Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Phân tích vai trò kiểm soát các khoản chi NSNN của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính ý kiến cá nhân về việc thự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.1 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quy trình quản lí chi Ngân sách nhà nước, việc thiết lập một cơ chế kiểm soát
chi NSNN khoa học, hợp lí nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm soát chi NSNN góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính. Cơ chế kiểm
soát chi NSNN có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ NSNN là khâu đóng vai trò chủ
đạo, chi phối toàn bộ hoạt động của các khâu khác trong hệ thống tài chính. Với vai trò quan
trọng ấy, để tránh tình trạng thất thoát, chi không đúng mục đích, tham ô công quỹ của Nhà
nước, Nhà nước đã giao cho các cơ quan tài chính, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách và
kho bạc nhà nước chịu trách nhiệm kiểm soát các khoản chi ngân sách nhà nước. Vậy vai trò
kiểm soát các khoản chi NSNN của thủ trưởng đơn vị sử dựng ngân sách, kho bạc nhà nước,
cơ quan tài chính như thế nào, thực tiễn thực hiện nhiệm vụ ra sao, để hiểu rõ hơn về vấn đề
này, em xin chọn đề tài : “Phân tích vai trò kiểm soát các khoản chi NSNN của thủ trưởng
đơn vị sử dụng ngân sách, kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính; ý kiến cá nhân về việc
thực hiện nhiệm vụ của thủ trưởng đơn vị và hướng giải quyết” để phân tích. Trong quá
trình làm bài, em còn nhiều thiếu xót, em rất mong nhận được sự góp ý từ thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I.
1.

Khái quát chung về hoạt động kiểm soát chi NSNN :
Khái niệm kiểm soát chi NSNN :
Kiểm soát chi NSNN là việc các cơ quan có thẩm quyền thực hiện thẩm định, kiểm

tra, xem xét và đánh giá tính hợp pháp, hợp lý của các khoản chi NSNN do các chủ thể thực
hiện, dựa trên sự đối chiếu với chính sách, chế độ, định mức chi tiêu do Nhà nước quy định và
trên cơ sở những nguyên tắc, hình thức, phương pháp quản lý tài chính trong từng giai đoạn
để phát hiện, ngăn chặn những khoản chi NSNN trái với quy định nhằm đảm bảo tính tuân thủ
các cơ chế chính sách, quy định của Nhà nước về các đối tượng, chủ thể khi tham gia chu
trình chi NSNN; thông qua đó điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của các đơn vị, nhằm bảo đảm
quá trình chi NSNN luôn đảm bảo đúng mục đích, đúng yêu cầu và đạt được các mục tiêu


kinh tế, xã hội đã đề ra ban đầu.

1


2.

Sự cần thiết phải kiểm soát chi NSNN :
Trong chu trình quản lý quỹ NSNN, kiểm soát chi đóng vai trò hết sức quan trọng, nó

là cơ sở để đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của chi tiêu NSNN. Việc kiểm soát chi NSNN là
vô cùng cần thiết bởi :
Thứ nhất, Do yêu cầu của công tác quản lý chi NSNN trong điều kiện thực thi chính sách
tài chính công đòi hỏi mọi khoản chi của NSNN phải đảm bảo đúng mục đích, tiết kiệm và
hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, khi khả năng NSNN còn hạn hẹp, nhu cầu chi phát triển
kinh tế - xã hội ngày càng tăng, việc kiểm soát chặt chẽ các khoản chi thường xuyên của
NSNN thực sự là một đòi hỏi tất yếu. Thực hiện tốt công tác này có ý nghĩa quan trọng trong
việc tiết kiệm, chống lãng phí nhằm tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế-xã
hội, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia;
đồng thời, cũng góp phần nâng cao trách nhiệm cũng như phát huy được vai trò của các
ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến công tác quản lý và điều hành NSNN.
Thứ hai, Do hạn chế của bản thân cơ chế quản lý chi NSNN là chỉ quy định được những
vấn đề chung nhất mang tính nguyên tắc, dẫn đến không thể bao quát hết tất cả các hiện tượng
phát sinh trong quá trình thực hiện quản lý. Trong khi đó cùng với sự phát triển không ngừng
trong các hoạt động kinh tế - xã hội, các nghiệp vụ chi NSNN cũng ngày càng đa dạng và
phức tạp hơn. Do vậy, quy định của pháp luật về quản lý chi NSNN nhiều khi không theo kịp
với biến động của hoạt động chi NSNN. Tình trạng này tạo kẽ hở trong cơ chế quản lý chi,
một số đơn vị, các nhân đã tìm cách lợi dụng, khai thác những kẽ hở của cơ chế quản lý để
tham ô, trục lợi, tư túi gây lãng phí tài sản và công quỹ Nhà nước. Từ thực tế trên, đòi hỏi
phải có các quy định về tổ chức và thực hiện việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng kinh

phí NSNN của các cơ quan, đơn vị nhằm ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực, phát
hiện những điểm chưa phù hợp trong cơ chế quản lý để từ đó có những kiến nghị với các
ngành, các cấp sửa đội, bổ sung kịp thời để các cơ chế quản lý và kiểm soát chi NSNN ngày
càng hoàn thiện, phù hợp và chặt chẽ.
Thứ ba, Do phản ánh mang tính kinh nghiệm của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN : các
đơn vị thụ hưởng kinh phí NSNN thường tìm mọi cách để sử dụng hết số kinh phí đã được
cấp, không quan tâm đến việc chấp hành đúng mục đích, đối tượng và dự toán được duyệt.
Trên thực tế, hiện tượng các đơn vị chi tiêu sai chế độ như : không có trong dự toán chi
NSNN đã được duyệt hoặc không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước;
thiếu hồ sơ, chứng từ có liên quan…Vì vậy, phải có cơ quan chức năng có thẩm quyền kiểm
2


tra, kiểm soát đối với các khoản chi của cơ quan, đơn vị đảm bảo các khoản chi của đơn vị sử
dụng ngân sách có trong dự toán được giao, đúng mục đích, đối tượng đã được duyệt, đúng
chế độ, tiêu chuẩn, đinh mức chi và có đầy đủ hồ sơ, chứng từ thanh toán. Thông qua kiểm
soát chi, kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm và lãng phí có thể xảy ra trong việc sử
dụng kinh phí NSNN của các đơn vị, đảm bảo mọi khoản chi của NSNN được sử dụng đúng
mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả.
3.

Những đặc trưng cơ bản của hoạt động kiểm soát chi NSNN :
Kiểm soát chi không phải là công cụ quản lý riêng của Nhà nước mà của tất cả các chủ

thể kinh tế, các tổ chức xã hội. Nó có những đặc trưng cơ bản mang tính bản chất khác biệt
hẳn so với hoạt động kiểm soát chi tài chính của các chủ thể khác trong xã hội :
Thứ nhất, hoạt động kiểm soát chi NSNN bao giờ cũng được thực hiện bởi các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, dựa trên cơ sở quyền lực chính trị của Nhà nước.
Thứ hai, kiểm soát chi NSNN vừa mang tính chất là một hoạt động quản lý Nhà nước về
tài chính, vừa có tinh chất như một hành vi quản trị tài chính nhà nước. Tính chất quản lí hành

chính Nhà nước của hoạt động đặc biệt này thể hiện ở chỗ, dựa vào quyền lực công, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm soát chi NSNN có thể đưa ra các quyết định hành chính
hoặc thực hiện các hành vi quản lí. Mặt khác, tính chất quản trị tài chính của công vụ đặc biệt
này được thể hiện ở chỗ, chi ngân sách vốn dĩ là hoạt động tài chính của Nhà nước nên việc
Nhà nước tiến hành kiểm soát chi ngân sách chẳng khác nào một doanh nghiệp hay một tổ
chức xã hội tự quản trị tài sản, tài chính của mình.
Thứ ba, đối tượng của hoạt động kiểm soát chi ngân sách chính là hoạt động chi ngan sách
do các cơ quan chức năng của nhà nước cũng như các chủ thể sử dụng ngân sách thực hiện.
4.

Các yếu tố cấu thành cơ bản của quan hệ kiểm soát chi NSNN :
Quan hệ kiểm soát chi NSNN được hình thành bởi hai chủ thể, đó là bên kiểm soát chi

ngân sách và bên bị kiểm soát.
Chủ thể có thẩm quyền kiểm soát chi ngân sách chính là Nhà nước nhưng để đảm bảo
tính hiệu quả của công vụ này, Nhà nước bao giờ cũng tìm cách trao quyền cho các cơ quan
thích hợp của mình đứng ra thực hiện công vụ, trên cơ sở trao thẩm quyền cụ thể cho các cơ
quan đó. Chủ thể kiểm soát chi NSNN thường bao gồm hai nhóm: nhóm cơ quan hành pháp,
trực tiếp tiến hành kiểm soát chi đối với các đơn vị sử dụng ngân sách. Nhóm này thường bao
3


gồm chính phủ, Bộ tài chính, Kho bạc Nhà nước, trong đó Kho bạc Nhà nước có vai trò trực
tiếp và đặc biệt quan trọng. Và nhóm các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp, có thẩm quyền
kiểm soát, giám sát đối với hoạt động kiểm soát chi của hệ thống hành pháp.
Chủ thể chịu sự kiểm soát chi từ phía Nhà nước bao gồm 2 nhóm: nhóm các đơn vị sử
dụng ngân sách, nhóm này bao gồm hầu hết các tổ chức là cơ quan Nhà nước; các tổ chức
chính trị - xã hội được NSNN đài thọ kinh phí để hoạt động; các đơn vị sự nghiệp công; các tổ
chức kinh tế được Nhà nước thành lập và cấp vốn để hoạt động. Và nhóm các cơ quan Nhà
nước có chức năng chuyên môn về kiểm soát chi ngân sách. Nhóm này thường bao gồm

Chính phủ, Bộ tài chính, Kho bạc nhà nước với tư cách là những cơ quan chức năng có thẩm
quyền trực tiếp kiểm soát chi ngân sách đối với các đơn vị sử dụng ngân sách.
5.

Đối tượng của quan hệ kiểm soát chi NSNN
Đối tượng của quan hệ kiểm soát chi NSNN bao gồm 2 loại hoạt động sau:
Hoạt động sử dụng kinh phí NSNN cấp (chi NSNN). Hoạt động này do đơn vị sử dụng

ngân sách thực hiện trong quá trình hoạt động, bằng cách sử dụng nguồn kinh phí được cấp từ
ngân sách theo các chế độ, thể lệ do pháp luật quy định. Về nguyên tắc, hoạt động này sẽ chịu
sự kiểm soát trực tiếp bởi các cơ quan hành pháp có chức năng kiểm soát chi NSNN như Bộ
tài chính và Kho bạc nhà nước.
Hoạt động kiểm soát chi ngân sách. Hoạt động này do các cơ quan hành pháp có chức
năng chuyên môn về kiểm soát chi ngân sách thực hiện và chịu sự giám sát, kiểm soát bởi các
cơ quan chuyên môn trực thuộc Quốc hội (Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Quốc Hội,…)
II.

Vai trò kiểm soát các khoản chi NSNN của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, kho
bạc nhà nước, cơ quan tài chính :
1.
Vai trò kiểm soát các khoản chi của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách :
Vai trò kiểm soát các khoản chi của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách được thể
hiện thông qua việc thủ trưởng các đơn vị thực hiện quyền hạn và trách nhiệm của mình. Thủ
trưởng đơn vị sử dụng ngân sách dựa vào quyết định phân bổ kế hoạch chi, các cơ quan chủ
quản lập dự toán chi gửi cơ quan tài chính để xem xét, chấp nhận và thông báo cấp phát. Khi
nhận được thông báo dự toán, đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện chi cho từng công việc theo
đúng những quy định về thủ tục chi tiêu do cơ quan có thẩm quyền quy định và chi trả tiền
cho người thụ hưởng thông qua kho bạc nhà nước.

4



Theo Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật ngân sách nhà nước, tại Khoản 7 Điều 10 quy định về thẩm quyền quyết định định
mức phân bổ và chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ngân sách thì: “Căn cứ vào yêu cầu,
nội dung và hiệu quả công việc, trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng, Thủ trưởng đơn
vị sự nghiệp có thu được quyết định các mức chi quản lý, chi nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu
thực tế và khả năng tài chính của đơn vị theo quy định của Chính phủ về chế độ tài chính đối
với các đơn vị sự nghiệp có thu sau khi có ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên; các
chế độ này phải gửi cơ quan tài chính cùng cấp và Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để phối
hợp và giám sát thực hiện. Trường hợp các mức chi đó không phù hợp với quy định của
Chính phủ thì cơ quan Tài chính có ý kiến để điều chỉnh cho phù hợp.”
Như vậy, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ở đây là trách nhiệm
quản lý, không phải trách nhiệm trực tiếp liên quan đến một khoản kinh phí được xuất quỹ
ngân sách.
Hiện nay, trong xu thế cải cách nền tài chính công theo hướng tăng cường tính tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sử dụng NSNN, pháp luật cũng đã bước đầu ghi nhận một
số quyền tự chủ trong việc chi tiêu NSNN của các đơn vị sử dụng NSNN. Đối với các đơn vị
sự nghiệp công lập thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 26/6/2006 của Chính
Phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính thì đối với các khoản chi thường xuyên, Thủ trưởng đơn vị được quyết định
một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định; được quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận,
đơn vị trực thuộc. Đối với cơ quan Nhà nước thực hiện theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP
ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên
chế và kinh phí quản lý hành chính thì được giao quyền tự chủ đối với nguồn kinh phí hành
chính (bao gồm các khoản chi thanh toán cho các nhân, chi nghiệp vụ chuyên môn, mua sắm
sửa chữa thường xuyên tài sản cố định, chi khác cho tính chất thường xuyên).
Ngoài ra, vai trò của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách cũng được biểu hiện qua
việc các khoản chi chỉ được thực hiện khi đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn vị

sử dụng NSNN hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Đây là điều kiện về chuẩn chi
NSNN, đảm bảo tính hiệu lực của khoản chi NSNN và tính chịu trách nhiệm của thủ trưởng
đơn vị sử dụng ngân sách. Lệnh chuẩn chi ngân sách gồm hai loại: lệnh chi tiền của cơ quan
tài chính và giấy rút dự toán của thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN. Trong trường hợp áp dụng
chi ngân sách bằng lệnh chi tiền của cơ quan tài chính thì cơ quan tài chính chịu trách nhiệm
5


kiểm tra, kiểm soát đảm bảo khoản chi đúng đủ các điều kiện chi ngân sách theo luật định, cơ
quan KBNN thực hiện xuất quỹ ngân sách theo lệnh của cơ quan tài chính. Đối với giấy rút
dự toán của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, KBNN có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát
các khoản chi đảm bảo đúng, đủ điều kiện chi ngân sách theo luật định.
2. Vai trò kiểm soát các khoản chi của cơ quan tài chính :

Cơ quan tài chính là cơ quan có trách nhiệm bố trí và đảm bảo nguồn chi; vai trò của
cơ quan tài chính là vai trò mang tính tổng hợp, có trách nhiểm kiểm tra, giám sát, kiểm soát
chi gián tiếp trong suốt quá trình chi tiêu ngân sách thông qua cơ chế kiểm tra ước tính (thẩm
định dự toán) và hậu kiểm (phê duyệt quyết toán).
Tại Khoản 1 Điều 52 Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước thì trách nhiệm của cơ quan tài chính được quy
định:
“ a) Thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng quy định tại
Điều 44 của Nghị định này;
b) Bố trí nguồn để đáp ứng các nhu cầu chi, trường hợp các đơn vị sử dụng ngân sách
chi vượt quá khả năng thu và huy động của quỹ ngân sách thì cơ quan Tài chính phải chủ
động thực hiện các biện pháp vay tạm thời theo quy định để bảo đảm nguồn;
c) Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi tiêu và sử dụng ngân sách ở các cơ quan, đơn
vị sử dụng ngân sách. Trường hợp phát hiện các khoản chi vượt nguồn cho phép, sai chính
sách, chế độ hoặc đơn vị không chấp hành chế độ báo cáo thì có quyền yêu cầu Kho bạc Nhà
nước tạm dừng thanh toán. Trường hợp phát hiện việc chấp hành dự toán của các đơn vị sử

dụng ngân sách chậm hoặc không phù hợp làm ảnh hưởng kết quả nhiệm vụ, thì có quyền yêu
cầu các cơ quan nhà nước và đơn vị dự toán cấp trên có giải pháp kịp thời hoặc điều chỉnh
nhiệm vụ, dự toán chi của các cơ quan, đơn vị trực thuộc để bảo đảm thực hiện ngân sách
theo mục tiêu và tiến độ quy định.”
Như vậy, trong quan hệ với nhóm chủ thể là các đơn vị sử dụng ngân sách, các cơ
quan Nhà nước nói chung và cơ quan tài chính nói riêng thực hiện việc cấp phát, thanh toán
các khỏan chi NSNN có địa vị cao hơn, thể hiện ở việc họ có những quyền hạn nhất định
trong việc kiểm soát, thanh toán ngân sách như có quyền kiểm tra việc thực hiện chi tiêu, có
quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc sai chính sách, chế độ, tiêu chuẩn,
có quyền yêu cầu điều chỉnh dự toán, nhiệm vụ chi của các đơn vị sử dụng ngân sách để đảm
6


bảo thực hiện ngân sách đúng mục tiêu, tiến độ quy định…, tuy nhiên những quyền năng này
cũng được thể hiện theo giới hạn của pháp luật và trong những điều kiện cụ thể.
Thêm nữa, cơ quan tài chính còn có trách nhiệm thẩm tra việc phân bổ dự toán ngân
sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách vì khi được Thủ tưởng chính phủ hoặc uỷ ban nhân
dân giao dự toán ngân sách, các cơ quan Nhà nước ở trung ương, địa phương, các đơn vị dự
toán cấp 1 sẽ tiến hành phân bổ và giao dự toán của đơn vị dự toán cấp trên cho các đơn vị dự
toán cấp dưới, nếu không đúng dự toán ngân sách được giao, không đúng chính sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức thì yêu cầu điều chỉnh lại.
Bên cạnh những quyền hạn được trao, cơ quan tài chính cũng có những nghĩa vụ nhất
định. Cụ thể, cơ quan tài chính có nghĩa vụ đảm bảo nguồn để đáp ứng các nhu cầu của các
đơn vị sử dụng NSNN theo dự toán đã được giao, trường hợp nhu cầu chi vượt quá khả năng
thu và huy động của NSNN thì cơ quan tài chính có thể áp dụng các biện pháp vay tạm thời
để đảm bảo nguồn.
Thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ quản lý chi NSNN những năm qua cho thấy vai
trò của cơ quan tài chính là vô cùng quan trọng, thể hiện ở việc đã bám sát dự toán chi NSNN
được Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp giao; chủ trương, biện pháp điều hành chính
sách tài khóa của Chính phủ hàng năm để thực hiện điều hành chi ngân sách đảm bảo tiến độ

thực hiện các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao; đồng thời thực hiện các nhiệm vụ cấp
bách, quan trọng phát sinh như chi khắc phục hậu quả thiên tai, chi điều chỉnh tiền lương theo
Nghị quyết của Quốc Hội...cụ thể năm 2006, ngân sách TW đã chi từ nguồn dự phòng hỗ trợ
487,5 tỷ đồng và trích quỹ dự trữ quốc gia 11.650 tấn gạo để hỗ trợ các địa phương khắc phục
hậu quả thiên tai, lũ lụt. Con số này trong năm 2007 là 1.750 tỷ đồng va 30.850 tấn gạo .
Hằng năm chi thường xuyên ngân sách đều tăng trung bình hơn 5% so với dự toán đầu năm
được giao, tuy nhiên cơ quan tài chính đã tập trung bố trí đủ nguồn để đáp ứng các nhu cầu
chi thường xuyên phát sinh theo nguyên tắc cân đối ngan sách và bội chi ngân sách chỉ dùng
cho đầu tư phát triển. Đồng thời với việc đảm bảo điều hành chi ngân sách theo dự toán được
giao, cơ quan Tài chính đã thực hiện linh hoạt và có hiệu quả các biện pháp điều hành kinh tế
vĩ mô của Chính phủ như chính sách kiềm chế lạm phát năm 2008 với việc thắt chặt chi tiêu
công, cơ quan tài chính đã kiểm soát thực hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên của
các đơn vị sử dụng ngân sách với tổng số tiền 1.916.164 triệu đồng để thực hiện các mục tiêu
do Chính Phủ chỉ định.
3. Vai trò kiểm soát các khoản chi của Kho bạc nhà nước :
7


Kho bạc nhà nước là cơ quan có nhiệm vụ xuất quỹ ngân sách và kiểm soát chi trực
tiếp đối với các khoản chi khi thực hiện xuất quỹ thông qua việc chịu trách nhiệm về tính hiệu
lực của khoản chi (đảm bảo có trong dự toán, đúng tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi NSNN
của cơ quan có thẩm quyền) và tính hợp lệ của khoản chi ( hồ sơ, chứng từ hợp lệ, hợp pháp);
Tại Khoản 4 Điều 52 Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước thì trách nhiệm của kho bạc nhà nước được quy
định : “a) Thực hiện việc thanh toán, chi trả các khoản chi ngân sách nhà nước căn cứ vào
dự toán được giao, quyết định chi của Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách và tính hợp pháp
của các tài liệu cần thiết khác quy định tại Điều 51 của Nghị định này;
b) Có quyền từ chối các khoản chi ngân sách không đủ điều kiện chi quy định tại Điều 51 của
Nghị định này hoặc tạm dừng thanh toán theo yêu cầu của cơ quan Tài chính đối với các
trường hợp quy định tại điểm c Khoản 1 Điều này;

c) Thủ trưởng cơ quan Kho bạc Nhà nước chịu trách nhiệm về các quyết định thanh toán, chi
ngân sách hoặc từ chối thanh toán chi ngân sách quy định tại điểm a và điểm b Khoản 2 Điều
này.”
Như vậy, vai trò của KBNN được thể hiện qua trách nhiệm thực hiện việc kiểm soát
chi theo đúng quy định của Luật NSNN; đảm bảo các khoản chi được kiểm soát chặt chẽ, đủ
điều kiện chi; đảm bảo thanh toán, chi trả NSNN một cách kịp thời; trong một số trường hợp,
pháp luật quy định cho cơ quan kiểm soát chi được quyền tạm cấp kinh phí cho đơn vị sử
dụng NSNN khi khoản chi chưa có dự toán được giao, đặc biệt là những khoản chi liên quan
đến chính sách an sinh xã hội ( lương hưu, trợ cấp người có công...) để đảm bảo việc thanh
toán kịp thời cho các đối tượng thụ hưởng. Tuy nhiên, trước khi thanh toán, chi trả, Kho bạc
nhà nước có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ chi và nếu có đủ các điều kiện chi
theo quy định của pháp luật thì thanh toán kịp thời các khoản chi ngân sách đó cho người thụ
hưởng, phối hợp tham gia cùng với cơ quan tài chính, cơ quan quản lí nhà nước có thẩm
quyền trong việc kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí NSNN và xác nhận số thực chi NSNN
qua kho bạc nhà nước của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Trong quá trình kiểm soát
quản lí, cấp phát nếu phát hiện khoản chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được
duyệt, không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của Nhà nước, không đủ các điều
kiện chi theo quy định của pháp luật thì Kho bạc nhà nước sẽ từ chối thanh toán, chi trả, đồng
thời thông báo cho đơn vị sử dụng ngân sách và cơ quan tài chính đồng cấp biết để giải quyết.
Như vậy, trong quá trình cấp phát, thanh toán, KBNN không thụ động thực hiện theo các lệnh
8


của cơ quan tài chính, đơn vị thụ hưởng ngân sách một cách đơn thuần mà hoạt động tương
đối độc lập và có sự tác động trở lại đối với các cơ quan, đơn vị đó. Thông qua đó, KBNN
đảm bảo cho quá trình quản lý sử dụng công quỹ được chặt chẽ, đặc biệt là trong mua sắm,
sửa chữa lớn, xây dựng,… Vì vậy không những hạn chế được tình trạng lãng phí, thất thoát,
tiêu cực mà còn đảm bảo cho việc sử dụng NSNN đúng mục đích, hợp pháp, tiết kiệm và có
hiệu quả. Đồng thời góp phần kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng tiền mặt trong thanh
thanh toán, đảm bảo sự ổn định lưu thông tiền tệ. Thông qua việc cấp phát, thanh toán các

khoản chi của NSNN, KBNN còn tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi
NSNN qua KBNN theo từng địa bàn, từng cấp ngân sách và từng loại chi chủ yếu. Rút ra
những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, cùng với các cơ quan hữu quan
nghiên cứu và hoàn thiện cơ chế thanh toán, chi trả và kiểm soát NSNN qua KBNN.
Để tăng cường vai trò của mình trong kiểm soát chi NSNN, KBNN chủ động bố trí
vốn cho từng đơn vị KBNN trực thuộc để chi trả đầy đủ, kịp thời và chính xác cho các cơ
quan đơn vị trên cơ sở dự toán NSNN được duyệt và yêu cầu rút dự toán của đơn vị sử dụng
ngân sách. Bên cạnh đó, KBNN còn thường xuyên cải tiến quy trình cấp phát, thanh toán như
mở rộng hình thức thanh toán điện tử trong nội bộ hệ thống, cải tiến chế độ kế toán, đưa ứng
dụng tin học vào qui trình nghiệp vụ,… Từng bước thực hiện cấp phát, chi trả trực tiếp cho
người được hưởng hoặc người cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo tính chất từng khoản chi
NSNN. Trên cơ sở đó, KBNN thực hiện kiểm trả và hoạch toán các khoản chi NSNN theo
đúng chương, loại, mục, khoản, mục, tiểu mục của Mục lục NSNN; đồng thời cung cấp đầy
đủ, kịp thời các thông tin cần thiết, phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan
tài chính và chính quyền các cấp. Thêm nữa, KBNN còn phối hợp chặt chẽ với cơ quan
tài chính trong việc bố trí, sắp xếp các nhu cầu chi tiêu, đảm bảo thu, chi NSNN luôn
được cân đối, việc điều hành quỹ NSNN được thuận lợi.
III.

Ý kiến cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ của thủ trưởng đơn vị và hướng giải quyết :
1.
Ý kiến cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ của thủ trưởng đơn vị :
Ta có thể thấy việc thực hiện chế độ tự chủ, thủ trưởng cơ quan đơn vị đã chủ động
triển khai thực hiện nhiệm vụ, chủ động sử dụng kinh phí được giao để hoàn thành nhiệm vụ,
hạn chế tối đa tình trạng cấp dưới chờ xin ý kiến của cấp trên cho phép rồi mới triển khai thực
hiện như trước đây; từng bước hạn chế tình trạng cơ quan chủ quản cấp trên can thiệp quá
sâu, quá chi tiết vào công việc của cơ quan cấp dưới...thủ trưởng cũng như cán bộ công chức
đã sử dụng kinh phí đúng lúc, đúng mục đích hơn, hạn chế tình trạng “chạy kinh phí còn dư
cuối năm để chi tiêu cho hết, mặc dù việc chi tiêu đó chưa thực sự cần thiết”.
9



Tuy nhiên, việc quy định: thủ trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm
về việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản nhà nước theo đúng chính sách, chế độ, tiêu
chuẩn, định mức và dự toán được giao; trường hợp vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định. Như
vậy, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách ở đây là trách nhiệm quản lý,
không phải trách nhiệm trực tiếp liên quan đến một khoản kinh phí được xuất quỹ ngân sách.
Theo quan điểm cá nhân, quy định như vậy dẫn đến xu thế các đơn vị sử dụng Ngân sách
thường đẩy trách nhiệm kiểm soát chi Ngân sách cho cơ quan KBNN, vì họ cho rằng việc cần
chi thì cứ phải chi, còn việc chi được hay không là do KBNN chịu trách nhiệm. Nhận định
này có thể được minh chứng qua số liệu kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN qua các năm
từ năm 2002 đến năm 2010, số tiền kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN tăng qua các năm,
đồng thời là số đơn vị bị phát hiện chưa chấp hành đúng chế độ chi tiêu ngân sách cũng tăng
qua các năm, số tiền chi thường xuyên KBNN đã từ chối thanh toán hàng năm gần 200 tỷ
đồng, mà chủ yếu là các khoản chi chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức, chưa chấp hành
đúng chế độ đấu thầu ( chỉ định thầu sai thẩm quyền, áp sai hình thức lựa chọn thầu, không kí
hợp đồng...)không có trong dự toán được giao. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước (KBNN),
chỉ riêng trong 11 tháng đầu năm 2010, hệ thống KBNN đã thực hiện kiểm soát chi thường
xuyên ước đạt 347.435 tỷ đồng. Thông qua công tác kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước
(NSNN), các đơn vị KBNN đã phát hiện 40.133 khoản chi của 16.110 lượt đơn vị chưa chấp
hành đúng thủ tục, chế độ quy định và đã yêu cầu đơn vị bổ sung các thủ tục cần thiết; từ chối
chưa thanh toán với số tiền khoảng 302 tỷ đồng chưa đủ điều kiện chi theo quy định.
2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc thực hiện nhiệm vụ kiểm soát các khoản chi của
thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách :
Đối với đơn vị sử dụng ngân sách, pháp luật cần tăng cường quyền lực cho thủ trưởng
đơn vị trong vấn đề tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng kinh phí NSNN, đặc biệt là
các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của thủ
trưởng đơn vị không chỉ dừng lại ở quyền được quyết định các định mức chi cao hoặc thấp

hơn quy định của nhà nước mà quyền tự chủ ở đây cần gắn với việc chủ động sử dụng nguồn
kinh phí để hoàn thành kết quả công việc, hiệu quả sử dụng kinh phí gắn liền với việc xác
định kết quả đầu ra của công việc.
Ngoài ra, để hạn chế tình trạng thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách “quan liêu”, làm
việc thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến xu thế các đơn vị sử dụng Ngân sách thường đẩy
trách nhiệm kiểm soát chi Ngân sách cho cơ quan KBNN, vì họ cho rằng việc cần chi thì cứ
phải chi, còn việc chi được hay không là do KBNN chịu trách nhiệm; theo ý kiến cá nhân em,
10


pháp luật cần phải có những quy định nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của thủ trưởng
đơn vị, gắn trực tiếp trách nhiệm của thủ trưởng với các khoản chi do thủ trưởng phê duyệt.
Việc pháp luật đề cao trách nhiệm thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách sẽ góp phần ngăn
chặn tình trạng chi tiêu lãng phí, không hiệu quả do người lãnh đạo buộc phải cẩn trọng hơn
khi đưa ra các quyết định quản lý tại đơn vị mình. Do đó, căn cứ vào tình hình thực hiện
nhiệm vụ được giao, thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ tự quyết định bố trí số kinh
phí được giao vào các mục chi phải thật phù hợp, điều chỉnh giữa các mục chi (nếu xét thấy
cần thiết) và quy định một số mức chi cụ thể trong chi quản lý hành chính và chuyên môn,
song không vượt quá mức tối đa mà cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đối với các khoản chi
chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn định mức, chưa chấp hành đúng chế độ đấu thầu… cần làm rõ
trách nhiệm của thủ trưởng : Tại sao lại phê duyệt những khoản chi không đúng với yêu cầu,
không nằm trong dự toán... Từ đó sẽ có những biện pháp khiển trách, xử lí kỉ luật thích đáng.
Việc làm này không chỉ giúp KBNN giảm tải được việc kiểm soát những khoản chi không
hợp lý mà còn nâng cao tinh thần làm việc của thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách nói riêng
và đơn vị sử dụng ngân sách nói chung.

KẾT LUẬN
Hoạt động kiểm soát chi NSNN ở Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia trên toàn thế
giới luôn được xem là một công vụ đặc biệt quan trọng của Nhà nước trong quá trình quản lý
công quỹ, giữ gìn kỷ luật tài chính Nhà nước, ngăn ngừa và hạn chế tình trạng tham nhũng,

lãng phí công quỹ. Do đó, các cơ quan tài chính, kho bạc nhà nước và thủ trưởng đơn vị sử
dụng ngân sách cần thực hiện tốt vai trò giám sát của mình để đảm bảo chi đúng, chi đủ và chi
có hiệu quả.

11



×