghĩa nhau hoàn toàn.
Yếu điểm là một từ Hán Việt (yếu: quan trọng, VD: chủ yếu, trọng yếu) 
"yếu điểm" là điểm quan trọng. [1]
Như vậy cần sửa câu trên là: "Bạn Nam không chăm học, đó là điểm yếu của
bạn ấy".
Cũng tương tự như vậy, trong câu (b): Cố bộ trưởng và Cựu bộ trưởng: từ cố
trong chữ Hán có nhiều nghĩa khác nhau. Cố là cũ (cố nhân: người quen cũ) [1].
Cố có gốc là từ trước (cố hương, cố quốc). Cố còn có nghĩa là chết (quá cố). Vậy
Cố bộ trưởng là ông bộ trưởng đã qua đời, nên không thể đang nghỉ hưu ở một
vùng quê yên tĩnh như câu văn đã viết. Phải chữa lại là: "Ông cựu bộ trưởng..."
Cựu có nghĩa là cũ, từ dùng để chỉ người thôi giữ chức vụ.
Trường hợp ở câu (c): khẩn cấp và khẩn trương
Câu văn dùng sai từ khẩn cấp, phải sửa lại thành "... khẩn trương làm xong
bài tập...". Khẩn nghĩa là gấp rút phải làm ngay mới được; cấp nghĩa là vội, gấp
rút, nên  khẩn cấp chỉ công việc cần kíp phải làm ngay để đối phó với một nguy
cơ nguy hiểm nào đó [1] . VD: Tin bão khẩn cấp.
Còn khẩn trương (trương nghĩa là căng, căng thẳng) ý nói việc gấp phải làm,
việc căng thẳng hết sức nhanh chóng kịp thời có kết quả [1] .
2.3.3. Phương án học từ Hán Việt
* Phương án " Học ít biết nhiều"
4


Theo tác giả Phan Thiều trong Dạy học sinh nắm yếu tố và các quan hệ ngữ
nghĩa trong các đơn vị định danh cho rằng các từ ghép mang nội dung ngữ nghĩa
nhất định mà đại đa số trong các trường hợp ta có thể suy ra được.
1. Biết nghĩa của các yếu tố thành phần
2. Biết quan hệ ngữ nghĩa của các yếu tố

Phương án này giúp tiết kiệm thời gian. Một con tính nho nhỏ sau giúp ta
hình dung khả năng tiết kiệm thời gian lớn đến dường nào: giả sử có 5 từ tố A, B,
C, D, E làm gốc để lắp ráp từng cặp thành những từ ghép nhất định kiểu AB, BC,
CD, DE... ta sẽ có công thức toán học về khả năng lắp ráp n(n - 1): 2, trong đó n là
số lượng các yếu tố dùng để lắp ráp ta có: 5 x 4 : 2 =10 (từ ghép). Đó là chưa kể
ghép nhờ cách đảo vị trí (AB và BA)...
Học từ tố Hán Việt chưa đủ mà còn nắm được công thức cấu tạo nghĩa của từ
ghép Hán Việt nữa. Nếu A, B là những từ tố Hán Việt; a, b là nghĩa của từ tương
ứng, x là nét nghĩa không có trong A, B nhưng có thể suy ra từ ngữ cảnh ta sẽ có:
AB = ab (ái quốc = yêu nước)
AB = ba (đảng kỳ = cờ đảng)
AB = a (x) b (tranh thủ =giành mà nắm lấy)
AB = b (x) a (quốc lộ = đường do nhà nước quản lý)
Tuy thế, phương án này chỉ thích hợp với những em thông minh, có kỹ năng
nhất định trong sử dụng tiếng Việt.
* Phương án " Học ít hiểu kỹ"
Đối với học sinh phổ thông thì điều quan trọng không phải số từ nhiều hay ít
mà là nắm ý nghĩa từng từ và biết sử dụng cho chính xác, nghĩa là đúng chữ, đúng
nghĩa, đúng lúc, đúng màu sắc tu từ, đúng thể loại.
Nguyên tắc là dạy ít, bày cho học sinh phương pháp tìm hiểu chắc chắn, so
sánh với những từ đồng âm, đồng nghĩa, gần nghĩa và đưa ra cách sử dụng thích
hợp. Ở trường phổ thông trí óc các em lớp dưới chưa phát triển khi dạy từ Hán Việt
nên đặt từ vào văn cảnh cụ thể giúp các em tiếp nhận ý nghĩa từ một cách chính
xác, không nên tách rời văn cảnh, tạo cho các em thói quen dùng từ chính xác. Tất
nhiên cách tiếp nhận này thường bị thu hẹp trong văn cảnh cụ thể, còn nếu đổi văn
cảnh, học sinh có thể hiểu sai, dùng sai, vì vậy các em hiểu rộng hơn bằng cách
phân tích các yếu tố thành phần, hiểu nghĩa từng yếu tố rồi suy ra nghĩa của từ,
nghĩa đen và nghĩa bóng, nghĩa cụ thể và trừu tượng, nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo phương án này hứa hẹn nhiều kết quả tốt đẹp.
2.3.4. Yêu cầu khi sử dụng từ Hán Việt

*. Phải hiểu đúng nghĩa khái quát tổng hợp của từ ngữ Hán Việt chứ không
nên hiểu theo cách đơn giản cộng nghĩa những yếu tố Hán trong từ ngữ Hán Việt.
Ví dụ: Độc lập
Không thể hiểu theo cách rộng nghĩa các yếu tố Hán: Độc: một mình; lập:
đứng  đứng một mình.
Phải hiểu theo nghĩa khái quát tổng hợp trong 2 trường hợp:
5


Sống độc lập: Sống dựa vào sức mình không ỷ lại phụ thuộc vào người khác.
Đất nước độc lập: Nước giữ được chủ quyền mọi mặt không bị nước khác
thống trị. [1]
*. Phải hiểu theo nghĩa người Việt hiểu. Có những từ Hán Việt dùng theo
nghĩa khác hẳn gốc Hán.
Ví dụ: Hùng hổ, thiết tha, liên chi hồ điệp... Chẳng hạn: hùng hổ nghĩa gốc
Hán là con gấu và con hổ; nghĩa Việt là vẻ hung hãn dữ tợn. [1]
*. Phải chú ý đến hoàn cảnh nói năng, hoàn cảnh nào thì dùng từ Hán Việt
thì phù hợp, hoàn cảnh nào thì không phù hợp.
Dùng từ Hán Việt cho trang trọng:
Ví dụ: Bà Hoàng Thị Loan là thân mẫu Hồ Chủ Tịch
Trường hợp thân mật không dùng từ Hán Việt:
Ví dụ: Mẹ ơi! Con mời mẹ vào xơi cơm.
Còn nếu viết: "Con đề nghị (hoặc "thỉnh cầu") mẹ vào xơi cơm" thì cách nói
này sẽ cầu kỳ, không phù hợp.
2.4. Bài tập ứng dụng và thực hành
Văn bản : CHỊ EM THUÝ KIỀU
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
6


Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa lên chương,
Một thiên « bạc mệnh » lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai. [5]
* Thuyết minh Hán Việt
a. Giải thích từ ngữ
Tố nga: được dùng để nói về người phụ nữ đẹp, thiếu nữ xinh đẹp
Cốt cách: dáng vẻ, dáng điệu, hình thể.
Đoan trang: đứng đắn nghiêm trang.
Thu thuỷ, xuân sơn: nước mùa thu, núi mùa xuân. Thơ văn cổ còn có câu:

"Nhãn như thu thuỷ, mị tự xuân sơn (mắt trong như nước mùa thu, lông mày xanh
như sắc núi mùa xuân) để tả vẻ đẹp trên khuôn mặt phụ nữ.
Cung thương, ngữ âm: năm cung bậc âm điệu trong nhạc cổ (cung, thương,
giốc, chuỷ, vũ).
Hồng quần: Quần màu đỏ, phụ nữ quý phái ở Trung Hoa thời cổ xưa thường
mặc; phụ nữ, phái đẹp.
Cập kê: Đến tuổi cài trâm, đến tuổi trưởng thành. ) [2]
b. Mở rộng vốn từ
Tố nga có nghĩa là "tơ trắng" sau có nghĩa mở rộng là "trắng toát, trắng tinh,
trắng trong..." nga có nghĩa gốc là "tốt đẹp" sau mở rộng nghĩa là "con gái, thiếu
nữ đẹp người tốt nết". ) [2]
Tố: với những nét nghĩa đã nêu thường xuất hiện trong từ ghép: tố chất, tố nữ,
nguyên tố.
* Từ đồng âm với từ tố:
Tố: nói cho biết, mách bảo, tố cáo, khiếu tố, tố giác, tố tụng, truy tố.. ) [1]
Đoan trang: do "đoan" (ngay thẳng, ngay ngắn, đầu mối, nguyên nhân" và
"trang" (nghiêm chỉnh, nghiêm túc) hợp thành có nghĩa "đứng đắn, nghiêm trang")
[2]. Đoan thường xuất hiện trong các từ ghép: đoan chính,
Với nghĩa đã nêu "trang" thường xuất hiện trong những từ ghép trang
nghiêm, trang trọng, trang nhã.
* Từ đồng âm với "trang"
7


Trang 1: thôn ấp, xóm làng, đồng ruộng, mùa màng, đất đai: trang trại, trang
ấp, trang viết, nông trang, điền trang, nghĩa trang, thôn trang.
Trang 2: đồ dùng, quần áo, sắp đặt bố trí: trang phục, quân trang, thời trang,
võ trang, giả trang, hoá trang, trang bị, tân trang, nguỵ trang, trang trí, trang thiết
bị, trang hoàng...
Trang 3: tô điểm (tô son điểm phấn): trang điểm, điểm trang, nữ trang, trang

sức, trang đài (nơi phụ nữ trang điểm), hồng trang (nữ giới, phụ nữ). ) [1]
Sắc: màu sắc (cả nghĩa đen và nghĩa bóng) vẻ mặt tinh thần, trạng thái; vẻ
đẹp của phụ nữ) [1]... thường xuất hiện trong các từ ghép: sắc thái, âm sắc, bản
sắc, đơn sắc, hoà sắc, ngũ sắc, khởi sắc, nhuận sắc, xuất sắc, quốc sắc, nhan sắc,
tửu sắc, tuyệt sắc, thần sắc, khí sắc, thất sắc, xuân sắc.
* Từ đồng âm với "sắc"
Sắc: văn bản mệnh lệnh; ý kiến, mệnh lệnh... thường xuất hiện trong các từ
ghép: sắc lệnh, sắc phong, sắc chỉ.
Tài: năng lực đặc biệt, đặc biệt giỏi giang (về một mặt, một lĩnh vực nào đó) )
[1] thường xuất hiện trong các từ ghép: tài năng, tài sắc, tài trí, nhân tài, thiên tài,
kỳ tài, đại tài, thực tài, anh tài, tài hoa, tài nghệ, tài tử, tài mạo (tài năng tướng
mạo), hiền tài.
* Từ đồng âm với "tài"
Tài 1: gỗ, nguyên vật liệu. Thường xuất hiện trong các từ: tài liệu, đề tài, khí
tài, quan tài.
Tài 2: vun trồng: tài bồi
Tài 3: cắt, giảm, phán xét, quyết định : tài phán, trọng tài
Tài 4: tiền của) [1] : Tài chính, tài khoản, tài nguyên, tài sản, tài vụ, tài phiệt,
gia tài, phát tài, trọng nghĩa khinh tài.
2.5. Kết quả đạt được
Trong suốt quá trình thực hiện, áp dụng một số biện pháp giúp học sinh "hiểu
đúng" và "dùng đúng" từ Hán Việt. Với một phạm vi điều tra khá rộng toàn bộ học
sinh khối 6,7,8,9 kì I năm học 2017 - 2018. Kết quả cho thấy rằng: sau khi học sinh
đã được cung cấp, hướng dẫn cách học từ Hán Việt, các em không còn bỡ ngỡ với
những từ Hán Việt được sử dụng trong các tác phẩm văn học và việc hiểu được lớp
từ quan trọng này các em sẽ hiểu tốt hơn về tác phẩm, đồng thời các em còn "dùng
đúng" các từ Hán Việt đã học vào văn cảnh cụ thể.
Kết quả sau khi thực hiện (Tính đến giữa kì II năm học 2017 - 2018)
Lớp
6

7
8
9
Tổng


số
29
45
50
36
160

Giỏi
SL
%
3
10,3
4
8.9
6
12,7
3
18,3
16
10

Khá
SL
%

5
17,2
10
22
13
26
8
22
36 22.5

TB
SL
14
27
24
22
87

%
84
37,8
48
61,1
54,4

Yếu
Kém
SL
%
SL

%
5
18.5
2
6,9
3
6,7
1
0,2
5
10
2
4
3
8,3
0
0
16
10 5
3,1

8


3. Kết luận, kiến nghị
Trên đây là một số vấn đề mà tôi suy nghĩ và đã áp dụng trong việc uốn nắn,
sửa chữa thói quen sử dụng từ Hán Việt chưa chính xác ở học sinh khi hiểu và
dùng từ Hán Việt mà tôi cảm thấy có kết quả khả quan trong quá trình giảng dạy bộ
môn Văn - Tiếng Việt ở trường THCS thị trấn huyện Quan Hóa. Thiết nghĩ, lớp từ
Hán Việt khá đặc biệt và vô cùng quan trọng, bởi mặc dù đã được Việt hoá cao

song lớp từ này còn chiếm số lượng tương đối lớn trong ngôn ngữ tiếng Việt và
nhất là trong các tác phẩm văn học mà các em học sinh được học trong chương
trình sách giáo khoa.
Với nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy, tâm huyết với nghề và chút kinh nghiệm ít
ỏi của bản thân, tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình để cùng với các bạn đồng
nghiệp trao đổi, nhằm cùng rút ra những biện pháp, cách dạy tốt nhất để hướng dẫn
cho học sinh và các em ngày càng hiểu đúng và dùng đúng hơn lớp từ đặc biệt và
quan trọng này - lớp từ Hán Việt.
Qua SKKN này, tôi cũng mạnh dạn có một vài đề xuất nhỏ như sau:
Về phía nhà trường tổ chức các câu lạc bộ học từ Hán Việt để giáo viên và
học sinh giao lưu, mở rộng kiến thức, đồng thời tạo cho học sinh thêm hứng thú
khi học bộ môn này. Thêm vào đó, có những buổi học chuyên đề về từ Hán Việt
cho các em vào các buổi chiều để hình thành cho các em dần dần những kiến thức
cơ bản về từ Hán Việt, sau đó là kĩ năng vận dụng vào trong văn bản và trong cuộc
sống hàng ngày.
Về phía giáo viên, cần có sự đầu tư về các loại sách tham khảo dạy học từ
Hán Việt trong trường THCS. Tham gia các cuộc sinh hoạt chuyên đề, các câu lạc
bộ về từ Hán Việt đề trao đổi, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Quan Hóa, ngày 20 tháng 4 năm2018
Người thực hiện

Nguyễn Thị Mười

9



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Văn Chánh, Từ điển Hán Việt – Hán ngữ cổ đại và hiện đại, Nxb Từ điển
Bách Khoa.
[2] Lê Xuân Thại, Từ Hán Việt và việc dạy từ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ
Văn THCS, Nxb Giáo dục.
[3] Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nxb Văn hóa.
[4] Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên, Nxb Giáo dục.
[5] Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1, Nxb
Giáo dục, năm 2016.

10



×