Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Bài tập lớn học kỳ môn LUẬT dân sự 2 (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.26 KB, 20 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ra đời thay thế Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã phát
huy vai trò to lớn, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới của đất nước, phù hợp
với điều kiện của Việt Nam cũng như phục vụ hội nhập quốc tế; Bộ luật Dân sự
2005 đã cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp 1992, nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật của nhà nước ta trên tinh thần quán triệt các Nghị quyết của Đảng trong
thời kỳ đổi mới đất nước. Các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhằm điều
chỉnh chung các quan hệ xã hội trên cơ sở của nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự
thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể, hạn chế tối đa sự can thiệp hành
chính của nhà nước vào quan hệ dân sự, tôn trọng và phát huy sự tự thỏa thuận, tự
quyết định của các chủ thể. Đặc biệt BLDS nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt
chẽ và tương đối hoàn thiện về vấn đề hình thức của hợp đồng dân sự.
Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là sự thay đổi không
ngừng của các quan hệ xã hội đặc biệt là quan hệ pháp luật dân sự, các nhà làm luật
khó có thể nắm bắt, đón đầu được toàn bộ sự thay đổi đó nên không thể tránh khỏi
những thiếu sót, bất cập. Những quy định về hình thức của hợp đồng dân sự trong
một thời gian dài thực hiện đã xuất hiện nhiều điểm còn hạn chế, chưa rõ ràng, chưa
phù hợp, chưa tương thích với thực tiễn cũng như chưa phù hợp với tiến trình hội
nhập hóa, toàn cầu hóa quan hệ quốc tế cần được sửa đổi, điều chỉnh để hệ thống
pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới hiện nay.
Nhằm tìm hiểu rõ hơn về vấn đề hình thức của hợp đồng dân sự và đưa ra những
đánh giá thực tế, em đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá quy định của Bộ luật dân sự
2005 về hình thức của hợp đồng dân sự” để nghiên cứu”. Với vốn kiến thức hạn
hẹp của mình, bài làm của em không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định
về nội dung cũng như hình thức, kính mong thầy cô có thể góp ý để em có thể hoàn
thiện hơn nữa bài làm cũng như bổ sung thêm kiến thức cho bản thân.



BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
1, KHÁI NIỆM:
Hợp đồng dân sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự và là
phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong xã hội.
Khái niệm hợp đồng dân sự được đề cập tại Điều 388, BLDS 2005, theo đó có thể
hiểu hợp đồng dân sự là: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Qua khái niệm hợp đồng dân sự có thể thấy để hình thành hợp đồng dân sự phải có
những yếu tố cơ bản sau:
- Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa thuận của
các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi ích cho mình
hoặc đem lại lợi ích cho người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn phương chỉ là sự
tuyên bó ý chí công khai của một phía chủ thể thì khi tham gia quan hệ hợp đồng, ít
nhất phải có hai chủ thể đứng về hai phía của hợp đồng. Ngoài ra, trong một số
trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự xuất hiện của bên thứ
ba(hợp đồng vì lợi ích của bên thứ ba).
- Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất ý chí
giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó: Thỏa thuận và thống nhất ý chí là
yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự thỏa thuận
này thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực.
- Hậu quả pháp lý của sự thay đổi giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo, nhầm
lẫn, lừa dối, đe dọa,…



BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

2, PHÂN LOẠI:
Để phân loại hợp đồng ta căn cứ vào các tiêu chí sau:
Căn cứ vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực pháp lý của hợp đồng, hợp đồng
đươc chia thành: Hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Căn cứ vào hình thức của hợp đồng thì hợp đồng dân sự được chia thành hợp
đồng có hình thức lời nói, hình thức văn bản va hình thức hành vi.
Căn cứ vào sự có đi, có lại về lợi ích vật chất giữa các chủ thể trong quan hệ hợp
đồng, hợp đồng được chia thành: Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù.
Căn cứ vào sự tác động qua lại về quyền và nghĩa vụ của các bên thì hợp đồng
dân sự được chia thành: Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ.
Căn cứ vào thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng dân sự được chia
thanh: Hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết và hợp đồng dân sự có
hiệu lực kể từ thời điểm khác.
Ngoài ra hợp đồng còn có thể bao gồm các loại sau: Hợp đồng dân sự vì lợi ích của
người thứ ba, hợp đồng dân sự có điều kiện, hợp đồng dân sự hỗn hợp, hợp đồng dân
sự theo mẫu,…
3, NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa
vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng.
Tại Điều 402 BLDS 2005 quy định:
Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây:
-

Ðối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không
được làm;
Số lượng, chất lượng;

Giá, phương thức thanh toán;
Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
Quyền, nghĩa vụ của các bên;


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II
-

Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
Phạt vi phạm hợp đồng;
Các nội dung khác.

Trong tất cả các điều khoản nói trên , có những điều khoản mà ở hợp đồng này các
bên không cần thỏa thuận nhưng ở một hợp đồng khác, các bên lại buộc phải thỏa
thuận, thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Mặt khác ngoài những nội dung cụ thể
này, các bên còn có thể thỏa thuận để xác định với nhau thêm một số nội dung khác.
Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng thành 3 loại:
-

-

-

Điều khoản cơ bản: Là cáckhông thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng nhằm
xác định những nội dung chủ yếu của hợp đồng và nếu không thỏa thuận các điều
khoản này thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khoản cơ bản có thể do tính
chất của hợp đồng quy định hoặc do pháp luật quy định, tùy theo từng loại hợp đồng
mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm,…
Điều khoản thông thường: Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu
khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này, thì vẫn coi

như hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật quy định, ví
dụ: Địa điểm giao tài sản động sản( đối tượng của hợp đồng mua bán) là tại nới cư
trú của người mua nếu người mua đã trả tiền và trong hợp đồng các bên không thỏa
thuận về địa điểm giao tài sản. Khác với điều khoản cơ bản các điều khoản thông
thường không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng.
Điều khoản tùy nghi: Khi giao kết hợp đồng ngoài những điều khoản phải thỏa thuận
vì tính chất của hợp đồng và những điều khoản mà pháp luật đã quy định thì khi giao
kết hợp đồng các bên có thể thỏa thuận để xác địnht hêm một số điều khoản khác
nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Như vậy, điều khoản tùy nghi là những
điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận với
nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Ví dụ: Địa điểm trong hợp
đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa thuận cho phép bên có
nghĩa vụ được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện nghĩa vụ giao vật.
4, ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ VÔ HIỆU:


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

Hợp đồng dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa quyền và lợi ích hợp
pháp giữa các chủ thể tham gia quan hệ hơp đồng. Ngoài ra, hợp đồng dân sự còn là
căn cứ để tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác giải quyết tranh chấp phát
sinh. Tuy nhiên, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp lý thì hợp đồng đó phải thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định.
Như vậy, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được xác định tại
Điều 122, BLDS 2005:
“Ðiều 122. Ðiều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp
pháp luật có quy định.”
Hợp đồng dân sự không tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự thì được xác định là vô hiệu, tuy nhiên cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để
xem xét và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu. Khi xem xét
hợp đồng vô hiệu cần lưu ý là trên nguyên tắc hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu
lực phụ thuộc vào hợp đồng chính nên sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt
hợp đồng ohuj trừ trường hợp có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng
chính. Quy định hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu không được
áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, điều đó có nghĩa
là hợp đồng chính vô hiệu nhưng các biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị thi hành, điều
15 của Nghị định 163/NĐ – CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm quy đinh:
“Điều 15.
Quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp
đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ
hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được
bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt

thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm
dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm
thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm
chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại khoản 1
và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để
thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.”
5, THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
Hợp đồng hợp pháp có hiệu lực pháp lý đối với các bên tham gia quan hệ hợp đồng.
Nếu bên nào vi phạm phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước chủ thể phía bên
kia. Pháp luật luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan
hệ hợp đồng. Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó chỉ được thực
hiện trong một khoảng thời gian nhất định – đó chính là thời hiệu khởi kiện về hợp
đồng dân sự. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 427
BLDS 2005:
“Ðiều 427. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự:
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai
năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể
khác bị xâm phạm.”
Khi xác định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng
dân sự cần lưu ý:


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II
-

-


-

-

Đối với hợp đồng dân sự mà các bên có thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ theo
hợp đồng nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ không thực hiện thì ngày hết hạn
thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm;
Đối với hợp đồng dân sự mà các bên không thỏa thuận thời hạn thực hiện nghĩa vụ
hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết
trước một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra vi
phạm;
Trong trường hợp khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thỏa thuận
kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày vi phạm căn cứ vào
ngày chấm dứt thỏa thuận của các bên;
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thì ngày
vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng
là ngày vi phạm.
II, HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2005:
1, KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI:
Những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể hiện ra bên ngoài
bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác, hình thức của hợp đồng là
phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định. Tùy thuộc vào nội
dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà
các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho
phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Tại điều 401 BLDS đã quy định:
“Ðiều 401. Hình thức hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành

vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng
một hình thức nhất định.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản
có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các
quy định đó.


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.”
Hình thức của hợp đồng dân sự tương đối đa dạng tạo điều kiện cho các chủ thể ký
kết thuận tiện. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật qu định buộc phải giao
kết theo một hình thức nhất định, thì các bên phải tuân thoe hình thức đó. Ngoài ra,
đối với những hợp đồng khác, các bên có thể chọn một trong những hình thức sau
đây để giao kết:
-

-

-

-

Hình thức miệng(bằng lời nói): Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng
chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên
thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng
trong những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau(bạn bè cho nhau vay
tiền) hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và và
chấm dứt.

Hình thức viết(bằng văn bản): Nhằm nâng cao độ xác thực về nội dung đã cam
kết,các bên có thể ghi nhận nội dung giao kế hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn
bản đó, các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên
xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức
văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức miệng. Căn cứ vào
văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với
bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc
giao kết thì các bên thường lựa chọn hình thức này. Thông thường hợp đồng được
lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản, coi như đã có trong tay một bằng
chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
Hợp đồng được thể hiện bằng văn bả có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin
phép: Hình thức này thường được áp dụng đối với các hợp đồng dân sự mà đối
tượng có giá trị lớn, đối tượng của hợp đồng mà pháp luật quy định cần phải được
kiểm soát chặt chẽ rong lưu thông dân sự, đối tượng của hợp đồng có ý nghĩa đối với
đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng,..Nếu pháp luật có quy định hợp đồng
phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc
xin phép thì các bên trong quan hệ hợp đồng phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng có hình thức bằng hành vi cụ thể: Hợp đồng không có sự thỏa thuận giữa
các bên mà mặc nhiên coi là có sự thỏa thuận khi một bên bằng hành vi của mình
chấp nhận giao kết hợp đồng thông qua sự ấn định trước quyền và nghĩa vụ của bên
kia. Hình thức này cũng phổ biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi công nghẹ


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

ngày càng phát triển với sự tự động hóa áp dụng ở nhiều nơi, đặc biệt là các thành
phố, thị xã như bán hàng qua máy tự động, rút tiền ở các máy do ngân hàng đặt ở
những vị trí khác nhau…
2, Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG TRONG
GIAO LƯU DÂN SỰ:

Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới hình thức nhất
định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức thể hiện này, người ta có thể
biết được nôi dung của hợp đồng đã được xác lập. Pháp luật quy định về điều kiện
về hình thức của hợp đồng để các chủ thể tham gia giao dịch và đồng thời quy định
biện pháp biện pháp chế tài nếu các bên tham gia không tuân theo các điều kiện để
hợp đồng dân sự có giá trị pháp lý. Việc quy định này nhằm bảo vệ trật tự công, tạo
hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng. Việc xác định hình
thức bắt buộc đối với’ một số loại hợp đồng và nhằm đảm bảo tính rõ ràng của việc
tồn tại các hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng. Bởi đó là
chứng cứ xác nhận các quan hệ hợp đồng đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác
định trách nhiệm của mỗi bên khi có vi phạm xảy ra. Những cam kết thỏa thuận của
các chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện dưới mỗi hình thức nhất định. Điều này
góp phần giúp các cơ quan chức năng kiểm tra các hợp đồng trên cơ sở các văn bản
là hình thức thể hiện hợp đồng.
3, VỤ VIỆC CÓ THẬT LIÊN QUAN ĐẾN HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ:
Vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản:
Phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/TLST/DS ngày
09/02/2006 về việc “tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 230/2006/QĐST-DS ngày 05/8/2006 tại Tóa Án nhân dân Quận 8, TP.Hồ
Chí Minh.
-

Nguyên đơn: bà Lê Kim Ánh, sinh năm 1943.
Bị đơn: bà Lê Thị Ngọc Thắm, sinh năm 1983.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị Sáu, sinh năm 1948.


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II


Nội dung vụ án
Bà Lê Kim Ánh trình bày là đã thế chấp cho bị đơn là bà Lê Thị Ngọc Thắm
các giấy tờ bản chính: 1 Giấy phép mua bán chuyển dịch nhà cửa, 1 Tờ khai chuyển
dịch tài sản nộp lệ phí trước bạ, 1 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim Ánh
để bà được vay 10.000.000 đồng thể hiện qua Giấy thế chấp tài sản và vay tiền.
Trong giấy này không ghi nhận ngày tháng năm lập, không quy định mức lãi suất
cũng như thời hạn trả giấy tờ và trả nợ vay nhưng bà cho rằng việc lập giấy thỏa
thuận trên xảy ra vào tháng 9 năm 2001. Bà Ánh đã yêu cầu bà Thắm trả lại cho bà
các giấy tờ nói trên để bà sử dụng trong sinh hoạt thường ngày nhưng bà Thắm
không trả và cho biết do bà chưa trả nợ xong, trong khi đó bà đã trả vốn và lãi xong
tổng cộng số tiền lên đến 16.560.000 đồng, về việc này bà không có chứng cứ để thể
hiện việc đã trả nợ cho bà Thắm. Do bà Thắm không trả lại các giấy tờ nói trên nên
bà Ánh khởi kiện đến Toà án Nhân dân Quận 8.
Tại Đơn phản tố ngày14/7/2006, Biên bản lấy lời khai Biên bản hòa giải
không thành ngày 14/7/2006 bà Thắm xác nhận là bà có giữ các giấy tờ bản chính
như nguyên đơn khởi kiện gồm: 1 Giấy phép mua bán chuyển dịch nhà cửa, 1 Tờ
khai chuyển dịch tài sản nộp lệ phí trước bạ, 1 Giấy chứng minh nhân dân mang tên
Lê Kim Ánh. Bà Thắm cho biết bà giữ các giấy tờ nói trên là do bà Ánh thế chấp để
vay 10.000.000 đồng của bà (Giấy thế chấp tài sản và vay tiền), bà thừa nhận trong
giấy này không ghi nhận ngày tháng năm lập, không quy định mức lãi suất cũng như
thời hạn trả giấy tờ và trả nợ vay nhưng bà cho rằng việc lập giấy thỏa thuận trên
xảy ra vào tháng 7 năm 1999. Bà Thắm đồng ý sẽ hoàn trả các giấy tờ nói trên
nhưng bà Ánh phải thanh toán 10.000.000 đồng vốn vay và tiền nợ lãi từ tháng 7
năm 1999 đến tháng 7 năm 2006 (bà Thắm đã nộp tiền tạm ứng án phí phản tố).
Quyết định của Toà án
Sơ thẩm vụ án ngày 17/8/2006, Tòa án nhân dân Quận 8 đưa ra nhiều lập luận
cho thấy:
Tòa án tuyên bố việc thế chấp các giấy tờ: 1 Giấy phép mua bán chuyển dịch
nhà cửa, 1 tờ khai chuyển dịch tài sản nộp lệ phí trước bạ, 1 giấy chứng minh thư

nhân dân mang tên Lê Kim Anh giữa bà Lê Kim Ánh và bà Lê Thị Ngọc Thắm là vô
hiệu.


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

Tòa chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Kim Ánh, buộc bà Lê Thị Ngọc Thắm có
trách nhiệm hoàn trả cho bà Lê Kim Ánh các giấy tờ trên, và thời hạn hoàn trả là
ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, Tòa cũng chấp nhận một phần
yêu cầu của bà Lê Thị Ngọc Thắm, buộc bà Lê Kim Anh có trách nhiệm phải thanh
toán 10.000.000 đồng và nợ lãi theo mức lãi xuất 0,5%/tháng tính đến tháng 7 năm
2006 là 1.850.000 đồng. Tổng số tiền nợ là 11.850.000 đồng. Thời hạn thanh toán là
hai tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực.
Nhận xét về cách giải quyết của Toà án
Về việc Tòa án quyết định “việc thế chấp các giấy tờ : 01 Giấy phép mua bán,
chuyển dịch nhà cửa, 01 Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp lệ phí trước bạ , 01 Giấy
chứng minh nhân dân mang tên Lê Kim Ánh giữa bà Lê Kim Ánh và bà Lê Thị Ngọc
Thắm là vô hiệu”và “Chấp nhận yêu cầu của bà Lê Kim Ánh, buộc bà Lê Thị Ngọc
Thắm có trách nhiệm hoàn trả cho bà Lê Kim Ánh các giấy tờ”. Quyết định của tòa
án là chính xác vì: Xem xét việc xác lập giấy – hợp đồng thế chấp tài sản và vay tiền
giữa nguyên đơn và bị đơn, thì hợp đồng này đã sai quy định pháp luật về hình thức
khi không ghi nhận ngày tháng năm xác lập; tài sản mang thế chấp là giấy phép mua
bán, chuyển dịch nhà cửa trái với quy định của pháp luật về giao dịch nhà ở do
không “có giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp
luật...” (Điểm a khoản 1 Điều 91 Luật Nhà ở 2005); và không có công chứng chứng
thực Nhà nước. Như vậy, việc Tòa án đưa ra căn cứ pháp lý là giao dịch vô hiệu do
không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 134 BLDS 2005) để tuyên bố việc thế
chấp các giấy tờ trên giữa nguyên đơn và bị đơn vô hiệu và yêu cầu bị đơn trả lại
cho nguyên đơn các giấy tờ đã thế chấp (cả hai bên đã xác nhận sự tồn tại của việc
thế chấp và các loại giấy tờ) căn cứ vào điều 137 BLDS 2005 là chính xác.

Về việc Tòa án quyết định: “Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Lê Thị Ngọc
Thắm, buộc bà Lê Kim Ánh có trách nhiệm phải thanh toán cho bà Lê Thị Ngọc
Thắm số nợ vốn là 10.000.000 đồng và nợ lãi theo mức lãi suất 0,5%/tháng tính đến
tháng 7 năm 2006 là 1.850.000 đồng. Tổng số tiền nợ là 11.850.000 đồng (Mười
một triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng)”. Quyết định của Tòa án là không hợp lý,
có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật vì: Tòa án đã đưa ra căn cứ pháp lý rằng:
“Bà Lê Thị Ngọc Thắm yêu cầu bà Lê Kim Ánh phải thanh toán cho bà 10.000.000
đồng vốn vay và 4.200.000 đồng nợ lãi theo mức lãi suất 0,5%/tháng tính từ tháng 7
năm 1999 (thời điểm bà Thắm lập Giấy thế chấp tài sản và vay tiền) đến tháng 7
năm 2006 là không có cơ sở chứng cứ để được chấp nhận mà phải tính mức lãi suất


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

0,5%/tháng từ tháng 6 năm 2003 đến tháng 7 năm 2006 với số tiền lãi là 1.850.000
đồng (Giấy thế chấp tài sản và vay tiền là vay không lãi và không thời hạn) vi phạm
Điều 477 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản chênh lệch 2.350.000 đồng không được
chấp nhận”. Xem xét những căn cứ pháp lý làm cơ sở cho việc phán quyết của Tòa
đã nêu ở trên, ta nhận thấy điểm bất hợp lý như sau: Tòa án sử dụng mức lãi xuất do
bên bị đơn đề nghị là 0,5%/tháng để tính nợ lãi của số tiền gốc 10.000.000 đồng mà
bên nguyên đơn phải hoàn trả cho bên bị đơn là trái với quy định của pháp luật.
Khoản 2 Điều 476 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận
về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì
áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn
vay tại thời điểm trả nợ”. Áp dụng khoản 2 trong trường hợp này có nghĩa là nợ lãi
của số tiền gốc mà bên nguyên đơn phải trả cho bên bị đơn tính dựa trên lãi suất do
Ngân hàng Nhà nước quy định do nguyên đơn và bị đơn đang có tranh chấp. Tòa án
áp dụng mức lãi suất 0,5%/tháng do bên bị đơn đề nghị là trái quy định pháp luật.
Ngoài những điểm đã nêu ra ở trên, quyết định của Tòa án trong vụ việc tranh
chấp giữa bà Lê Kim Anh và bà Lê Thị Ngọc Thắm còn có những điểm chưa hợp lý,

có dấu hiệu trái quy định của pháp luật và có thể làm phát sinh tranh chấp mới như
sau:
- Thời điểm xác lập giao dịch thế chấp và cho vay tài sản không thống nhất giữa
nguyên đơn và bị đơn. Trong khi nguyên đơn là bà Lê Kim Ánh cho rằng giao dịch
giữa bà và bị đơn được xác lập vào tháng 9 năm 2001 thì bị đơn là bà Lê Thị Ngọc
Thắm lại cho rằng giao dịch giữa bà và nguyên đơn được xác lập vào tháng 7 năm
1999. Tòa không tiến hành tìm hiểu và giải thích rõ ràng chi tiết này có thể sẽ làm
phát sinh tranh chấp trong việc thanh toán tiền gốc và lãi vay giữa hai bên.
- Nguyên đơn là bà Lê Kim Ánh có trình bày trong đơn khởi kiện của mình rằng bà
đã thanh toán số tiền nợ bao gồm cả vốn lẫn lãi là 16.560.000 đồng. Tại phiên tòa, bà
không đưa ra được chứng cớ cho việc trả tài sản của mình đối với bị đơn, nên Tòa án
đã quyết định “Bà Lê Kim Ánh không có chứng cứ để chứng minh việc trả số tiền
nói trên nên không có cơ sở để được chấp nhận do không phù hợp với quy định của
pháp luật”. Trong trường hợp này, Tòa án nên có các biện pháp nghiệp vụ để xác
minh xem sự việc bà Ánh đã thanh toán số tiền nói trên cho bà Thắm là có thật hay
không; không nên chỉ căn cứ vào những chứng cớ mà nguyên đơn đưa ra tại tòa để
quyết định vụ việc. Như vậy thì mới bảo vệ tốt nhất có thể quyền lợi của các cá


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

nhân, đặc biệt với trường hợp của bà Thắm là một người có hoàn cảnh khó khăn đã
được chính quyền xác nhận.
- Tại phiên tòa, bà Ánh đã xác nhận “bà Thắm đã đòi vốn và lãi vào tháng 4 năm
2003 nhưng bà không trả do khó khăn về kinh tế”. Tòa án cũng quyết định rằng: “bà
Thắm đã yêu cầu bà Ánh trả nợ vào tháng 6 năm 2003 thì với thời gian báo trước
này là hợp lý phù hợp với Điều 471, Điều 477 Bộ luật dân sự năm 2005”. Ở đây tồn
tại hai điểm mâu thuẫn đó là: Thời điểm bà Thắm yêu cầu bà Ánh trả tiền vốn và lãi
theo đơn khởi kiện của bên nguyên đơn là bà Ánh trình bày và theo Tòa án tuyên bố
có sự khác biệt nhau, Tòa chưa giải thích rõ ràng về sự khác biệt này; Tòa án căn cứ

theo Điều 477 cho rằng việc bà Thắm đòi vốn và lãi vào thời điểm năm 2003 là đúng
với quy định của pháp luật khi đã có thời gian báo trước, tuy nhiên Tòa án và cả hai
bên nguyên và bị đơn chưa có căn cứ chứng minh rõ ràng rằng đã có “thời gian báo
trước” hợp lý hay chưa, tại thời điểm bà Thắm đòi gốc và lãi số tiền cho bà Ánh vay
vào tháng 6 năm 2003 bà Thắm đã thông báo trước hay ngay khi thông báo đã yêu
cầu bà Ánh phải hoàn trả số tiền vay nợ?
- Về mặt hình thức của hợp đồng thế chấp và cho vay tài sản được xác lập giữa
nguyên đơn và bị đơn, theo những gì hai bên đã trình bày trước Tòa và Tòa đã xác
minh là chính xác thì “giấy này...không quy định mức lãi suất cũng như thời hạn trả
giấy tờ và trả nợ vay”. Như vậy, căn cứ theo Điều 471 và 477, đây là loại hợp đồng
vay không kì hạn và không có lãi. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện những cam
kết đã xác lập ở hợp đồng, bà Thắm lại yêu cầu bà Ánh trả số tiền mà bà Ánh đã vay
bao gồm cả phần gốc và phần lãi. Tại phiên xử, Tòa cũng tuyên bố hợp pháp hóa
nghĩa vụ phải trả tiền nợ bao gồm cả gốc và lãi của bà Ánh đối với bà Thắm. Đồng
thời, bà Ánh cũng trình bày rằng bà từng thanh toán số tiền cả gốc và lãi 16.560.000
đồng cho bà Thắm. Như vậy, giữa những giao kết đã được xác lập trên hợp đồng và
những giao dịch xảy ra trên thực tế đã có sự mâu thuẫn với nhau. Tòa cần xác định
xem giữa bà Thắm và bà Ánh có từng tồn tại một hình thức giao dịch nào khác ngoài
hợp đồng thế chấp và cho vay tài sản mà hai người đã từng xác lập – trong đó có quy
định về việc trả lãi của số tiền nợ gốc hay không? Nếu có tồn tại một giao dịch như
vậy thì phải xác định chính xác tại thời điểm trước hay sau tháng 6 năm 2003, giao
dịch đó được xác lập? Nếu xác lập trước thì việc bà Thắm yêu cầu bà Ánh trả cả lãi
vay và tiền gốc vào tháng 6 năm 2003 là hợp pháp, còn nếu xác lập sau thì việc này
là trái pháp luật. Trong trường hợp không tồn tại một giao dịch như vậy, thì theo quy
định tại khoản 4 điều 474 BLDS 2005: “trong trường hợp vay không có lãi mà khi


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với

khoản nợ chậm trả theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng
với thời hạn trả chậm tại thời điểm trả nợ, nếu có thỏa thuận”, Tòa án cần xem xét tại
thời điểm bên bị đơn yêu cầu bên nguyên đơn trả nợ (vì là hợp đồng vay không kì
hạn nên thời điểm yêu cầu trả nợ là thời điểm bà Thắm yêu cầu bà Ánh trả nợ vào
tháng 6 năm 2003 theo xác định của Tòa án), sau khi bên nguyên đơn không trả
được, giữa nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận xác lập một nghĩa vụ mới của
nguyên đơn là phải trả phần lãi vay mới cộng với số nợ gốc cho bên bị đơn hay
không? Nếu có thì số tiền mà bên nguyên đơn có nghĩa vụ phải trả cho bên bị đơn là
số tiền bao gồm cả khoản tiền cho vay gốc 10.000.000 đồng và lãi vay của
10.000.000 đồng đó theo mức lãi xuất tương ứng tại thời điểm do Ngân hàng Nhà
nước quy định. Nếu không thì số tiền nợ mà bên nguyên đơn phải trả cho bên bị đơn
vẫn giữ nguyên là số tiền gốc cho vay như ban đầu.
Đề xuất cách giải quyết
• Tòa cần xác minh lại chính xác các vấn đề đã nêu ở trên để có thể xác định
đúng quyền và nghĩa vụ của các bên trong vụ tranh chấp này.
• Hủy bỏ yêu cầu buộc bà Lê Kim Ánh phải thanh toán cho bà 10 triệu đồng
vốn vay và tiền nợ lãi với mức lãi suất 0,5%/tháng từ tháng 7 năm 1999 đến
tháng 7 năm 2006 là 4 triệu 200 nghìn đồng của bà Lê Thị Ngọc Thắm đối với
bà Lê Kim Ánh.
III,ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ HÌNH THỨC
CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
1- Về điều kiện hình thức của hợp đồng dân sự:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có hơn 50 loại hợp đồng được pháp
luật quy định phải tuân theo hình thức văn bản, trong đó chia ra làm 4 nhóm:





Các hợp đồng dân sự thông dụng;

Các hợp đồng bảo đảm;
Các hợp đồng thương mại;
Các loại hợp đồng khác…

Tuy nhiên, vấn đề xác định chính xác nội hàm “bằng văn bản” hiện cũng còn nhiều ý
kiến đánh giá khác nhau. Khác với những hợp đồng mua bán hàng hóa, nhất là
những hàng hóa đã có tập quán quốc tế hoặc hai bên đã có quan hệ kinh doanh sẵn


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

có, theo yêu cầu và thực tiễn của hợp đồng mua bán công ty của quốc tế cũng như
của Việt Nam, không thể có trường hợp ký hợp đồng qua những văn thư trao đổi
riêng lẻ, mà phải lập thành văn bản chung do hai bên cùng ký. Do đó, khi sửa đổi
hợp đồng cũng không thể trái với hình thức ban đầu. Như vậy, “bằng văn bản” nghĩa
là các nội dung thay đổi phải được soạn thảo trên một văn bản chung với những điều
khoản chi tiết, chặt chẽ được các bên nhất trí, phải được ghi rõ là Thỏa thuận sửa đổi
Hợp Đồng; và phải bao gồm: những điều khoản hai bên thỏa thuận sửa đổi và thay
thế hoàn toàn các điều khoản cũ; những điều khoản chỉ sửa đổi một phần do liên
quan đến những điều khoản đã sửa…
Trong khi đó, mục 15 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam quy định:
“Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông
điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật” và Khoản 1, Điều
124 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Các Điều 10, 11,
12, 13 và 14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 của Việt Nam đều khẳng định giá trị
pháp lý của thư điện tử (một hình thức thông điệp dữ liệu trong giao dịch) là giá trị
như văn bản, giá trị bản gốc và giá trị chứng cứ.Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý thì
“thực hiện bằng văn bản” và “ghi nhận thành một văn bản” là những cụm từ có nội
hàm khác nhau. Không phải lúc nào Tòa án hoặc Trọng tài cũng ghi nhận giá trị

pháp lý của một số hình thức giao dịch nói trên khi điều kiện công nghệ thông tin
hiện nay có thể tạo dựng các hình thức giao dịch bằng phương tiện điện tử một cách
dễ dàng,…
Khoản 1 Điều 124, khoản 2 Điều 122, khoản 2 Điều 124 BLDS 2005 quy định về
hình thức của GDDS, và Điều 401 của BLDS 2005 về hình thức hợp đồng dân sự
quy định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao
kết bằng một hình thức nhất định. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng
phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký
hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”.
Theo đó, hợp đồng dân sự cũng giống như GDDS có thể được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt có một số trường hợp buộc phải tuân thủ một số
điều kiện bắt buộc về hình thức theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có rất nhiều


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

luồng quan điểm xoay quanh vấn đề điều kiện hình thức của giao dịch dân sự theo
khoản 2 điều 122 BLDS 2005.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Một khi pháp luật đã đặt ra các điều kiện bắt buộc
về mặt hình thức cho giao dịch dân sự thì giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu nếu
không tuân thủ các quy định của pháp luật. Khoản 2, Điều 124 BLDS 2005 bắt
buộc giao dịch dân sự phải tuân thủ các quy định hình thức trong trường hợp
pháp luật quy định. Rõ ràng, đây là quy định mang tính bắt buộc. Hơn nữa, Điều
127 tiếp tục quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được
quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
• Quan điểm thứ hai lại cho rằng, không phải bất kì loại giao dịch dân sự nào khi
vi phạm điều kiện hình thức cũng đều bị vô hiệu. Khoản 2 điều 401 BLDS 2005
về hình thức hợp đồng dân sự có viết: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường
hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác". BLDS

năm 2005 thừa nhận hợp đồng dân sự là một trong những loại hình giao dịch dân
sự, bên cạnh hành vi pháp lý đơn phương (Điều 121). Như vậy, hợp đồng dân sự
có thể vi phạm các quy định về hình thức mà không bị pháp luật vô hiệu.
Theo ý kiến cá nhân, ta cần xem xét các quy định trên trong hệ thống BLDS, xét
chúng như là những bộ phận không thể tách rời của BLDS 2005. Cả quan điểm 1 và
2 đều vô tình xem xét các quy định một cách riêng rẽ nên không thấy được hết tính
bao quát tương trợ lẫn nhau giữa các quy định trong bộ luật. Trong trường hợp của
khoản 2 Điểu 401 BLDS, nhóm chúng em nghĩ cần hiểu theo hướng sau: Nếu không
có quy định nào của pháp luật quy định về hình thức hợp đồng thì dù hình thức hợp
đồng có bị vi phạm thì cũng không bị vô hiệu. Còn nếu có những quy định bắt buộc
của pháp luật về hình thức hợp đồng thì các chủ thể buộc phải tuân thủ theo điều
kiện hình thức của pháp luật quy định, nếu không hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu.
Theo nhóm chúng em, cách hiểu này có tính chuẩn xác, thống nhất hơn; xem xét trên
khía cạnh tổng thể các quy định của BLDS năm 2005. Như vậy, ta có thể thấy BLDS
2005 vẫn còn một số chỗ dễ gây hiểu lầm về mặt câu chữ, dẫn đến việc khó khăn,
lúng túng cho giải quyết các vụ việc cụ thể.


2 - Về thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức:
Theo khoản 1 Điều 136 BLDS quy định: “Thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố
GDDS vô hiệu được quy định tại các Điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

này là 2 năm , kể từ ngày GDDS được xác lập”. Thực tế cho thấy thời hạn yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
là 2 năm kể từ ngày GDDS được xác lập là không phù hợp, vẫn còn tạo sơ hở cho
những người thiếu thiện chí và nảy sinh nhiều tranh chấp phức tạp.

Khi các bên không hoàn tất quy định về hình thức trong thời hạn ấn định của Tòa ám
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu, các bên khôi
phục lại tình trạng ban đầu. Theo BLDS: “khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Nhưng
trong một số trường hợp trước khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu , một trong các bên
chủ thể đã khai thác, xây dựng bổ sung trên tài sản có tranh chấp. Điều này trên thực
tế là không hợp lý gây thiệt hại cho các bên. Tren thực tế tòa án không áp dụng
nguyên tắc này mà đồng ý cho các bên đã xây dựng, cải tạo tính toán chi phí hợp lý
để tạo ra khối tài sản đó và yêu cầu bên kia thanh toán khoản tiền tương đương.
Tại điều 137 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; Khi giao
dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng
tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy
định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”. Quy định này cũng rất
chung chung trong khi thực tiễn tài sản không phải lúc nào cũng còn nguyên giá trị
của nó tại thời điểm giao kết mà thường biến đổi do tác động của các yếu tố làm cho
không còn nguyên giá trị ban đầu.
3 - Trong việc giải quyết, xử lý hợp đồng dân sự vi phạm hình thức luật định:
Trong thực tế các hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định về hình thức phải được thể
hiện bằng văn bản có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, phải đăng ký, xin phép được thực hiện trong nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân dẫn đến các bên không tuân thủ quy định về hình
thức của hợp đồng.
Những tranh chấp về hợp đồng do vi phạm điều kiện hình thức chủ yếu là hợp đồng
mau bán nhà ở, các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất,…
Về thời hạn yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ
quy định về hình thức



BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

4 - Về hậu quả pháp lý khi tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu về mặt hình thức:
Điều 134 BLDS năm 2005 quy định về GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức, khoản 2 Điều 137 BLDS năm 2005 có quy định rõ hơn về trách
nhiệm các bên khi giao dịch dân sự bị tuyên vô hiệu. Đối chiếu 2 quy định này với
thực tế, vô tình những quy định của pháp luật đã trở thành công cụ để những kẻ bất
lương trục lợi. Họ cố tình vi phạm những quy định về hình thức, rồi lợi dụng quyền
tuyên bố vô hiệu, không thực hiện theo thời hạn mà Tòa án đưa ra, chấp nhận bồi
thường để hưởng được lợi ích lớn hơn rất nhiều so với số tiền mà họ bỏ ra. Những
vụ việc như trên xảy ra rất nhiều, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, mua bán nhà ở,...
Vì những quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ, hợp lý nên đã gián tiếp tiếp tay
cho những con người như vậy trục lợi.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
HÌNH THỨC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
Thứ nhất, Điều 134 BLDS quy định: “Trong trường hợp pháp luật quy định
hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không
tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu” .
Trong điều luật này các nhà làm luật có thể quy định thời hạn để các bên thực hiện
quy định về hình thức của hợp đồng trong thời hạn nhất định nào đó(ví dụ như 6
tháng) giúp các bên trong hợp đồng biết được một khoảng thời gian hợp lý để nhanh
chóng, chủ động tiến hành hoàn thiện hình thức của hợp đồng cho phù hợp với quy
định của pháp luật.
Thứ hai, đề nghị các nhà làm luật nên làm rõ nghĩa hơn ở đoạn 2 khoản 2 Điều
401 của trong BLDS 2005 để tránh gây hiểu lầm tạo sự chính xác hơn cho BLDS.
Thứ ba, việc quy định: “Hợp đồng dân sự không bị vô hiệu trong mọi trường
hợp”( Khoản 2 Điều 401) thì một thực tế đáng lưu tâm là hiện nay các nước trên thế
giới hoàn toàn không coi trọng vấn đề về hình thức của hợp đồng, không quy định

hình thức hợp đồng là một điều kiện để hợp đồng có hiệu lực như ở Việt Nam. Điều
này được thể hiện rất rõ trong Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế 2004 và Bộ nguyên tắc về hợp đồng Châu Âu: “...không bắt buộc hợp đồng,
tuyên bố hay bất kì hành vi nào khác phải được giao kết hoặc chứng minh đặc biệt.


BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

Chúng có thể được chứng minh bằng bất kì cách nào, kể cả bằng nhân chứng...”.
Đây là một nguyên tắc được nhiều nước trên thế giới tiếp nhận. Nó có thể ngăn chặn
được những trường hợp sử dụng quy định về vô hiệu do giao dịch vi phạm về hình
thức để trục lợi như trường hợp trên, hơn nữa, có thể kích thích thị trường phát triển
hơn vì bớt đi được quy định gò bó về mặt hình thức. Tuy nhiên, nhóm vẫn bảo lưu ý
kiến rằng nên xem xét thật kỹ lưỡng, bởi lẽ nếu đưa quy định này vào áp dụng sẽ
làm thay đổi rất nhiều trong hệ thống luật pháp và quản lý. Nếu không có nghiên cứu
kỹ lưỡng, đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng không kiểm soát được, gây rối loạn trong xã
hội. Cần có thêm những quy định mới, thể hiện sự quản lý của Nhà nước khi điểu
chỉnh pháp luật theo hướng này.
KẾT THÚC
Trong quá trình hội nhập và xu hướng phát triển kinh tế ngày nay, hơn bao
giờ hết vấn đề về quan hệ tài sản đã và đang luôn là những vấn đề phức tạp và đem
lại nhiều tranh cãi cũng như cần có những cái nhìn thấu đáo và rõ ràng nhất. Qua
việc tìm hiểu về hình thức của hợp đồng dân sự và đưa ra những đánh giá phù hợp ta
càng khẳng định lần nữa sự quan trọng và cần thiết của tính hợp pháp về hình thức
trong mỗi hợp đồng dân sự. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu kĩ lưỡng cũng
như tuân thủ đúng về mặt hình thức trong các giao dịch dân sự chúng ta không
những đã đảm bảo quyền và lợi ích đối với các chủ thể mà ở một vài khía cạnh và
mức độ nhất định, nó còn tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và
thế giới.



BÀI TẬP LỚN HỌC LỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ MODULE II

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Giáo trình Luật dân sự Việt nam, tập 2, Trường đại học Luật Hà Nội,

-

Nxb. CAND, 2006.
Giáo trình Luật dân sự Việt Nam , tập 2, TS. Lê Đình Nghị(chủ
biên), TS. Nguyễn Thị Nga, ThS. Nguyễn Bá Bình, ThS. Vũ Thị

-

Hồng Yến, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
Bộ luật dân sự 2005.
Nghị định 163/NĐ – CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao

-

dịch bảo đảm.
Hình thức của hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý của hợp đồng

-

dân sự vi phạm quy định về hình thức: Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn
Thị Thơm; Người hướng dẫn: TS.Nguyễn Minh Tuấn, Hà Nội, 2011.




×