Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp nâng cao ý thức tự giác học tập cho học sinh lớp 5c, trường tiểu học thành kim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.92 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD& ĐT THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC TỰ GIÁC
HỌC TẬP MÔN TOÁN CHO HỌC SINH LỚP 5C”
TRƯỜNG TIỀU HỌC THÀNH KIM

Người thực hiện:
Lưu Thị Phong
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Thành Kim
Thạch Thành, Thanh
Hoá

SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Toán


MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
2
2
4
6
18
19
19
19


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Đất nước ta đang ngày càng phát triển. Trong sự phát triển đó chúng ta
đang rất cần những con người có tri thức, kiến thức và kĩ năng để đưa đất nước
tiến xa hơn theo kịp với các nước trên thế giới.
Để có nguồn nhân lực tốt phục vụ cho sự phát triển của đất nước, Đảng và
nhà nước đã có nhiều chính sách, cải cách giáo dục nhằm tạo ra những con
người mới đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện nay.

Trong các trường học nói chung, ở trường tiểu học nói riêng hệ thống các
môn học là một trong những nội dung cơ bản để giáo dục học sinh phát triển
toàn diện về tất cả các mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. “Mỗi môn học đều góp phần vào
việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách
con người Việt Nam”[1]. Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng
Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng bởi vì:
- Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong
đời sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các
môn học khác ở tiểu học và chuẩn bị cho việc tốt môn Toán ở bậc Trung học.
- Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình
dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có được phương
pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có
hiệu quả trong học tập và trong đời sống.
- Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề; góp phần phát triển trí thông minh, cách
suy nghĩ độc lập, linh hoạt; khả năng ứng xử và giải quyết những tình huống nảy
sinh trong học tập và trong cuộc sống; nhờ đó mà hình thành và phát triển cho
học sinh các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động mới.[1]
Từ những lí do trên, tôi thấy không thể không chỉ dạy cho học sinh học môn
Toán mà phải dạy làm sao để cho tất cả học sinh đều yêu thích môn Toán nhất là
những học sinh tiếp thu chậm không thích học môn học này.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy đa số học sinh học tốt môn Toán thì ngay từ
khi vào lớp 1 các em đã tiếp thu rất nhanh các kiến thức của môn học này. Các
em luôn được thầy cô khen ngợi, bạn bè nể phục. Vì vậy các em có thêm niềm
tin, sự hứng khởi để tiếp tục học tập. Còn những học sinh học chậm môn Toán
thì ngược lại. Các em luôn có tâm lí mặc cảm thua kém bạn bè, dần dần các em
mất đi hứng thú học tập và không thích học nó mỗi ngày. Những kiến thức Toán
học của các em cũng vì vậy mà bị “hổng” dần từ lớp dưới đến lớp trên. Và khi bị
thầy cô, bố mẹ thúc ép, nhắc nhở thì các em bắt đầu học nhưng càng cố học thì

càng không hiểu gì và thấy đầu óc căng thẳng, các em luôn trong tâm trạng sợ
hãi mỗi khi học đến giờ Toán. Để cân bằng được tâm lí và có thể tiếp tục ngồi
học cùng bạn các em trở nên “chai lì” cảm xúc, mặc kệ thầy cô giáo muốn nói gì
thì nói. Lại cũng có em không hiểu gì, chán quá quay sang nói chuyện chọc phá
bạn xung quanh. Vậy làm sao chúng ta có thể giúp đỡ những học sinh này tiến
bộ trong học tập cũng như có ý thức kỉ luật hơn trong giờ học Toán. Câu hỏi này
đã được nhiều phụ huynh, giáo viên Tiểu học ở các trường đưa ra xem xét, thảo
1


luận để tìm ra câu trả lời. Song chưa có biện pháp nào đem lại hiệu quả như
mong muốn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng học sinh như vậy
nhưng phải kể đến nguyên nhân về đặc điểm tâm lí, nguyên nhân chủ quan do
đặc điểm của học sinh tạo nên, nguyên nhân về môi trường sống, môi trường
hoạt động học tập của các em,...
Để giảm thiểu tình trạng học sinh như vậy, là giáo viên trong trường Tiểu
học, người chịu trách nhiệm trước nhà trường, trước cha mẹ học sinh và xã hội
về chất lượng học tập, giáo dục học sinh tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở
trước thực trạng trên.
Xuất phát từ suy nghĩ đó, tôi đã tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và tìm ra
được: “Một số biện pháp nâng cao ý thức tự giác học tập môn Toán cho học
sinh lớp 5C”, trường Tiểu học Thành Kim.
1.2.Mục đích nghiên cứu:
- Để làm cơ sở lí luận cho việc xác định động cơ học tập của học sinh.
- Để nắm chắc lí thuyết về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học.
- Để phân tích được nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không có động cơ học
tập đúng đắn.
- Để tìm ra được một số biện pháp nâng cao ý thức tự giác học tập môn Toán
cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:

Đề tài này nghiên cứu vấn đề tại sao học sinh tiếp thu chậm môn Toán không
có mục đích, động cơ học tập và không thể tiếp thu một cách dễ dàng các kiến
thức thuộc chương trình sách giáo khoa của môn học.
Qua đó, góp phần nâng cao ý thức tự giác học tập môn Toán cho học sinh
chậm tiếp thu ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 5C trường Tiểu học Thành
Kim nói riêng một cách triệt để, có hiệu quả.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp quan sát, trò chuyện giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo
viên với học sinh.
- Một số phương pháp hỗ trợ khác: đọc sách, tham khảo tài liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Năm 1983 tiến sĩ, giáo sư Howard Gardner – một chuyên gia hàng đầu về
nhận thức và giáo dục của trường đại học Havard -Mỹ đã đưa ra nhận định: Việc
đánh giá con người chỉ theo chỉ số IQ là chưa đủ. Ông cho rằng: Trong con
người tồn tại cái gọi là trí thông minh đa dạng. Theo Howard Gardner: Trong
mỗi người đều tồn tại 8 loại thông minh. Đó là: Thông minh về ngôn ngữ;
Thông minh về Lôgic -Toán học; Thông minh về Âm nhạc; Thông minh về Thể
chất; Thông minh về Không gian; Thông minh về Nội tâm; Thông minh về Giao
tiếp xã hội. Tuy nhiên biểu hiện thông minh của từng người có sự khác nhau,
không ai hay có ít người trong chúng ta có thể giỏi đồng đều cả 8 loại trí thông
minh nhưng mỗi người vẫn đều có thể vượt trội trong một vài lĩnh vực nhất
định. Tám lĩnh vực thông minh này rất khác nhau nhưng lại có giá trị tương
2


đương nhau. Ta có thể khám phá, kích thích bồi dưỡng trí thông minh dù đang ở
mức độ thấp hay cao bằng cách tạo ra nhiều cơ hội để các em tiếp xúc được với

nhiều tình huống liên quan đến việc sử dụng các trí thông minh. Theo Howard
Gardner thì học tập là một quá trình mang tính xã hội và tâm lí. Chính các giáo
viên phải hiểu được mọi đứa trẻ đều có thế mạnh riêng và không nên áp đặt chỉ
số IQ để đánh giá học sinh của mình. Trẻ có thể tiếp cận để hiểu vấn đề từ nhiều
góc độ. Vì vậy nếu trẻ không thể học theo cách mà bạn dạy trẻ thì bạn phải dạy
trẻ theo cách mà trẻ muốn học. Còn một điều nữa đó là nếu trẻ thích thú với
những gì mình học thì trẻ sẽ nhớ lâu hơn. Khi bạn hiểu được học sinh của mình
thì cuộc sống và các khái niệm trở nên thú vị khi bạn dạy chúng. [2]
Mặt khác, chúng ta cũng biết hoạt động học là hoạt động đặc thù của con
người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo mới, những giá trị, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động
nhất định. Để hình thành hoạt động học cần: hình thành động cơ học tập; hình
thành mục đích học tập; hình thành các hành động học tập.
Theo thuyết tâm lí học hoạt động những đối tượng nào được phản ánh vào óc
ta mà có tác dụng thúc đẩy hoạt động, xác định phương hướng hoạt động để thoả
mãn nhu cầu nhất định thì được gọi là động cơ hoạt động. Khi con người có nhu
cầu học tập, xác định được đối tượng cần đạt thì xuất hiện động cơ học tập.
Động cơ học tập được chia thành hai loại là động cơ bên ngoài (động cơ xã
hội) và động cơ bên trong (động cơ hoàn thiện tri thức). Trong hai động cơ này
thì động cơ bên trong được cho là tối ưu hoá trong lĩnh vực sư phạm”.[3]
Từ việc nghiên cứu động cơ bên trong có tác động như thế nào đến hoạt
động học tập, các nhà tâm lí học và giáo dục học trên thế giới đều đã cho thấy
việc đánh giá có vai trò to lớn trong sự hình thành động cơ học tập ở học sinh.
Các nghiên cứu và quan sát còn cho thấy rằng, trong những năm đầu ở bậc tiểu
học thì tác động đánh giá của giáo viên giữ vai trò cơ bản trong quá trình khả
năng tự đánh giá của học sinh. Người ta cũng nghiên cứu vấn đề ảnh hưởng của
sự đánh giá sư phạm đến sự hình thành nhân cách của học sinh học chậm. Kết
quả cho thấy, ở những năm đầu của bậc tiểu học, các học sinh học đuối có
khuynh hướng đánh giá lại kết quả lao động học tập của mình. Một bộ phận học
sinh bộc lộ xu thế đánh giá thấp mình. Những lời đánh giá, khen, chê - nghĩa là

những loại khác nhau của sự củng cố bằng lời – là những tác động có tác dụng
thúc đẩy hoạt động học tập. Tất cả các nhà nghiên cứu đều kết luận rằng: cần
phải sử dụng những tác động đó một cách rất thận trọng, tế nhị, với sự tính đến
các đặc điểm lứa tuổi và cá thể của học sinh, bởi vì chúng không chỉ ảnh hưởng
đến các động cơ nhất thời, tình huống của hoạt động học tập, mà khi sử dụng
chúng một cách lâu dài còn hình thành nên sự tự đánh giá cũng như một loạt các
đặc điểm nhân cách khác của học sinh nữa.[4]
Bên cạnh những nghiên cứu của các nhà tâm lí học và giáo dục học nêu trên.
Ta thấy rằng học sinh tiểu học là lứa tuổi mà các em có hành vi ý chí chưa cao,
bản tính hiếu động, khó kiềm chế, kém tự chủ nên dễ phạm lỗi, nhất là đối với
các yêu cầu có tính nghiêm ngặt, đòi hỏi sự tập trung cao độ, gây căng thẳng. Do
đó, để học sinh duy trì chất lượng học tập, duy trì hứng thú với môn học chúng
ta phải khơi gợi được ý chí phấn đấu vươn lên hoàn thiện bản thân của các em
3


học sinh và cũng phải rèn luyện thường xuyên liên tục thì mới mong có được
những thành công như mong đợi. Flavius Vegetius Renatus một chuyên gia quân
sự La Mã đã từng nói: “Ít người sinh ra đã can đảm; rất nhiều người trở thành
như vậy qua rèn luyện và kỷ luật” [1]. Điều này cho thấy ý chí và nghị lực của
con người có thể rèn luyện được. Nhưng chúng ta sẽ rèn luyện chúng như thế
nào thì George Sand một tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp đã từng nói: “Mỗi
người thay đổi từng ngày và vài năm trôi qua đã trở thành người hoàn toàn
khác”[1], Henry David Thoreau một nhà văn, nhà thơ, nhà tự nhiên học, nhà sử
học, nhà triết học, nhà địa hình học mẫu mực người Mỹ cũng đã từng nói:
“Cũng như một bước chân đơn độc không thể tạo nên đường mòn trên mặt đất,
một ý nghĩ đơn độc không thể tạo nên con đường của tư duy. Để xây dựng con
đường hằn sâu xuống đất chúng ta phải qua lại rất nhiều”[1]. Điều này cho thấy
con người chúng ta muốn có được một khả năng, một ý chí nào đó thì cần phải
rèn luyện liên tục và lặp lại nhiều lần.

Để có thể rèn cho học sinh tiểu học có hành vi ý chí cao, năng lực tự chủ
vững vàng khi tham gia học tập thì không thể thiếu được yếu tố giáo dục. Hồ
Chí Minh một nhà văn, một nhà thơ, một nhà quân sự, một nhà giáo dục vĩ đại
của dân tộc Việt Nam cũng đã từng nói: “Hiền dữ đâu phải do tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên”[1]. Điều này cho thấy người giáo viên phải xác định
cho mình nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được đó là phải là người tìm ra
những biện pháp, giải pháp tốt có thể giúp học sinh của mình tiến bộ, cải biến
những biểu hiện chưa được tốt của các em. Giúp các em có thể học tốt các môn
học hết khả năng có thể có của các em trong nhà trường.
Trong các chủ trương, đường lối phát triển giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà
nước, các nhà giáo dục đã đề xuất những định hướng làm cơ sở cho việc đổi mới
phương pháp dạy học. Định hướng này cũng đã được thể hiện và được thể chế
hoá trong Luật Giáo dục: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng
lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”(Luật
giáo dục 2005, Chương I, Điều 5).[5]. “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng
làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh” (Luật giáo
dục 2005, Chương II, Điều 28) [5].Đây chính là các quan điểm tiếp cận về đổi
mới phương pháp dạy học và thực tiễn giáo dục nước ta.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
2.2.1.Nhà trường
Trường Tiểu học Thành Kim đóng trên địa bàn xã Thành Kim, huyện Thạch
Thành, tỉnh Thanh Hoá. Là trường có bề dày thành tích trong công tác giáo dục,
có đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn. Bên cạnh đó, nhà trường còn
có đội ngũ Ban giám hiệu dày dặn kinh nghiệm, luôn theo sát, quan tâm chú
trọng đến chất lượng giáo dục. Toàn trường có 21 lớp. Theo điều tra, khảo sát
chất lượng học sinh lớp 5 về môn Toán thì trung bình mỗi lớp sẽ có từ 3-4 em

tiếp thu rất chậm môn Toán. Con số này tuy không nhiều, tuy nhiên để có thể
4


giúp đỡ các em này tiếp thu bài và làm được bài môn Toán đạt chuẩn kiến thức
kĩ năng cơ bản lại rất khó. Hầu hết tất cả các giáo viên trong trường luôn tìm
mọi cách để giúp đỡ những học sinh này có thể học tốt hơn môn Toán nhưng
chưa có được biện pháp tối ưu khắc phục được tình trạng này.
2.2.2.Học sinh
Học sinh lớp 5 là học sinh cuối cấp Tiểu học, các con số, khái niệm toán học
không còn mới lạ với các em. Tuy nhiên, việc nắm bắt các kiến thức liên quan
đến các con số, khái niệm Toán học của những học sinh tiếp thu chậm môn Toán
lại vẫn mới mẻ như chưa được biết đến bao giờ và không sao nắm chắc được
bản chất của khái niệm.
Năm học 2017-2018 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5C. Đây là lớp có
nhiều học sinh tiếp thu chậm môn Toán nhất khối. Toàn lớp có 22 em. Qua khảo
sát chất lượng đầu năm cũng như quan sát quá trình tiếp thu bài và làm bài trên
lớp của các em tôi thấy lớp chỉ có 6 em tiếp thu bài môn Toán rất tốt đó là các
em: Nhi, Duy, Ngọc Anh, Xuân Minh, Dung, Khiêm; có 10 em tiếp thu và nắm
được kiến thức cơ bản của môn học đó là các em: Dương, Khánh, Quang Minh,
Vy, Dũng, Nguyên, Mai, Thạch, Sang, Phong. Số còn lại tiếp thu bài chậm,
nhiều bài các em không hiểu gì mặc dù cô giáo đã giảng đi giảng lại nhiều lần.
Khi học, các em không tập trung chú ý, còn hay nói chuyện riêng, làm việc
riêng, đó là các em: Hải, Hiệp, Hồng, Nga, Thiên, Huy. Trong 6 em này có 2 em
sức khoẻ yếu hay nghỉ học, đó là em: Huy, Thiên. Đây là những học sinh cần
được giúp đỡ, hỗ trợ rất nhiều của giáo viên, phụ huynh học sinh, các bạn cùng
lớp trong việc hướng dẫn cách học cũng như kèm cặp, giúp đỡ để các em tiến bộ
trong môn Toán.
Qua tiếp xúc, trò chuyện với những học sinh này, cũng như quan sát việc
tiếp thu bài, làm bài của các em ở trên lớp, cùng với nghiên cứu tìm hiểu các tài

liệu có liên quan. Tôi thấy, nguyên nhân sâu xa của thực trạng trên ở những học
sinh tiếp thu chậm môn Toán đó là:
- Các em không có mục đích, động cơ học tập
- Các kiến thức trong chương trình khó hiểu, không hấp dẫn thu hút các em.
- Một số em có bản tính hiếu động, kém tự chủ, khả năng tiếp thu chậm.
- Một số khác hổng kiến thức, sức khoẻ yếu, bố mẹ chưa quan tâm sát sao việc
học tập ở nhà.
2.2.3.Cha mẹ học sinh:
Năm học 2017-2018, lớp 5C do tôi chủ nhiệm có tổng số 23 học sinh. Trong
đó có 1HS khuyết tật. Tất cả phụ huynh của lớp đều mua sắm đầy đủ sách, vở,
đồ dùng học tập cho con mình đến trường. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế của đa
số các phụ huynh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Cùng với việc khó khăn về
kinh tế, những phụ huynh này cũng không có thời gian quan tâm đến việc học
của con em mình. Toàn lớp chỉ có 5 phụ huynh gia đình có điều kiện kinh tế khá
giả, công việc ổn định, rất quan tâm đến việc học của con. Số phụ huynh còn lại
không có công việc ổn định, mức thu nhập thấp, ít quan tâm đến việc học của
con. Trong 17 phụ huynh còn lại này, có 3 trường hợp phụ huynh sống trong
cảnh “gà trống nuôi con” các em thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ, đó là
trường hợp của các em: Trần Mỹ Dung, Nguyễn Ngọc Mai và Nguyễn Văn
5


Thiên. Tuy nhiên em Dung vẫn được bố quan tâm chăm lo đến việc học hành,
còn em Mai và em Thiên thì bố không để ý đến việc học của con như thế nào,
các em tự học được đến đâu thì học. Bố của em Thiên còn hay cờ bạc không
nuôi nổi em nên em sống cùng với ông bà. Ông, bà già yếu không có kiến thức
để dạy dỗ, lại phải nuôi 3 đứa cháu nên cũng không đủ sức để quan tâm đến việc
học của em Thiên; 2 phụ huynh của em Nguyễn Minh Hải, Trịnh Bảo Nga biết
con mình học chậm, cũng cố gắng dạy nhưng các em không tiến bộ. Mặt khác,
kiến thức dạy học của các phụ huynh này cũng có hạn nên họ phó mặc cho thầy

giáo, cô giáo dạy dỗ các em; 1phụ huynh điều kiện kinh tế khá giả nhưng mải
làm ăn buôn bán, ít quan tâm đến việc học của con, đó là phụ huynh của em
Nguyễn Văn Hiệp.
Dưới đây là bảng thống kê mức độ hoàn thành tốt, hoàn
thành và chưa hoàn thành môn Toán của học sinh lớp 5C đầu
năm học 2017-2018. Số lượng tính: 22 học sinh:
Mức
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Môn
Số lượng
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
lượng
Toán
6
26%
10
48%
6
26%
Trước thực trạng trên vào đầu năm học, tôi đã rất quan tâm, kèm cặp các em
ở trên lớp, nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn thêm ngoài giờ học, tăng buổi tăng
tiết ngoài lịch dạy học của nhà trường nhưng kiến thức và bài tập các em làm
được cũng chẳng được bao nhiêu. Các em vẫn rất chậm hiểu bài và không hoàn
thành hết được các bài tập cơ bản ở trong SGK hoặc có hoàn thành được các bài

tập đó nhưng không đúng theo thời gian quy định. Các em có tâm lí không muốn
học, ngại học khi đến tiết Toán nên thường lấy sách vở thật chậm, ghi chép đề
bài cũng thật chậm, nói chuyện riêng, làm việc riêng mong sao cho nhanh hết
giờ để không phải làm bài hoặc nhanh đến phần chữa bài để chỉ việc chép bài
vào vở coi như cũng hoàn thành đủ các bài tập.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Từ thực trạng trên để góp phần nâng cao chất lượng học sinh tiếp thu chậm
môn Toán ở lớp 5C, trường Tiểu học Thành Kim tôi mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp sau:
2.3.1.Trao niềm tin, ý chí, động lực cho các em
Có một thực tế là những học sinh học tiếp thu chậm môn Toán không tự tin
vào bản thân, vào những gì mình làm được ở môn học. Các em không có ý chí,
động lực để học và các em nghĩ rằng mình thực sự không biết gì về môn học
này. Đấy có phải là sự thật không hay là sự nhầm tưởng của các em. Theo như
trình bày ở phần cơ sở thực tiễn, mỗi một người đều tồn tại 8 loại trí thông minh.
Tuy nhiên biểu hiện thông minh của mỗi đứa trẻ có sự khác nhau. Những trẻ có
trí thông minh lôgic –Toán học phát triển thì học tốt môn Toán còn những trẻ có
trí thông minh lôgic –Toán phát triển thấp thì học không được tốt môn học này.
Song chúng ta lại vẫn có thể khám phá, kích thích, bồi dưỡng trí thông minh này
để chúng phát triển bẳng cách tạo ra nhiều cơ hội để các em có thể tiếp xúc với
nhiều tình huống có liên quan đến việc sử dụng trí thông minh lôgic- Toán học.
Với phát hiện quan trọng về khả của của con người của Howard Gardner, tôi đã
6


truyền đạt đến tất cả học sinh lớp tôi một niềm tin rằng tất cả các em đều là
những con người rất thông minh chẳng qua các em chưa khám phá hết mình
thông minh trong lĩnh vực nào mà thôi. Tôi giải thích cho học sinh tiếp thu chậm
môn Toán thấy rằng các em không phải là không có trí thông minhToán học chỉ
là trí thông minh này của các em không phát triển ở mức cao. Song các em vẫn

có thể làm cho nó phát triển lên nếu các em chịu khó học tập, rèn luyện nó mỗi
ngày.
Bên cạnh việc trao niềm tin vào khả năng của chính mình đến với các học
sinh, việc đánh giá, khen, chê của giáo viên cũng có tác dụng thúc đẩy hoạt động
học tập. Vì thế, khi hướng dẫn học sinh học chậm môn Toán làm bài tôi luôn
khen học sinh dựa vào những kiến thức các em nắm tốt mặc dù nó rất ít ỏi; động
viên để các em làm lại, học lại các kiến thức chưa nắm chắc.
Ví dụ: Khi làm bài tập mặc dù kết quả làm bài của các em tiếp thu chậm
môn Toán chỉ đúng một hoặc hai bài nhỏ nhưng tôi vẫn nhận xét là: “Em đã rất
cố gắng làm bài. Cô khen em.” Và nói riêng với các em: “Các bài còn lại, em về
nhà xem lại kiến thức và làm lại chắc sẽ đúng nhiều hơn”. Cách làm này khác
với cách làm cũ của tôi đó là nếu học sinh chỉ làm đúng một hai bài nhỏ tôi sẽ
nhận xét: “Em cần cố gắng hơn nữa”. Từ đó, các em đã có rất nhiều chuyển biến
trong việc tự giác tích cực học tập môn Toán và dần dần các em có niềm yêu
thích môn Toán.
2.3.2. Tạo hứng thú bằng cách làm cho học sinh nhận thức được tầm quan
trọng và thiết thực của bài học
Trong chương trình Toán ở Tiểu học nói chung, Toán lớp 5 nói riêng. Mỗi một
bài học đều chứa đựng một lượng kiến thức cần thiết mà các nhà xây dựng
chương trình đưa ra trên cơ sở nghiên cứu các đặc điểm tâm lí lứa tuổi, khả năng
tiếp nhận tri thức của học sinh, giúp các em có một một lượng kiến thức đầy đủ,
cơ bản nhất phục vụ cho việc học lên lớp trên cũng như ứng dụng ngoài thực
tiễn. Ý thức được tầm quan trọng và thiết thực của mỗi bài học đối với các em
học sinh, là người giáo viên tôi luôn suy nghĩ làm sao để có thể truyền tải được
hết lượng kiến thức cơ bản, tối thiểu nhất đến các em nhất là những em tiếp thu
chậm môn Toán.
Như chúng ta đã biết con người có một đặc điểm chung phổ biến đó là: Nếu
mỗi một cá nhân con người thấy được tầm quan trọng và thiết thực của một hành
động, một việc làm nào đó đem lại lợi ích cho bản thân thì sẽ tự động, tự giác
làm mà không cần ai phải thúc ép. Áp dụng điều này vào dạy học, để cho học

sinh tự giác, tự động học các bài học Toán mà không phải thúc ép tôi đã làm cho
học sinh nhận thức được tầm quan trọng và thiết thực của mỗi bài học thông
qua giới thiệu bài; thông qua việc đúc rút kiến thức sau thực hành giúp các em
có hứng thú, động lực để học bài. Từ đó các em nắm được lượng kiến thức, kĩ
năng tối thiểu trong chương trình cần đạt.
Ví dụ:Khi giới thiệu bài “Giải toán về tỉ số phần trăm(tiếp theo)”.SGK.Tr76 tôi
đã đưa con số: 0,5% viết lên bảng và hỏi học sinh: Các em có biết con số này
nói lên điều gì không ? Học sinh bắt đầu đoán và nêu. Cuối cùng tôi nói: Đây
chính là lãi suất tiết kiệm một tháng của một ngân hàng. Vậy với mức lãi như
vậy thì một người gửi 10 000 000 đồng sau một tháng sẽ được thêm bao nhiêu
7


tiền các em có biết không? Học sinh sẽ trả lời là không. Giáo viên nói tiếp:
Chuyện gì sẽ xảy ra khi sau này khi chúng ta lớn lên đi làm, có một số tiền nào
đó để gửi ngân hàng mà chúng ta lại không biết mình được thêm bao nhiêu tiền
một tháng? Học sinh sẽ nêu dự đoán (Đó là những rủi ro). Tôi tiếp tục nói:
Chúng ta có muốn những rủi ro như vậy sẽ đến với mình trong tương lai không?
Học sinh sẽ trả lời không. Lúc này giáo viên sẽ nói tiếp: Để điều đó không xảy
ra với các em sau này chúng hãy cùng tìm hiểu cách tính lãi gửi ngân hàng qua
bài học hôm nay. Như vậy với việc nêu ra tình huống thực tế trong cuộc sống có
ảnh hưởng đến lợi ích của mỗi cá nhân sau này khi lớn lên, giáo viên đã tạo cho
học sinh có động lực để học bài học một cách tự giác, tích cực mà không cần
phải phải thúc ép.
2.3.3. Tạo hứng thú bằng cách tác động vào nội dung dạy học
*Qua giới thiệu bài:
Theo quy trình dạy học của tất cả các môn học nói chung, môn Toán nói riêng.
Trước khi bắt đầu học tiết Toán, giáo viên sẽ giới thiệu bài để cho học sinh nắm
được mục tiêu, lợi ích của tiết học từ đó tạo hứng thú học tập cho các em. Song
đa phần các giáo viên đều không coi trọng quy trình này. Do đó trên lớp, trong

các tiết học Toán các giáo viên chỉ giới thiệu sơ qua cho có, dạng giới thiệu bài
trực tiếp như: Hôm trước chúng ta học bài.......Hôm nay chúng ta sẽ học
bài....Với cách giới thiệu này thường không tạo được hứng thú học tập cho các
em ngay từ đầu tiết học nhất là những em tiếp thu chậm môn Toán. Bởi vì, đó là
cách giới thiệu lối mòn ngày nào cô cũng nói và học sinh nghe đã quá quen, nên
khi giáo viên bắt đầu giới thiệu câu trước học sinh đã đoán được câu sau. Do đó
các em không thấy có gì hấp dẫn, lôi cuốn phải khám phá tìm hiểu bài học cả.
Nhận thức được tầm quan trọng của khâu giới thiệu bài trong môn Toán, tôi
luôn luôn tạo hứng thú cho học sinh khi giới thiệu bài thông qua rất nhiều hình
thức khác nhau (tuỳ vào các bài khác nhau) như: giới thiệu qua một câu chuyện,
qua một hình ảnh ẩn dụ, qua sử dụng một đồ vật hoặc mô hình, qua một câu hỏi,
qua một con số hoặc sự kiện gây sốc, qua một trò chơi, qua một câu đố, ô chữ
liên quan đến bài học, qua một bài hát hoặc câu châm ngôn,....
Tất cả các cách giới thiệu đó đều tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn các em một cách
mạnh mẽ, giúp học sinh thấy được tầm quan trọng, cần thiết và lợi ích của việc
học bài. Từ đó, các em có động lực để theo học tiết học đến cùng một cách chăm
chú, hứng khởi.
Ví dụ: Khi giới thiệu cho học sinh học bài: Vận tốc (SGK.Trang 138). Tôi đã
bắt đầu bằng một câu chuyện học sinh đã biết trước, đó là chuyện “Thỏ và Rùa”.
Sau khi kể xong câu chuyện tôi bắt đầu hỏi học sinh: Trong câu chuyện trên,
trước khi Rùa chạy Thỏ đã nói gì với Rùa? Học sinh trả lời (Ta chấp ngươi một
nửa quãng đường đấy). Vậy căn cứ vào đâu mà Thỏ có thể nói như vậy? Học
sinh nêu dự đoán của mình.Giáo viên lại hỏi tiếp: Vậy tại sao Thỏ lại có thể đi
đuổi bướm, hái hoa trong khi Rùa thì đang chạy? Học sinh suy nghĩ, nêu câu trả
lời. Cuối cùng giáo viên nói: Để biết được Thỏ đã dựa vào đâu để có thể chấp
Rùa một nửa đường cũng như biết vì sao Thỏ lại lại có thể đi đuổi bướm, bắt hoa
khi Rùa đang chạy, chúng ta cùng tìm hiểu qua bài “Vận tốc”.
*Qua hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
8



Như đã trình bày ở trên việc giới thiệu bài có tác dụng lôi cuốn hấp dẫn học
sinh đi vào tìm hiểu khám phá bài học. Song các kiến thức cần rút ra trong bài
học thì không dễ gì đối với những học sinh tiếp thu chậm môn Toán. Vậy làm
sao có thể giúp những học sinh này tiếp tục có hứng thú với bài học? Để làm
được điều này, tôi luôn quan tâm xây dựng giáo án có dành ra những câu hỏi
vừa sức với học sinh tiếp thu chậm môn Toán để dẫn dắt các em tự rút ra được
nhận xét, kết luận thuộc kiến thức, nội dung của bài học.
Ví dụ: Trong tiết học toán về “Tỉ số phần trăm”. Học sinh tìm hiểu về tỉ số
phần trăm thông qua ví dụ 1. Để giúp học sinh tiếp thu chậm môn Toán, giải
quyết được yêu cầu của bài toán, tôi đã dẫn dắt các em bằng các câu hỏi vừa sức
có liên quan đến bài toán do cùng dạng mà các em lại rất am hiểu, nắm rõ như:
Trong một trận đấu bóng để ghi lại tỉ số giữa hai đội bóng người ta ghi như thế
nào? Tôi mời một học sinh lên bảng ghi. Sau đó tôi hỏi tiếp: Tỉ số này là của
mấy đội thi đấu trên sân? Học sinh trả lời: Hai đội. Tôi hỏi tiếp: Thứ tự của tỉ số
và tên đội bóng có liên quan như thế nào? Học sinh trả lời. Tôi lại hỏi: Dấu ghi
giữa hai tỉ số đó là dấu gì trong các dấu phép tính mà chúng ta đã học? Học sinh
trả lời: Dấu chia. Cuối cùng tôi nói: Đây chính là tỉ số giữa hai “đơn vị” thi đấu
bóng đá. Áp dụng vào bài toán trên bảng để tìm tỉ số giữa hai đơn vị là “diện
tích trồng hoa” và “diện tích vườn hoa” ta làm như thế nào? Đây là những câu
hỏi vừa sức mà những học sinh tiếp thu chậm môn Toán đều có thể trả lời được.
Việc trả lời được những câu hỏi này giúp các em có thêm niềm tin vào bản thân,
sự hứng khởi trong học tập. Từ đó các em thêm niềm yêu thích học tập môn
Toán.
*Qua việc học sinh báo cáo kết quả:
Sau khi đã nắm được các kiến thức thuộc phần lí thuyết nội dung của bài học.
Để vận dụng chúng vào thực hành thì không phải học sinh nào cũng làm được
hết nhất là những học sinh tiếp thu chậm môn Toán. Đa số các em chỉ làm được
các bài tập số1, số 2 trong sách giáo khoa, các bài tập còn lại các em bắt đầu
thấy khó khăn và lúng túng khi làm bài. Do đó khi báo cáo kết quả làm bài tôi

luôn ưu tiên chọn các em chậm tiếp thu môn Toán chữa các bài số 1, 2 để các em
có cơ hội được thể hiện mình, giúp các em có thêm phần tự tin trước bạn bè.
Ví dụ: Khi học bài “Luyện tập” Trang 88(SGK) có 3 bài tập. Trong đó bài tập
1 tất cả các em tiếp thu chậm môn Toán của lớp đều làm được. Do đó khi đến
phần chữa bài tôi đã ưu tiên gọi những em này lên chữa bài tập 1 ở trên bảng,
giúp các em có thêm phần tự tin trước bạn bè thầy cô.
Bên cạnh những bài tập ở mức độ thấp các em chậm tiếp thu môn Toán có
thể làm được còn có những bài tập ở mức độ cao hơn song cần sự hướng dẫn,
chỉ bảo thêm của giáo viên, bạn bè. Do đó tôi luôn quan tâm kèm cặp hướng dẫn
riêng cho các em này trong các tiết Toán để các em có thể làm được các bài tập
này. Tuy nhiên, khi báo cáo kết quả tôi vẫn ưu tiên gọi những em này lên làm
trên bảng làm hoặc trình bày kết quả trước lớp. Tôi muốn các em có cơ hội được
trình bày lại những gì mình đã làm được hoặc chưa làm được, thông qua đó giúp
các em hiểu được bài tập và tự tìm ra được kết quả đúng. Bằng các câu hỏi gợi
ý, bám vào những kiến thức các em trả lời được tôi kiên trì, dẫn dắt các em tìm
được kết quả cuối cùng mới thôi. Việc làm này giúp các em thấy tự tin hơn vào
9


bản thân, thấy mình được “tôn trọng” khi không bị cô giáo chê bai, chỉ trích,
trách phạt vì làm sai. Từ đó các em thấy phấn chấn và có thể có sáng kiến trong
tương lai.
Ví dụ: Khi học bài “Luyện tập”.Trang 77(SGK) các bài tập số 1,2 các em
chậm tiếp thu môn Toán đều làm được nhưng đến bài tập 3 thì các em bắt đầu
lúng túng. Do đó, tôi đã giúp đỡ, kèm cặp thêm cho các em trong quá trình làm
bài. Và đến phần báo cáo kết quả, tôi luôn chú ý gọi những em học sinh này
trình bày kết quả bài làm của mình. Căn cứ vào những gì các em làm được, chưa
làm được trong bài làm, tôi tiếp tục hướng dẫn các em tìm được kết quả đúng.
Từ đó các em không sợ báo cáo các bài tập khó nữa và cũng tăng thêm phần tự
tin, hứng thú với giờ học.

2.3.4. Tạo hứng thú bằng cách phối hợp phương pháp và hình thức dạy học
linh hoạt
* Qua đồ dùng trực quan(tác động trực tiếp đến đối tượng):
Học sinh lớp 5 là học sinh cuối cấp Tiểu học. Theo như quan điểm của phương
pháp dạy học phát triển thì học sinh học càng lên các lớp trên phương tiện trực
quan càng phải mang tính tượng trưng, trừu tượng và khái quát hơn những
phương tiện trực quan của học sinh lớp dưới. Đó là các phương tiện trực quan ở
dạng sơ đồ, mô hình. Nhưng đối với học sinh chậm môn Toán khả năng tư duy,
lập luận lôgic thường thấp hơn những học sinh cùng lứa tuổi hay mức độ phát
triển nhận thức của các em chỉ ở giai đoạn 1(lớp 1,2) thì đối với một số bài toán,
kiến thức cần giải thích cho học sinh hiểu bằng phương tiện trực quan thì chúng
ta không thể dạy như những học sinh khác. Đó là đưa phương tiện trực quan
dạng sơ đồ, mô hình mà chúng ta phải đưa đồ dùng trực quan là các đồ vật thật
hoặc hình ảnh của đồ vật thật, gần gũi với cuộc sống của các em vào việc dạy
học. Điều này nghe có vẻ thật vô lí và đi ngược lại sự phát triển. Nhưng đối với
những em học sinh chậm môn Toán chỉ có mắt được thấy, tai được nghe, tay
được sờ các em mới nắm bắt được kiến thức khó hiểu, trừu tượng còn chỉ dùng
lập luận lôgíc, các mô hình, sơ đồ để dạy thì các em vẫn thấy trừu tượng và
không nắm bắt được bài.
Ví dụ: Khi hướng dẫn cho học sinh làm bài tập 4(SGK. Tr138-Luyện tập
chung). Nội dung bài tập như sau:
Bạn Lan xem giờ tàu từ ga Hà Nội đi một số nơi như sau:
Ga xuất phát
Ga đến
Giờ khởi hành
Giờ tới
Hà Nội
Hải Phòng
6 giờ 05phút
8 giờ 10 phút

Hà Nội
Lào Cai
22giờ
6 giờ
Tính thời gian tàu đi từ ga Hà Nội đến các ga Hải Phòng, Lào Cai.
Đối với việc tính thời gian đi từ ga Hà Nội đến Hải Phòng thuộc dòng thứ
nhất thì các em cứ áp dụng cách làm ở những tiết học trước là lấy giờ tới trừ đi
giờ khởi hành là ra kết quả. Song đến dòng thứ hai thì các em bắt đầu lúng túng
không biết làm thế nào. Chỉ có một số học sinh học tốt môn Toán là làm được
còn lại các em không biết cách làm hoặc làm sai. Có em cứ lấy giờ tới trừ đi giờ
khởi hành, trừ mãi không ra rồi điền một kết quả nào đó thế là xong. Sau khi
được nghe những học sinh học tốt giải thích cách làm những em học bình
thường môn Toán đã hiểu và làm được bài. Nhưng những em học chậm thì vẫn
10


chẳng hiểu gì hết. Thế là tôi vẽ một chiếc đồng hồ lên bảng và tiếp tục hướng
dẫn giải thích trên biểu tượng đồng hồ cho các em. Tôi đã giải thích qua biểu
tượng cái đồng hồ như sau: Một ngày có 24 giờ, ở đây giờ khởi hành đã là 22giờ
tức là tàu khởi hành vào lúc gần hết ngày, còn 2 giờ nữa là hết một ngày và sẽ
sang ngày tiếp theo. Xe đến Lào cai lúc 6 giờ sáng tức là đã sang ngày mới rồi
nên có thêm 6 giờ nữa. Vậy ta có 2 giờ của ngày cũ thêm 6 giờ của ngày mới
nữa là 8 giờ. Vậy xe chạy từ Hà Nội đến Lào Cai hết 8 giờ. Nhưng khi giải thích
như vậy một số em học chậm môn Toán vẫn không hiểu gì hoặc hiểu một cách
chưa chắc chắn. Điều này xảy ra là vì trong quá trình giải thích qua biểu tượng,
kim giờ và phút nó không thể chạy được như thật nên các em không hiểu vì sao
một ngày lại có 24 giờ (Do kiến thức bị “hổng” từ lớp dưới hoặc học rồi lại
quên). Thế là tôi đã phải dùng chiếc đồng hồ thật để quay từng chiếc kim giờ,
kim phút cho đủ một ngày để học sinh nắm lại kiến thức. Rồi tôi chuyển sang
quay thời gian khời hành cho đến thời gian tới nơi và cho các em xem. Cho các

em tận mắt đếm tổng thời gian đi và đến là được bao nhiêu giờ. Lúc này các em
mới thực sự hiểu bài. Từ đó tôi mới cho các em rút ra kết luận chung về cách
làm cho các bài tập cùng dạng để sau này có gặp thì các em biết cách làm.
* Qua việc tạo ra tình huống có vấn đề:
Như chúng ta đã biết động cơ học tập có vai trò vô cùng quan trọng. Nó là
động lực là định hướng cho hoạt động học tập diễn ra và đi đúng hướng. Thiếu
động cơ thì hoạt động học tập không thể diễn ra được. Những học sinh học chậm
môn Toán thường là không có động cơ học tập. Do đó các em không thích học
môn Toán. Mặt khác việc chậm tiếp thu kiến thức của môn học đối với những
em này cũng một phần do đặc điểm nhận thức của chính bản thân các em không
được tốt. Để giúp các em tiếp thu chậm môn Toán có niềm hứng khởi với môn
học, thì người giáo viên phải khơi gợi được sự hứng thú cho học sinh trong quá
trình học bài và làm bài; cho các em tham gia vào việc tự tìm ra kiến thức. Vì
vậy, trong quá trình giảng dạy trên lớp tôi luôn tổ chức cho học sinh nắm kiến
thức mới thông qua việc nêu ra vấn đề và yêu cầu các em giải quyết các vấn đề
nêu ra theo khả năng hiện có của các em để các em có thể tự phát hiện ra được
những điều mới lạ, giải quyết được các nhiệm vụ của bài học, tạo được những
ấn tượng tốt đẹp với việc học tập môn Toán. Từ đó môn Toán dần trở thành nhu
cầu không thể thiếu của các em.
* Xây dựng các nội dung học tập vừa sức và phù hợp với khả năng, thế mạnh
của học sinh:
Mỗi một người học sinh đều có thế mạnh riêng của mình ở từng lĩnh vực
khác nhau. Những học sinh có trí thông minh vượt trội về lôgic- Toán học các
em sẽ học môn Toán rất tốt. Song số học sinh có trí thông minh này trong một
lớp chiếm rất ít. Bên cạnh đó thì có những em trí thông minh lôgic- Toán học
phát triển ở mức độ rất thấp. Đó là những học sinh tiếp thu chậm môn Toán. Do
đó khi dạy những học sinh này, tôi luôn phải xây dựng các nội dung học tập vừa
sức với các em. Dựa vào mức độ nhận thức môn Toán của những em học sinh
tiếp thu chậm Môn Toán tôi thấy không thể dạy các em tiếp thu kiến thức theo
cách thông thường mà phải dạy thấp hơn mức độ nhận thức chung của những

học sinh khác. Các em sẽ không thể nào hiểu và nắm được bài nếu giáo viên
11


không chia nhỏ từng bước dạy, không đưa ra các câu hỏi động não phù hợp với
nhận thức của các em. Khi giao nhiệm vụ thì chỉ giao một phần nhỏ công việc
của một quả trình tiếp nhận kiến thức, sau khi các em làm thành thạo mới giao
sang công đoạn khác.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh chậm môn Toán thực hiện chia một số thập
phân cho một số thập phân. Nếu chúng ta hướng dẫn cho những học sinh này
thực hiện chia liền mạch theo các bước chia ở trong sách để ra kết quả thì các
em sẽ loạn lên và không nhớ làm bước nào trước, bước nào sau. Điều này do
khả năng tiếp nhận kiến thức môn Toán của các em không được tốt. Vì vậy, tôi
đã hướng dẫn kĩ cho các em thực hiện từng bước một và làm thành thạo bước
này mới sang bước kia. Tôi đã cho học sinh chậm môn Toán đặt tính rất nhiều
phép chia. Sau đó tôi cho các em đếm số chữ số ở phần thập phân của số chia
trong tất cả các phép chia đó cho đến khi thành thạo. Tiếp theo cho học sinh dịch
chuyển dấu phẩy sang bên phải của số bị chia số chữ số bằng số chữ số ở phần
thập phân của số chia mà các em vừa đếm được. Bước này tôi cũng cho học sinh
làm thành thạo với nhiều phép tính khác nhau. Các bước tiếp theo tiến hành làm
tương tự. Và học sinh học chậm môn Toán đã nắm được hết các bước chia và có
thể tự thực hành làm được các phép chia với quả đúng.
Như đã nói ở phần trên, mỗi một người học sinh đều có thế mạnh riêng của
mình ở từng lĩnh vực khác nhau. Nếu chúng ta biết tận dụng thế mạnh của các
em để vận dụng vào dạy học thì sẽ đem lại niềm vui, sự hứng khởi và hiệu quả
cao học tập. Nắm được đặc điểm này, tôi đã nghiên cứu và tìm ra được cách dạy
học thông qua tận dụng thế mạnh của các em. Để tiến hành áp dụng cách dạy
này đến từng học sinh. Tôi bắt đầu tiến hành những công việc sau:
-Quan sát từng học sinh qua học tập trên lớp ở các môn học do tôi dạy, kết
hợp với việc quan sát đánh giá của giáo viên bộ môn khác để xem các em có

biểu hiện hứng thú hơn hết đối với môn học nào và biểu hiện học tập của môn
học đó ra sao.
- Trò chuyện với các em tìm hiểu lí do vì sao không thích học môn Toán. Hỏi
các em thích học môn nào nhất, thích chơi gì nhất vì sao lại thích chúng.
- Trao đổi với phụ huynh xem ở nhà các em thích làm những việc gì, thích
chơi gì và thích học gì nhất.
Sau khi tiến hành những công việc trên tôi đi đến được kết luận được về lĩnh
vực yêu thích, hứng thú cũng như tiếp thu tốt nhất của từng em. Từ đó lồng ghép
kiến thức môn Toán vào các lĩnh vực đó giúp các em nắm được bài, làm được
bài tập.
Ví dụ1: Ở lớp tôi tuy là học sinh lớp 5 rồi nhưng những em học chậm môn
Toán vẫn chưa thuộc hết bảng cửu chương. Đây là kiến thức mà các em học từ
hồi lớp 2,3 nhưng lên lớp 5 rồi mà các em vẫn không thuộc hết. Vì vậy khi làm
các phép tính nhân chia các em thường hay làm sai.
Qua quan sát, tìm hiểu, trò chuyện tôi thấy cả 6 em học chậm môn Toán ở lớp
tôi đều rất thích hát. Thế là, tôi dùng các bài hát về bảng cửu chương dạy cho
các em hát. Qua đó các em đã thuộc được bảng cửu chương một cách dễ dàng
mà không phải cố gắng ghi nhớ một cách máy móc như cũ.
Các bài hát về bảng nhân:
12


Bài hát bảng nhân 2:Tên bài hát: Những con số tung tăng. Sáng tác: Song Thi
Bài hát bảng nhân 3: Tên bài hát: Bảng nhân 3. Sáng tác: Song Thi
Bài hát bảng nhân 4: Tên bài hát: Đàn gà của em. Sáng tác: Song Thi
Bài hát bảng nhân 5: Tên bài hát: Trò chơi trốn tìm. Sáng tác: Song Thi
.................................................................................................................
Bài hát bảng nhân 9: Tên bài hát: Câu hát 10 thương. Sáng tác: Song Thi
Hoặc khi làm các bài tập về diện tích các hình, các em tiếp thu chậm môn
Toán không làm được do các em không nhớ nổi quy tắc, công thức tính diện

tích đã học. Nhưng các em rất thích đọc thơ và nhớ các bài thơ rất dễ dàng.Thế
là tôi đã dùng các bài thơ để giúp các em nhớ công thức tính diện tích các hình
và các em đã nhớ rất tốt.
Bài thơ về chu vi- diện tích-thể tích các hình như sau:
Muốn tính diện tích hình vuông
Cạnh nhân chính nó lẽ thường ra ngay.
Chu vi mình tính thế này
Một cạnh nhân bốn đúng ngay bạn à
Diện tích chữ nhật dễ mà
Dài đem nhân rộng là ra tức thì.
Chu vi chữ nhật bằng gì
....................................................
Sưu tầm + sáng tác
*Giải thích kỹ những từ ngữ khó hiểu trong bài, trong đề:
Trong quá trình học bài, làm bài tập để tiếp nhận kiến thức, rèn luyện các kĩ
năng tính toán những học sinh tiếp thu chậm môn Toán hay gặp phải khó khăn
đó là không hiểu một số từ ngữ có trong bài, trong đề. Do đó, các em lúng túng,
không định hướng được cách làm.Từ đó, cảm thấy Toán học là môn học rất trừu
tượng, khó hiểu và rất sợ học nó. Để giúp học sinh không ngại học Toán mà có
niềm yêu thích môn học này, giáo viên phải giúp các em hiểu được đề bài bằng
cách giải thích kỹ những từ ngữ khó hiểu trong bài, trong đề để các em định
hướng được cách làm từ đó có thể tự làm được bài tập với kết quả đúng.
Ví dụ: Khi học sinh làm bài toán giải sau: Một thửa ruộng hình chữ nhật có
chiều dài 150m, chiều rộng bằng

2
chiều dài. Trung bình cứ 100 m2 của thửa
3

ruộng thu được 60kg thóc. Hỏi trên cả thửa ruộng đó người ta thu được bao

nhiêu tấn thóc?(SGK. Trang 156)
Thường thì những em tiếp thu chậm môn Toán thường không tính được chiều
2
chiều
3
2
2
dài” nghĩa là như thế nào. Có em coi
là chiều rộng luôn và lấy 150 x
để
3
3

rộng bằng bao nhiêu do các em không hiểu từ ngữ “chiều rộng bằng

tính ra diện tích. Như vậy với việc không hiểu các từ ngữ khó hiểu có trong bài
đã khiến các em thấy lúng túng khi làm bài và làm bị sai. Do đó đối với các đề
bài có những từ ngữ khó hiểu như bài toán trên, tôi thường cho học sinh tiếp thu
chậm môn Toán đọc thật chậm và kỹ đề bài khoảng 2-3 lượt. Sau đó cho học
sinh nêu những cái đã biết, cái chưa biết trong đề toán, gạch chân bằng phấn
13


màu cho học sinh dễ thấy. Sau đó giải thích kỹ cho học sinh hiểu cụm từ “chiều
rộng bằng

2
chiều dài” có nghĩa như thế nào. Nếu học sinh quên thì cho học
3


sinh khác nhắc lại. Từ việc giải thích đó tôi đã giúp các em làm tự làm được bài
toán trên với kết quả đúng, giúp các em duy trì niềm hứng thú với tiết học và các
bài học tiếp theo.
2.3.5. Hướng dẫn học sinh ôn lại kiến thức đã học và chỉ ra mối liên hệ các
kiến thức đó với các kiến thức mới học
Đối với những học sinh học chậm môn Toán các em học rất mau quên. Hôm
nay học các em còn hiểu bài nắm được bài và làm được bài tập nhưng chỉ cách
hai, ba ngày hỏi lại các em lại có thể quên không nhớ nữa. Vì vậy đối với những
học sinh này cần ôn luyện thường xuyên các kiến thức cũ và kiến thức mới một
cách liên tục không ngừng. Như thế các em mới không quên và nhớ lâu. Để làm
được điều này người giáo viên phải thường xuyên kiểm tra bài cũ xem các em
nhớ kiến thức đến đâu còn chỗ nào không nhớ để kịp thời nhắc lại và yêu cầu về
học tiếp.
Ví dụ: Trong lớp tôi có em Hải, Hiệp, Thiên, Huy, Hồng, Nga thường xuyên
không nhớ các công thức tính chu vi, diện tích các hình đã học. Vì vậy ngày nào
tôi cũng yêu cầu các em lên bảng đọc công thức theo bài hát mà tôi đã dạy trước
đó và giao cho các em mỗi ngày chỉ cần thuộc công thức của hai hình để tôi
kiểm tra. Cứ như vậy dần dần các em đã thuộc hết các công thức hình học có
trong chương trình môn Toán ở Tiểu học.
Bên cạnh đó, trong các buổi học tăng buổi hoặc dạy kèm riêng tôi luôn cho
các em làm đi làm lại nhiều lần dạng các bài tập các em hay làm sai để các em
có thể làm thành thạo chúng mà không bị sai như trước nữa.
Ví dụ: Em Bảo Nga, Hiệp, Hồng thường xuyên hay làm sai các phép tính
chia một số thập phân cho một số thập phân; chia một số thập phân cho một số
tự nhiên do các em không nắm chắc được các bước chia. Do đó tôi đã dành cho
những em này các buổi chiều không có tiết học để dạy riêng cho các em thực
hiện lại các phép chia cho đến khi thành thạo. Từ đó các em không còn lúng
túng và làm sai các phép chia.
Mặt khác, trong các tiết học bài mới hay tiết ôn tập, củng cố lại kiến thức cũ
tôi luôn theo sát học sinh, nắm được những bài tập các em làm sai, tổng hợp lại.

Nếu bài tập đó kiến thức có thể chia nhỏ được tôi sẽ chia nhỏ các yêu cầu cho
phù hợp với các em để cho các em dễ hiểu và có thể tự làm được bài tập một
cách dễ dàng. Từ đó các em có thêm niềm tin vào bản thân, tích cực làm bài.
Ví dụ: Trong tiết Luyện tập chung số 2(SKG. Tr.48 ) có bài tập 4: “Viết số
thập phân thích hợp vào chỗ chấm” có câu a: 3kg 5g =...kg. Đa phần các học
sinh tiếp thu chậm môn Toán đều làm sai. Qua tìm hiểu tôi thấy các em lúng
túng trong bước làm. Các em không biết phải đổi đơn vị nào còn đơn vị nào thì
để nguyên và sau khi đổi xong thì phải làm gì tiếp để ra kết quả cuối cùng. Do
đó tôi đã yêu cầu các em thực hiện đổi thêm một phép đổi: 5g =....kg trước khi
yêu cầu các em đổi 3kg5g =...kg.Với việc chia nhỏ yêu cầu bài tập như vậy, tôi
đã giúp các em có thể hiểu được bài một cách dễ dàng hơn, tạo được sự hứng
thú trong học tập đối với các em.
14


2.3.6.Tăng cường kiểm tra, giúp đỡ thường xuyên
Mặc dù đã có động cơ học tập rồi nhưng đôi khi do đặc điểm tâm lí của học
sinh tiểu học đó là các em có hành vi ý chí chưa cao, bản tính hiếu động, khó
kiềm chế, kém tự chủ nên các em dễ nản chí khi gặp bài các vấn đề khó, các bài
tập mang tính tư duy trừu tượng; dễ bị hấp dẫn bởi những những câu nói, những
mẩu chuyện riêng xung quanh mà quên đi mất nhiệm vụ học tập. Mặt khác một
số em sức khoẻ yếu, cơ thể thường xuyên mệt mỏi cũng sinh ra ngại học, ngại
hoạt động đôi tay của mình.
Để giúp các em chăm chú nghe giảng, chịu khó làm bài tập hơn thì ngay sau
khi yêu cầu học tập được đưa ra thì giáo viên phải đi tiến hành đi kiểm tra, giám
sát ngay không để cho các em có cơ hội nói chuyện, làm việc riêng làm ảnh
hưởng đến việc học của các bạn trong lớp, của bản thân các em và ảnh hưởng
đến việc dạy học của giáo viên. Mặt khác việc đi giám sát thường xuyên liên tục
như vậy cũng giúp người giáo viên phát hiện, giải quyết kịp thời những khó
khăn trong việc học tập mà các em gặp phải. Cứ như thế bất kể khi nào các yêu

cầu của giáo viên đưa ra là giáo viên phải đi kiểm tra giám sát ngay xem các em
có làm hay không, có vướng mắc gì trong việc giải quyết các vấn đề học tập để
giúp đỡ các em, giúp các em luôn được hoạt động học tập. Từ đó cũng rèn cho
các em tác phong nhanh nhẹn, tự giác làm bài và nêu các thắc mắc cần thiết giúp
cho việc giải quyết các vấn đề học tập của môn học được tốt hơn. Với việc làm
như vậy lâu dần giáo viên sẽ rèn cho học sinh được tác phong nhanh nhẹn, tự
giác mà không cần phải kiểm tra giám sát thường xuyên nữa.
Ví dụ: Ở lớp tôi, trước khi áp dụng biện pháp trên. Những em học chậm môn
Toán thường tìm cách để lấy sách vở thật chậm, ghi đề bài thật chậm, hoặc tranh
thủ nói chuyện riêng, làm việc riêng, không bắt tay vào học bài và làm bài tập
luôn. Sau khi tôi áp dụng biện pháp trên học sinh đã tự giác, nhanh nhẹn hơn
trong học tập và không có thời gian trống để nói chuyện riêng nữa.
Đối với những học sinh ngại học do sức khoẻ yếu, cơ thể hay mệt mỏi thiếu
tập trung thì tôi đã gặp gỡ phụ huynh trao đổi để phụ huynh có biện pháp tăng
cường sức khoẻ cho con em mình.
Ví dụ:Trong lớp, có em Thiên, Huy học chậm môn Toán. Mặc dù tinh thần học
tập của các em cũng không quá trì trệ nhưng sức khoẻ yếu. Trong lớp, lúc nào
các em cũng học trong tình trạng rất mệt mỏi, thiếu tập trung. Hai em này cũng
hay ốm đau phải xin nghỉ học cả tuần, lượng kiến thức cũng bị mất đi so với các
bạn. Trước tình trạng đó tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình trạng sức khoẻ của
các em để phụ huynh có biện pháp nâng cao sức khoẻ, giúp các em học tập tốt
hơn.
2.3.7. Thực hiện nghiêm túc thông tư 30/2014(Sửa đổi bằng thông tư
22/2016)
Thông tư 30/2014(Sửa đổi bằng thông tư 22/2016) ra đời với nhiều ưu điểm
vượt trội. Trong đó, có việc luôn luôn khuyến khích, động viên, khen ngợi học
sinh, giúp đỡ học sinh tự giác, tích cực học tập. Do đó việc thực hiện nghiêm túc
thông tư 30/2014(Sửa đổi bằng thông tư 22/2016) góp phần làm cho học sinh
chậm tiếp thu môn Toán có thêm niềm tin, sự hứng thú khi tham gia học tập môn
học này.

15


2.3.8. Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng kịp thời, đúng đối tượng
Trong một lớp học thường thì những học sinh học tốt, chăm chỉ học tập, ngoan
ngoãn lễ phép hay được các bạn, thầy cô tuyên dương khen thưởng. Điều này
xuất phát từ rất nhiều việc khen thưởng trước đó của giáo viên đó là luôn đưa ra
các tiêu chí khen thưởng song không có tiêu chí nào khen những học sinh có sự
tiến bộ. Vì vậy trong việc bình xét thi đua của bạn bè, của giáo viên các em mãi
mãi không bao giờ được khen. Lâu dần các em mất hết niềm tin, ý chí phấn đấu
và động lực để vươn lên trong học tập. Hiểu được điều này, trong khi dạy học
cho những học sinh chậm tiếp thu môn Toán tôi luôn quan tâm, động viên, giúp
đỡ các em học tập. Khi thấy các em có nhiều biểu hiện tiến bộ cho dù chưa bằng
các bạn học tốt trong lớp nhưng tôi vẫn đưa ra khen trước cờ vào thứ hai hàng
tuần và tổng hợp các lần được khen và tiến bộ trong cả năm học để xét khen
thưởng cuối năm. Điều này làm các em thấy rất vui và tăng niềm hứng khởi với
môn học.
Ví dụ: Trong tuần 30, em Trịnh Bảo Nga đã được tuyên dương, khen trước cờ
vì đã chăm chỉ học tập, có nhiều tiến bộ trong môn Toán: nhiều kiến thức cũ em
đã nhớ; nhiều bài tập em đã làm đúng dưới sự giúp đỡ của bạn bè, cô giáo; trong
lớp cũng ít nói chuyện riêng làm việc riêng. Từ đó em rất tích cực học và ngày
càng tiến bộ trong môn Toán.
2.3.9. Tham mưu cho Ban giám hiệu và phối hợp với Đội TNTP, giáo viên
khác trong việc tăng cường sự giúp đỡ học sinh
Bên cạnh việc tăng cường, sử dụng thường xuyên các biện pháp nêu trên tôi
đã tham mưu, góp ý với Ban giám hiệu trong việc giúp đỡ những học sinh tiếp
thu chậm môn Toán. Đó là khi phân lớp, Ban giám hiệu nên phân rải đều những
học sinh tiếp thu chậm môn Toán ở tất cả các lớp để các em nhận được nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ hơn từ phía giáo viên. Nếu phân tập trung nhiều học sinh tiếp
thu chậm môn Toán ở một lớp thì phải giảm bớt các công việc trong trường để

giáo viên có thêm thời gian kèm cặp các em chậm tiếp thu môn học này. Bên
cạnh đó Ban giám hiệu cũng cần chỉ đạo, truyền đạt các phương pháp hình thức
dạy học hay có hiệu quả đến giáo viên có học sinh tiếp thu chậm môn Toán để
giáo viên có thêm phương pháp hình thức dạy giúp các em tiến bộ. Đối với Đội
Thiếu niên tiền phong tôi yêu cầu Đội phối hợp giúp đỡ trong việc chuyển các
nội dung sinh hoạt của lớp thành: kiểm tra kiến thức, nhắc lại kiến thức cũ dưới
các hình thức trò chơi, đố vui; thực hiện lại các phép tính, bài toán chưa thành
thạo dưới sự giúp đỡ của cán bộ lớp, các bạn học sinh trong lớp. Chú trọng gọi
những bạn tiếp thu chậm môn Toán tham gia các nội dung sinh hoạt này. Tăng
cường các hoạt động ngoài giờ lên lớp nói về ý thức tự quản, tự giác, chủ động
học tập của học sinh. Nêu gương những em có tiến bộ trong học tập so với trước
để các em có động lực phấn đấu, có khen thưởng để kích thích ý thức cá nhân
của các em.
Đối với những giáo viên bộ môn trong trường dạy lớp của tôi, tôi cũng trao
đổi về trường hợp của các em để trong quá trình dạy học các môn học khác các
thầy cô chú ý quan tâm, động viên các em học tập đồng thời giúp tôi phát hiện
những khả năng thế mạnh khác của các em ở các môn học để tôi có biện pháp
ứng dụng vào dạy học môn Toán cho các em được tốt hơn.
16


2.3.10. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh
Việc sử dụng các biện pháp tích cực ở trên đã góp phần đem lại một hiệu quả
lớn trong việc rèn tính chủ động, tích cực học tập môn Toán cho các em tiếp thu
chậm môn Toán, giảm thiểu tình trạng nói và làm việc riêng trong giờ học. Song
việc làm nay cần sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình học
sinh mới đem lại hiệu quả đồng bộ, thiết thực cho học sinh trong việc duy trì
niềm yêu thích, tự giác với môn học. Để phối hợp với gia đình học sinh được
tốt, ngay từ đầu năm học tôi đã gặp riêng từng phụ huynh tiếp thu chậm môn
Toán đã nêu lên thực trạng của các em và yêu cầu phụ huynh chú trọng, quan

tâm, giúp đỡ các em trong việc học ở nhà. Bên cạnh đó, tôi chủ động đưa ra các
cách để rèn tính tự giác, tích cực trong học tập môn Toán cho phụ huynh để họ
tham khảo. Kết hợp với việc đi đến nhà của các em xem chỗ học tập của các em
có đảm bảo hay không để yêu cầu phụ huynh sửa chữa cải tạo lại. Ngoài ra tôi
còn nhắn tin edu thường xuyên với phụ huynh để trao đổi việc học ở lớp của các
em cũng như thông tin những bài tập, kiến thức các em nắm chưa chắc cần phải
làm lại, rèn luyện thêm ở nhà. Thường xuyên gọi điện hỏi thăm tình hình học tập
ở nhà của các em để kịp thời có biện pháp giúp đỡ. Với những việc làm kể trên
tôi đã phối hợp được với cha mẹ học sinh một cách rất tốt để giúp đỡ các em học
hành tiến bộ và có thêm niềm vui khi đến trường.
2.3.11. Xây dựng môi trường học tập thân thiện
Như chúng ta đã biết, môn Toán và Tiếng việt là hai môn học cơ bản trong
trường Tiều học luôn được các thầy cô chú trọng và để ý. Do đó những học sinh
nào học tốt hai môn học này thường được thầy cô, bạn bè yêu mến, nể trọng.
Còn những học sinh tiếp thu chậm hai môn học này thường hay bị thầy cô chê
trách, bạn bè coi thường. Vì vậy những học sinh tiếp thu chậm môn Toán thường
không thích đến trường. Để các em học chậm môn Toán không sợ đến trường và
sợ các tiết học Toán, người giáo viên cần xây dựng được một môi trường học tập
thân thiện. Trong đó mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh; giữa học sinh và
học sinh; giữa học sinh và giáo viên luôn là sự tôn trọng nhân cách và khả năng
của mỗi cá nhân, không có sự phân biệt đối xử hoặc không có những ứng xử
thiếu tính sư phạm không có tác dụng giáo dục học sinh. Để làm được việc này
người giáo viên phải luôn quan tâm, giúp đỡ, động viên, khích lệ kịp thời khi
các em có sự tiến bộ dù là nhỏ nhất, không dùng những lời lẽ chỉ trích, miệt thị
khi các em làm sai bài tập, trả lời sai kiến thức Toán học. Đối với những học
sinh khác trong lớp thì luôn giáo dục, nhắc nhở các em không được chê bai, chỉ
trích, bôi bác các bạn khi các bạn làm sai bài tập, trả lời sai kiến thức của môn
học bằng cách cho các em thấy được những luận điểm về trí thông minh đa dạng
của Howard Gardner. Từ đó giúp các em tôn trọng bạn bè của mình hơn. Bên
cạnh đó tôi cũng giáo dục các em sự kính trọng, lễ phép với thầy giáo cô giáo

thông qua những câu chuyện, những câu ca, dao tục ngữ nói về sự “tôn sư trọng
đạo” của người học sinh trong xã hội từ trước đến nay để các em học tập, noi
theo.
2.3.12.Giữ vững mục tiêu theo đuổi mục đích đến cùng
Với những biện pháp nêu trên, học sinh đã tích cực trong học tập môn Toán
rất nhiều so với trước. Nhưng nếu người giáo viên không giữ vững mục tiêu,
17


theo đuổi mục đích đến cùng mà chỉ làm một thời gian rồi bỏ thì việc các em
không tự giác, tích cực học tập là điều không thể tránh khỏi. Như chúng ta đã
biết chẳng có gì giá trị trên đời mà đến bằng một cách dễ dàng. Muốn có được
những thành quả cần phải luyện tập. Không có điều gì là mãi mãi nếu con người
muốn có một khả năng nào đó mà không được được luyện tập và bồi đắp thường
xuyên. Khi con người được luyện tập và bồi đắp thường xuyên khả năng đó sẽ
tiếp tục duy trì và phát triển cao hơn ngược lại thì khả năng đó sẽ không được
phát triển và dần dần mất đi. Vì vậy trong dạy học môn Toán khi người giáo viên
đã tìm ra được những biện pháp hay giúp học sinh của mình tiến bộ trong học
tập thì phải duy trì các biện pháp đó cho đến hết năm học. Ngoài ra còn phải tiếp
tục nghiên cứu tìm tòi thêm các biện pháp khác để giúp các em tiến bộ hơn nữa
trong học tập nếu không học sinh sẽ lại học như cũ và không bao giờ có kết quả
tốt ở môn học này.
Ví dụ: Trong lớp tôi khi mà học sinh học chậm môn Toán mãi không tiến bộ
tôi đã rất trăn trở, suy nghĩ và đã tìm ra được một số biện pháp rất hay, hiệu quả
giúp các em tiến bộ một cách rõ rệt. Sau khi áp dụng một thời gian tôi thấy học
sinh đã tiếp thu tốt môn học hơn trước rất nhiều và tôi bắt đấu ít bận tâm về việc
tiếp thu chậm môn Toán của các em này. Các biện pháp lúc đầu tôi nghĩ ra để áp
cũng áp dụng cũng ít dần thay vào đó là những cách dạy phổ biến chung cho tất
cả học sinh. Một thời gian sau, tôi thấy các em tiếp thu chậm môn Toán lại
không tích cực tự giác học bài, làm bài nữa, kết quả làm bài cũng không tốt.Và

tôi đã rút ra được một điều. Đó là nếu tôi không duy trì các biện pháp đã giúp
các em tiến bộ trước đó đến cùng mà chỉ áp dụng một thời gian thì các em sẽ
không thể tiến bộ một cách bền vững mà sẽ dần học kém đi mỗi ngày với
phương pháp, biện pháp cũ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến đã thực hiện:
Sau một thời gian nghiên cứu, thực nghiệm tại lớp 5C trường Tiểu học Thành
Kim, cuối năm học 2017-2018 tôi đã đạt được những kết quả như sau:
Số lượng: 22 học sinh
Mức
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Môn
Số lượng
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
lượng
Toán
10
45,4%
12
54,6%
0
0%
- Từ chỗ lớp có 6 em chưa có ý thức tự giác, tích cực học tập, tiếp thu chậm môn
Toán, đến nay cả 6 em đều yêu thích tốt môn toán, có niềm tin vào khả năng học
tập của mình và biết phấn đấu vươn lên. Những học sinh này tôi tiếp tục động

viên các em tiếp tục cố gắng, phát huy tinh thần học tập tốt hơn ở cấp học cao
hơn.
- Tác phong nhanh nhẹn hơn khi vào học, tự giác lấy sách vở đồ dùng học tập,
chủ động hỏi bài và nêu những băn khoăn thắc mắc của mình khi thấy bài toán,
kiến thức khó hiểu.
- Quan hệ thầy trò ngày càng thân thiết.
- Chất lượng của lớp đã được nâng lên.
- Uy tín giáo viên được nâng cao, tạo niềm tin đối với phụ huynh học sinh.
18


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Sau một thời gian nghiên cứu, thực nghiệm “Một số biện pháp nâng cao ý
thức tự giác học tập môn Toán cho học sinh lớp 5C”, trường Tiểu học Thành
Kim đã nêu ở trên, tôi thấy rằng:
Mỗi một học sinh đều có thể tiến bộ lên mỗi ngày nếu người giáo viên biết
trao niềm tin, ý chí và động lực cho các em.
Việc giáo dục học sinh học môn Toán hay giáo dục bất kì môn học nào trong
nhà trường, các em sẽ không tiến bộ được nếu như người giáo viên không có sự
tận tâm với nghề, với trẻ. Bên cạnh đó người giáo viên cũng cần phải có kiến
thức, có chuyên môn vững vàng thì mới nắm bắt, xử lí được nhiều tình huống
học tập xảy ra trong quá trình tiếp thu tri thức chưa được tốt của những học sinh
học chậm môn Toán.
Mỗi một học sinh học chậm môn Toán cũng đều có những khả năng thế mạnh
nhất định. Chúng ta không thể giúp các em tiến bộ trong môn học này nếu chúng
ta không nắm rõ khả năng tiếp nhận tri thức trong các lĩnh vực khác nhau của
từng em. Từ chỗ nắm chắc được những lĩnh vực tiếp thu tốt và lĩnh vực tiếp thu
chậm của từng học sinh mà chúng ta có những tác động phù hợp để phát triển
môn học mà chúng ta mong muốn.

Gia đình, nhà trường, giáo viên và các bạn học sinh trong lớp luôn là cầu nối
quan trọng, đồng nhất về cách giáo dục giúp cho việc học tập của các em được
ổn định.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
Cần tăng cường các buổi sinh hoạt trao đổi về kinh nghiệm về dạy học sinh
chậm môn Toán để tôi có thể học tập thêm những biện pháp hay có hiệu quả đối
với học sinh.
* Đối với giáo viên:
Giáo viên bộ môn luôn phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm, thống nhất
biện pháp giáo dục, rèn luyện các em.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giáo dục học
sinh tại trường Tiểu học Thành Kim, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Tôi
xin mạnh dạn viết ra để chia sẻ kinh nghiệm với tất cả mọi người. Rất mong
được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp, các ngành cũng như bạn bè đồng
nghiệp để sáng kiến của tôi có khả thi hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thạch Thành, ngày 25 tháng 5 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, tôi không sao chép nội dung của
người khác.

Lưu Thị Phong
19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]: Internet
[2]: Cơ cấu trí khôn. Tác giả: Howard Gardner. Nhà xuất bản Tri thức

[3]: Vai trò của động cơ học tập – ngôi nhà trái tim. _ PM. Nguyễn Ngọc Duy
(Internet)
[4]: Tâm lí học. Tác giả: Trần Trọng Thuỷ( Chủ biên). Nhà xuất bản giáo dục.
Năm 1999
[5]:Luật giáo dục 2005

20


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lưu Thị Phong
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thành Kim

TT
1.
2.
3.

4.

Tên đề tài SKKN
Rèn kĩ năng luyện nói theo
tranh cho học sinh lớp 1
Phương pháp giải toán có
lời văn cho học sinh lớp 1
“Một số biện pháp thay đổi
hành vi nhận thức học sinh

cá biệt lớp 3” ở trường tiểu
học Thạch Tân
Một số biện pháp nâng cao
ý thức tự giác học tập môn
Toán cho học sinh lớp 5C

Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Ngành GD cấp
huyện
Ngành GD cấp
huyện

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

B
B

Năm học
đánh giá
xếp loại
2008-2009
2009-2010


Ngành GD cấp
tỉnh

C

2012-2013

Ngành GD cấp
huyện

A

2017-2018

21



×