1
I. TÊN ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
CHO ĐỘI VIÊN TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở MIỀN NÚI ”.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu:
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo
bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, tồn tại, phát triển
của con người và sinh vật (Điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005).
Môi trường sống là tất cả những gì bao quanh chúng ta, nó có tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự tồn tại và phát triển của các sinh vật trong đó có
con người, thế giới phát triển không ngừng, từ thế kỷ XVIII đến nay có thể
coi là thời đại của văn minh công nghiệp với nền công nghiệp nặng đã sản
xuất ra rất nhiều máy móc, công cụ phục vụ cho sự phát triển kinh tế nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, khoáng sản, nuôi trồng thuỷ sản, dịch
vụ.
Theo thông tin từ các nhà khoa học, hiện nay rừng, đất rừng và đồng cỏ
vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá mạnh mẽ, đất bị biến thành sa mạc;
hơn 100 nước trên Thế giới đang chuyển chậm sang dạng hoang mạc, đe doạ
cuộc sống của khoảng 900 triệu người, sự phá huỷ rừng vẫn đang diễn ra với
mức độ cao, diện tích rừng trên Thế giới khoảng 40 triệu km
2
, song đến nay
đã bị mất đi một nửa; sự suy giảm nước ngọt ngày càng lan rộng hơn và gây
ra nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Đặc biệt, trong thời kỳ đô thị hoá với đà tăng trưởng chóng mặt, mọi
quốc gia phải đương đầu với dân số tăng nhanh, nhất là các khu đô thị mới;
mật độ dân số ngày càng cao, khuynh hướng đổ dồn vào thành phố đi kèm
nhiều khu công nghiệp, nhà máy mới mọc ra khắp mọi nơi. Do đó, phải đối
mặt với nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt, rừng (trong đó
có rừng phòng hộ, rừng nguyên sinh) bị tàn phá, diện tích thu hẹp dần; rác
thải công nghiệp thi nhau đổ vào bầu không khí, sông suối làm môi trường
sống bị xâm phạm nghiêm trọng. Ý thức về bảo vệ môi trường, gìn giữ môi
trường xanh, sạch, đẹp của con người còn thấp.
Cách ứng xử với xã hội, thiên nhiên và môi trường của một con người
phần lớn được hình thành và căn bản được hoàn thiện trong lứa tuổi còn ngồi
trên ghế nhà trường cấp THCS. Đây là lực lượng đông đảo có tác động lớn
đến nhiều mặt của đời sống dân cư trên địa bàn. Đặc biệt, đối với học sinh cấp
THCS ở địa bàn vùng biên giới như Tây Giang, ý thức bảo vệ môi trường của
các em chưa được cao; môi trường sống ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng
thì việc giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho các em là một việc
làm quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa sống còn đến môi trường sống của chúng
ta.
2
2. Tóm tắt những thực trạng liên quan đến đề tài:
Nước ta là nước đang phát triển, đang trong quá trình thực hiện Công
nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước nên không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng đến
môi trường. Trên phạm vi cả nước, mỗi ngày các nhà máy, xí nghiệp, bệnh
viện thải vào môi trường sống nhiều chất thải hầu hết ở dạng thô chưa qua xử
lý nên ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống, là tác nhân chính gây ô nhiễm
môi trường nước, môi trường không khí. Trong thời gian gần đây, nhiều công
ty, nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như: Công ty
Vedan Việt Nam gây ô nhiễm nghiêm trọng sông Thị Vãi, Công ty TNHH
AB Mauri (Đồng Nai) nhiều năm xả thải gây ô nhiễm môi trường; tháng 8
năm 2011, cơ quan chức năng kiểm tra nhà máy xử lý nước thải tập trung của
Khu công nghiệp Long Thành-Đồng Nai (do Sonadezi Long Thành quản lý)
đã phát hiện đơn vị này xả thải ra môi trường, sau đó có kết luận về hành vi
xả thải gây ô nhiễm vượt tiêu chuẩn kỹ thuật từ 5-10 lần với khối lượng trên
9.000m
3
/ngày đêm. Phạm vi, mức độ ảnh hưởng đến một diện tích 114ha.
Trong đó, về mặt thủy sản thiệt hại 100% trong gần bốn năm (kể từ năm 2008
đến tháng 8-2011), riêng cây trồng ảnh hưởng 100%. Ở Quảng Nam, một vấn
đề thời sự nóng bỏng hiện nay đó là rừng đầu nguồn của thủy điện Avương
(Đông Giang) và thủy điện Sông Tranh 2 (Bắc Trà My) đang bị người dân tàn
phá để lấy gỗ, làm nương rẫy
Theo một khảo sát của cơ quan môi trường, trung bình một người Việt
Nam trong 1 năm sử dụng ít nhất 30 kg các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa.
Từ 2005 đến nay, con số này là 35 kg/người/năm. Năm 2000, trung bình một
ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra môi trường. Đến nay, con số
đó là 2.500 tấn /ngày và có thể còn hơn. Với số lượng và khối lượng túi nilon
được sử dụng và thải bỏ hàng ngày lớn như vậy nhưng việc quản lý chúng
trong nhiều năm qua và cho đến nay ở nước ta vẫn đang là vấn đề còn chưa
tìm được lời giải hợp lý.
Ở địa bàn tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Tây Giang chúng ta nói
riêng, bom đạn của chiến tranh tàn phá rừng nặng nề, môi trường sống bị
nhiễm chất độc da cam Dioxin chưa được khắc phục xong thì tệ nạn tàn phá
rừng diễn ra ở khắp mọi nơi trong tỉnh; thực trạng khai thác vàng trái phép
ngày càng diễn biến phức tạp (trong đó có tình trạng dùng hóa chất độc hại
Cyanua để phân kim); khu công nghiệp, nhà máy mọc lên như nấm. Ý thức
thức bảo vệ môi trường của đại bộ phận người dân cũng như của các công ty,
nhà máy còn thấp nên hằng ngày một lượng lớn rác thải của người dân và một
lượng lớn rác thải chưa qua xử lý đã thải ra môi trường làm môi trường bị ô
nhiễm nghiêm trọng.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện Tây Giang vì nhiều lý do
khác nhau nên việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh trong các nhà
trường chưa được đề cao đúng mức; tổ chức Đội TNTP Hồ Chí Minh trong
các trường học chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc
giáo dục bảo vệ môi trường cho đội viên. Học sinh hầu hết chưa có ý thức giữ
3
gìn vệ sinh nơi công cộng; chưa có ý thức cao trong việc giữ gìn vệ sinh môi
trường ở trường học và môi trường sống trên địa bàn dân cư Tình trạng vứt
rác bừa bãi, đỗ rác lung tung, đi vệ sinh không đúng nơi qui định diễn ra hằng
ngày ở các trường học và trên địa bàn dân cư.
3. Lí do chọn đề tài:
Đứng trước thực trạng như trên, thì việc giáo dục bảo vệ môi trường
cho học sinh THCS, đặc biệt là học sinh người dân tộc thiểu số ở miền núi là
một nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Từ năm học 2008- 2009 xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc đến môi
trường và chất lượng cuộc sống, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động trong
toàn ngành phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”. Một trong những mục tiêu quan trọng mà Bộ quan tâm đối với cuộc vận
động lớn này là ngay từ nhỏ phải giáo dục, tổ chức bồi dưỡng để mỗi học sinh
gắn bó trách nhiệm với việc xây dựng trường, lớp “Xanh-sạch-đẹp”. Từ đó,
sẽ dần nâng cao nhận thức, điều chỉnh hành vi về bảo vệ môi trường sống
chung quanh của các em học sinh.
Để công tác giáo dục bảo vệ môi trường của tổ chức Đội đạt hiệu quả
cao thì trước hết Giáo viên Tổng phụ trách Đội (GV TPT Đội) phải chủ động
tham mưu cho nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục về bảo vệ môi trường bằng nhiều hình thức khác nhau; tổ chức các
hội thi để giáo dục bảo vệ môi trường như: Hội thi tìm hiểu tìm hiểu kiến
thức, Hội thi vẽ tranh, Hội thi thời trang chủ đề bảo vệ môi trường Đồng
thời tổ chức Đội cũng phải biết phối hợp với các lực lượng giáo dục khác
trong nhà trường đặc biệt là Ban hoạt động GD NGLL trong việc giáo dục
bảo vệ môi trường.
Xuất phát từ thực trạng nói trên và yêu cầu thực tế về việc hình thành ý
thức bảo vệ môi trường cho học sinh một cách tự giác, tích cực tôi mạnh dạn
chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho đội
viên trường Trung học cơ sở ở miền núi ”
4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu của đề tài:
4.1. Phạm vi:
Do điều kiện trên địa bàn huyện Tây Giang việc đi lại còn gặp nhiều
khó khăn, các trường học trên địa bàn huyện có khoảng cách quá xa, bản thân
không đủ điều kiện để đến các trường học khác để nghiên cứu nên tôi chỉ
nghiên cứu trong phạm vi Liên đội trường THCS BTCX Nguyễn Bá Ngọc, xã
Bhalêê, Tây Giang.
4.2. Thời gian:
Thực hiện đề tài trong 02 năm (Từ đầu năm học 2010-2011 đến cuối
năm học 2011-2012)
4
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Đội TNTP Hồ Chí Minh là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam, do Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh phụ trách. Đội TNTP Hồ Chí Minh là lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường.
Đội TNTP Hồ Chí Minh là tổ chức nòng cốt trong các phong trào thiếu
nhi, có vai trò chủ động tập hợp thiếu nhi trong nhà trường và trên địa bàn
dân cư vào các hoạt động do Đội tổ chức, là lực lượng giáo dục trong nhà
trường, là một tổ chức hỗ trợ tích cực cho nhà trường, cùng nhà trường thực
hiện nội dung, mục tiêu giáo dục trong đó có vấn đề giáo dục bảo vệ môi
trường.
Hằng năm các ngành, các cấp luôn phát động phong trào hưởng ứng
“Tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường”, “Ngày môi trường thế giới”,
“Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn”,“Tết trồng cây” như Bác Hồ đã kêu
gọi.
Giáo dục bảo vệ môi trường sống xanh, sạch, đẹp, an toàn, văn minh
trong cộng đồng là vấn đề sống còn của đất nước nói chung, trong đó ngành
giáo dục các cấp phải đi tiên phong trong công tác giáo dục ý thức tốt bảo vệ
môi trường, một trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của xã
hội, đồng thời còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống, thể chất, giống nòi của
dân tộc. Cách ứng xử với xã hội, thiên nhiên và môi trường của một con
người phần lớn được hình thành và căn bản được hoàn thiện trong lứa tuổi
còn ngồi trên ghế nhà trường. Công tác giáo dục môi trường sống trong sạch,
lành mạnh bắt đầu từ mái trường nơi các em học, từ ngôi nhà và thôn bản các
em sinh sống hằng ngày. Để nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho các em
thì trước hết các em phải có nhận thức đúng đắn về môi trường, có nhận thức
đúng đắn thì mới dẫn đến có những hành vi đúng đắn bảo vệ môi trường.
Nếu tổ chức Đội cùng các lực lượng giáo dục trong nhà trường biết
phối kết hợp trong việc giáo dục bảo vệ môi trường bằng nhiều hình thức
khác nhau thì sẽ đạt hiệu quả rất cao. Việc tổ giáo dục bảo vệ môi trường
thông qua việc tổ chức hoạt động, các hội thi sẽ đem đến cho học sinh những
cái nhìn mới, nhận thức mới, có kiến thức cần thiết về tầm quan trọng của môi
trường đối với cuộc sống của con người, điều quan trọng hơn là các em được
trải nghiệm với các việc làm cụ thể liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường.
Trên cương vị là GV TPT Đội, với chức năng, nhiệm vụ được giao tôi
đã không ngừng tìm tòi những biện pháp để giáo dục cho các em bảo vệ, giữ
gìn môi trường sống của chính các em, giáo dục các em tích cực xây dựng
một môi trường sống “xanh, sạch, đẹp”. Đây là điều kiện thuận lợi giúp tôi
có đủ điều kiện tốt nhất để thể nghiệm đề tài, nhất là yếu tố hiệu quả khi đề
xuất các biện pháp, cách thức hoạt động liên quan đến đề tài bảo vệ môi
trường, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục bảo vệ môi trường của
nhà trường và nhằm cụ thể hóa cuộc vận động xây dựng “Trường học thân
thiện, học sinh tích cực”.
5
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
Bhalêê là xã vùng thấp của huyện Tây Giang cách trung tâm huyện 15
km, có con đường Hồ Chí Minh huyền thoại chạy qua, là xã có chung đường
biên giới với huyện Kà Lùm, tỉnh Xê Kông, nước CHDCND Lào. Điều kiện
kinh tế xã hội ở đây còn gặp nhiều khó khăn, tỉ lệ hộ đói nghèo còn cao, có 02
dân tộc anh em cùng sinh sống là dân tộc Kinh và dân tộc C’tu, trong đó dân
tộc C’tu chiếm hầu hết dân số. Trường THCS BTCX Nguyễn Bá Ngọc là
trường bán trú, hằng năm có từ 100 đến gần 200 em học sinh là con em của
đồng bào dân tộc C’tu ở lại ăn ở, sinh hoạt trong khu nội trú.
Thực tiễn từ năm 2008- 2009 trở về trước (khi chưa thực hiện những
biện pháp trong đề tài này) công tác giáo dục bảo vệ môi trường của nhà
trường và ý thức bảo vệ môi trường của học sinh còn nhiều hạn chế lớn, cụ
thể là:
1. Về phía BGH trường, TPT Đội, giáo viên và các lực lượng giáo
dục trong nhà trường:
Hằng năm, BGH trường có chỉ đạo, triển khai các kế hoạch giáo dục
bảo vệ môi trường song còn chung chung, chưa thể hiện sự quan tâm và đề
cao đúng mức đến vấn đề bảo vệ môi trường. Các lực lượng giáo dục khác
trong nhà trường do nặng về công tác chuyên môn nên vấn đề giáo dục bảo vệ
môi trường còn xem nhẹ. Tôi cũng nhận thấy rằng: việc giáo dục môi trường
trong nhà trường hiện nay đôi lúc còn mang tính lý thuyết, chưa chú trọng yếu
tố thực tiễn một cách sâu sắc, nghĩa là chưa thực hiện tốt phương châm “Học
đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn”.
TPT Đội kinh nghiệm chưa nhiều nên chưa tham mưu tốt cho BGH
trường trong việc giáo dục bảo vệ môi trường; tổ chức Đội và các lực lượng
giáo dục khác trong nhà trường tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục
bảo vệ môi trường cho đội viên trong liên đội chưa phong phú về nội dung,
chưa đa dạng về hình thức nên không thu hút đông đảo học sinh tham gia, do
đó chưa mang lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục bảo vệ môi trường.
Đối với giáo viên bộ môn còn mang nặng suy nghĩ nên đầu tư cho
công tác chuyên môn nhiều hơn nên đa số giáo viên đều rơi vào tình trạng
thiếu điểm nhấn, thiếu trọng tâm, trọng điểm, còn dàn trải khi truyền thụ nội
dung tuyên truyền về bảo vệ môi trường. Với địa bàn miền núi, nhà trường
chưa kết nối hệ thống Internet nên giáo viên cũng chưa thường xuyên cập
nhật về tình hình ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh, trong nước cũng như
thế giới, chưa nắm bắt được những kiến thức mới về giáo dục bảo vệ môi
trường ảnh hưởng lớn đến công tác giáo dục bảo vệ môi trường.
Với thực tiễn như trên dẫn đến công tác giáo dục bảo vệ môi trường
của nhà trường trước đây đạt hiệu quả rất thấp; lượng kiến thức được giáo
viên bộ môn lồng ghép, tích hợp vào các môn học đôi khi khô cứng, gượng ép
chưa phù hợp vì vậy chưa đạt hiệu quả cao, học sinh chưa cảm thấy hứng thú
và chưa nâng cao được ý thức bảo vệ môi trường vì vậy chưa giúp các em
6
thay đổi hành vi của mình. Việc giáo dục môi trường cần phải thực hiện thông
qua những hoạt động cụ thể hơn, sinh động hơn, dần dần tiến tới không chỉ
nâng cao về mặt nhận thức mà còn hình thành các thói quen tốt trong bảo vệ
môi trường cho học sinh.
2. Đối với học sinh:
Là người dân tộc thiểu số nên ý thức bảo vệ môi trường các em chưa
cao, mặc dù đã được giáo dục bảo vệ môi trường. Qua khảo sát, theo dõi học
sinh toàn trường nhiều em còn chưa biết được những việc làm đơn giản nhất
để giữ vệ sinh và làm đẹp cảnh quan sân trường; chưa biết được những kiến
thức cơ bản nhất về bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, hầu hết các em còn bộc
lộ rất nhiều hành vi thể hiện ý thức bảo vệ môi trường chưa cao như:
- Chưa có thói quen chăm sóc giữ gìn sức khoẻ cá nhân cũng như cộng
đồng như khạc nhỗ bừa bãi, vứt rác lung tung, đi vệ sinh không đúng nơi qui
định. Có nhiều em đi vệ sinh ở nhà vệ sinh nhưng đi xong lại không dội nước
sạch sẽ, gây mất vệ sinh ở môi trường chung quanh.
- Thường xuyên ăn quà vặt (kẹo, bánh, kem, mía và các loại trái cây)
vứt rác bừa bãi ra sân trường, lớp học chứ không bỏ vào sọt rác.
- Bẻ, dẫm xéo lên hoa, cây cảnh trong sân trường, leo trèo nghịch ngợm
lên cây trồng; nhiều em thường xuyên viết, vẽ bậy trên tường, bảng thông
báo, bàn ghế gây mất mỹ quan trường lớp.
- Tham gia lao động làm vệ sinh ở trường, lớp với thái độ miễn cưỡng,
các em còn có tư tưởng bị gượng ép; chưa biết gìn giữ an toàn, vệ sinh khi
tham gia lao động; không biết bảo quản dụng cụ lao động, làm hư hỏng, mất
mát dụng cụ lao động
- Trong một tập thể lớp hay phòng ở khu nội trú thì các em cũng chưa
có tinh thần tự giác, tích cực trong việc tham gia lao động làm vệ sinh lớp
học, vệ sinh khu nội trú, các em còn tị nạnh nhau dẫn đến rất ít học sinh tham
gia lao động hoặc nếu có thì cũng qua loa cho xong chuyện; các em cũng
chưa có tổ chức và chưa có sự phân công lao động cụ thể, hợp lý. Chính vì
vậy hiệu quả của việc lao động ở các em chưa cao.
Ở trường là như vậy, qua theo dõi một số đối tượng học sinh ở trên địa
bàn dân cư như các thôn Arung, Tà Làng, R’Cung thì đa số học sinh ở đây
còn bộc lộ các hành vi và thói quen bảo vệ môi trường chưa tốt như:
- Các em gián tiếp hoặc trực tiếp chặt phá, đốt rừng làm nương rẫy,
làm chất đốt cùng gia đình (Ảnh 1). Có nhiều gia đình tham gia khai thức gỗ
trái phép để bán, hoặc để làm nhà thì các em học sinh không những không can
ngăn gia đình mình mà còn cùng tham gia khai thác gỗ gây tác động rất lớn
đến môi trường.
- Các em còn thường xuyên đi đặt bẫy, săn bắt chim, thú trong đó có
các loại có ích và các loại động vật quí hiếm như: Chim, lợn rừng, chồn, nai,
trăng, rắn, tê-tê (trút)
7
- Nhiều nhà vệ sinh ở khu dân cư không phải là nhà những nhà vệ sinh
tự phân hủy. Do tập tục nên nhiều học sinh cũng như người dân không muốn
đi vệ sinh trong nhà vệ sinh mà chỉ thích đi lung tung ở ngoài.
Với thực trạng như đã nêu thì trước khi tôi thực hiện đề tài này, do ý
thức bảo vệ môi trường của các em chưa cao bởi hiệu quả của công tác tuyên
truyền thấp, các em chưa tự giác trong việc giữ vệ sinh môi trường, chưa có
những hiểu biết cần thiết về bảo vệ môi trường; quan trọng hơn là các em
chưa hiểu được những tác động của các em cùng gia đình sẽ là nguyên nhân
gây ô nhiễm môi trường và ảnh ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống con
người.
Chính vì vậy hằng ngày từng cánh rừng nơi các em đang sinh sống bị
đốt phá làm nương rẫy, lấy củi, nạn khai thác gỗ trái phép vẫn diễn ra hằng
ngày hằng giờ làm cho những cánh rừng bị xói mòn nghiêm trọng. Môi
trường sống ở khu dân cư hàng ngày đang bị ô nhiễm bởi rác thải, chất thải vệ
sinh của con người, động vật.
Ở trường và khu nội trú thì cảnh quan chung của trường rất mất mĩ
quan. Rác, giấy, bao ni lông, giấy kẹo bánh được các em xả ra thường
xuyên; các phòng ở khu nội trú rất bẩn, mền chiếu không được xếp ngăn nắp,
gọn gàn; nhà vệ sinh thì mất vệ sinh nghiêm trọng, hằng ngày mùi hối thối
bốc ra gây ảnh hưởng đến các phòng học và phòng ở trong khu nội trú.
Với thực trạng trên, tôi tiến hành khảo sát học sinh một số lớp đang
theo học tại trường, cụ thể như sau:
- Khảo sát ý thức bảo vệ môi trường của học sinh: Thời điểm khảo
sát ngày 05 đến ngày 08/10/2010.
(Kết quả có được được từ việc tiến hành điều tra ngẫu nhiên bằng 10 câu hỏi
trắc nghiệm -Có câu hỏi kèm theo ở phần Phụ lục )
HS
lớp
(NH
2010
SL
điều
tra
Chuẩn A: Tốt
(Có ý thức
BVMT)
Chuẩn B:Khá
(Có ý thức
BVMT nhưng
ở mức Khá)
Chuẩn C: TB
(Có ý thức
BVMT nhưng ở
mức TB)
Chuẩn D: Yếu
(Chưa có ý
thức BVMT)
SL TL % SL TL % SL TL % SL TL %
6/1 31 02 6.45 03 9.68 05 16.13 20 67.74
7/2 35 03 8.57 05 14.30 06 17.14 21 60.00
8/2 37 04 10.80 06 16.20 07 18.92 20 54.05
8/3 37 04 10.80 07 18.90 07 18.92 19 51.35
* Kết quả: Qua bảng thống kê trên chúng ta thấy:
- Chuẩn A, B, C (Có ý thức bảo vệ môi trường): Hầu hết ở các lớp
khảo sát chiếm tỉ lệ nhỏ hơn 50%.
- Chuẩn D (Chưa có ý thức bảo vệ môi trường): Hầu hết ở các lớp
khảo sát chiếm tỉ lệ lớn hơn 50% - Một kết quả rất đáng quan tâm.
8
Từ năm học 2010-2011, với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của
nhà trường tương đối đảm bảo; đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường hấu hết
đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình trong công tác; Liên Đội nhà
trường hằng năm luôn đạt danh hiệu Liên đội xuất sắc cấp huyện, đội ngũ
BCH LĐ, BCH Chi đội hoạt động rất hiệu quả. Đồng thời nhà trường đã tích
cực triển khai các cuộc vận động như “Trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, “Làm cho Thế giới sạch hơn” Với điều kiện thuận lợi này, với những
tiềm năng mà nhà trường đang có, tôi đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng của công tác giáo dục bảo vệ môi trường trong liên đội
nhà trường và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Quán triệt sâu sắc mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục nhận thức và
hành vi của học sinh nhằm ra sức bảo vệ môi trường sống xanh, sạch, đẹp, an
toàn, văn minh là cơ sở vững chắc góp phần cùng nhà trường hoàn thành cuộc
vận động “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục - Đào
tạo đề ra. Ngay từ đầu năm học 2010- 2011 tôi đã triển khai rất nhiều hoạt
động nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho Đội viên Trường
Trung học cơ sở ở miền núi bằng những biện pháp như sau:
1. Tổ chức các hoạt động Đội, hoạt động ngoài giờ lên lớp (HĐ GD
NGLL) lồng ghép, tích hợp các nội dung bảo vệ môi trường:
Muốn giáo dục học sinh toàn trường chung sức xây dựng mái trường
“Xanh-sạch-đẹp”, ngoài hoạt động dạy và học chính khoá, phải tổ chức các
hoạt động ngoại khoá để tạo một hoạt động để khơi dậy trong tiềm thức các
em trách nhiệm gắn bó thiết tha với mái trường. Đó chính là các hoạt động
Đội, HĐ GD NGLL, cụ thể là: Tổ chức các hội thi tuyên truyền về môi
trường với nhiều nội dung, hình thức phong phú như: thuyết trình, tìm hiểu
kiến thức, vẽ tranh, thi tìm hiểu về sự tác hại của ô nhiễm môi trường bằng
hình thức Ngoài ra, với tư cách là phó Ban hoạt động NGLL tôi đã tham
mưu các kế hoạch tổ chức HĐ GD NGLL chuyên đề bảo vệ môi trường ở
trường hoặc tổ chức các hoạt động có lồng ghép, tích hợp các nội dung vào
các hoạt động như: Tác hại của việc đốt phá rừng làm nương rẫy, khai thác gỗ
và khai thác vàng trái phép làm ảnh hưởng lớn đến môi trường (Ảnh 2)…
Ví dụ: Khi chúng ta tổ chức Hội thi “Đố vui để học” hay “Rung
chuông vàng” thì chúng ta đưa vào một số câu hỏi liên quan đến những tác
động của còn người làm ảnh hưởng đến môi trường như:
- Việc phá rừng làm nương rẫy, khai thác gỗ trái phép sẽ tác động đến
môi trường như thế nào? (Đáp án: Gây sạt lở, rửa trôi, xói mòn đất, lũ lụt ;
- Khí nào gây thủng tầng Ôzôn? (Khí CFC);
- Khí nào gây hiệu ứng nhà kính (Khí CO
2
).
- Một trung tâm được thành lập ở xã Bhalêê, Tây Giang để bảo tồn một
loại động vất quí hiếm nằm trong Sách đỏ của Thế giới đó là trung tâm nào?
Bảo tồn loại động vật nào? (Trung tâm bảo tồn Sao la, để bảo tồn Sao la).
9
Ngoài ra, trong các hội diễn văn nghệ hay trong thời gian tổ chức Hội trại
26/3 thì tôi linh hoạt đưa các nội dung hoá trang chủ đề bảo vệ môi trường,
khi học sinh hoá trang các bộ trang phục hết sức ấn tượng với các chất liệu
được lấy từ vật liệu phế thải như bao ni lông, áo mưa, lon bia, giấy báo cũ,
ống hút (Ảnh 3) Hoạt động này đã mang đến cho các em những hình ảnh
trực quan, sinh động về bảo vệ môi trường, thực sự đã đem lại cho học sinh
sự thích thú qua đó hình thành ý thức trong các em là biết tận dụng rác thải,
có ý thức thu gom rác thải và tái tạo nó trở thành một sản phẩm có ích, đồng
thời còn bảo vệ được môi trường. Đây là một việc làm tuy nhỏ nhưng góp
phần rất lớn vào việc bảo vệ môi trường bởi rác thải là bao ni lông hay chất
liệu bằng ni lông khi thải ra môi trường thì phải mất hàng chục năm cho tới
một vài thế kỷ mới được phân hủy hoàn toàn trong tự nhiên.
Khi tham gia các hội thi, các hoạt động thì đây sẽ là những sân chơi bổ
ích, cũng chính là những lớp học sinh động và hấp dẫn, thu hút đông đảo học
sinh tham gia, sẽ phát huy cao độ tinh thần tự giác, tích cực, sáng tạo của các
em học sinh. Điều quan trọng hơn là giúp cho học sinh dễ dàng tiếp thu được
kiến thức về giáo dục bảo vệ môi trường để từ đó có những hành vi đúng.
Những giải pháp này sẽ hiệu quả hơn rất nhiều so với việc tuyên truyền và
giảng dạy lý thuyết đơn thuần cho các em như trước đây vẫn thường áp dụng.
2. Tổ chức thực hiện “Công trình măng non”, chăm sóc hoa cây
cảnh, làm vệ sinh sân trường hằng ngày để giáo dục tinh thần lao động,
tạo cảnh quan và giữ vệ sinh môi trường:
Với chức năng tham mưu của TPT Đội, từ đầu mỗi năm học tôi tham
mưu cho BGH nhà trường kế hoạch Thực hiện “Công trình măng non”. Nội
dung công trình măng non đó là: khối 6, 7, 8 quyên góp tiền để mua hoa, cây
cảnh và trồng trong các bồn hoa trong sân trường (Ảnh 4); khối 9 mua ghế đá
làm kỉ vật tặng cho nhà trường (Ảnh 5). Để chăm sóc “Công trình măng
non” hiệu quả thì hằng tuần mỗi lớp có một tiết lao động (tham mưu cho
BGH nhà trường phân Thời khóa biểu). Khi đến tiết lao động thì các lớp tự
phân công nhau các nội dung như: Tưới nước cho hoa, cây cảnh, chăm sóc
hoa; dọn vệ sinh khu nhà vệ sinh; quét dọn sân trường, lớp học (Ảnh 6, 7,
8) Nội dung này cũng được liên đội đưa vào tiêu chí đánh giá thi đua hàng
tuần. Hằng tuần, khi tổng kết thi đua thì Liên đội có tuyên dương, khích lệ
tinh thần những tập thể lớp, những cá nhân có tinh thần lao động tốt, như vậy
sẽ kích thích tính tự giác tích cực trong các em.
Mỗi tháng Liên đội thường phối hợp với ban lao động nhà trường tổ
chức lao động, dọn vệ sinh khu vực sân trường, khu nội trú với các công việc
như đào hố rác, đốt rác, dẫy cỏ hoặc tỉa cành cho các cây xanh trong khu vực
sân trường (Ảnh 9).
Khi các em được tham gia các hoạt động này thì các em thấy ngay
được thành quả lao động của các em đó là một sân trường sạch sẽ, những dãy
hoa trong sân trường tạo cảnh quan trong môi trường học tập, vui chơi trông
10
thật đẹp mắt (Ảnh 10, 11). Điều này góp phần rất lớn vào việc tạo cảnh quan
“Xanh-sạch-đẹp” trong khuôn viên nhà trường, góp phần thực hiện tốt cuộc
vận động “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, qua đó sẽ giáo dục ý
thức giữ gìn vệ sinh sân trường, vệ sinh lớp học, giữ gìn cảnh quan nhà
trường trong các em học sinh
3. Lồng ghép nội dung tuyên truyền về bảo vệ môi trường trong
chương trình “Phát thanh măng non” hằng tuần của Liên đội: (Có bài
tuyên truyền kèm theo trong phần Phụ lục)
Vào đầu mỗi năm học thì Liên đội luôn xây dựng kế hoạch tổ chức
chương trình “Phát thanh măng non” (hằng năm có từ 22 đến 24 chương
trình phát thanh) các chương trình được ghi âm, đưa vào phần mềm (Adobe
Audition- một phần mền chuyên về xử lí âm thanh), chèn âm thanh, xử lí âm
thanh và phát lại 02 lần. Đây cũng là một trong những sân chơi bổ ích. Các
chương trình đều có sự chuẩn bị tốt, có tính giáo dục và tuyên truyền cao, thu
hút người nghe nên nếu biết cách lồng ghép tuyên truyền bảo vệ môi trường
vào sân chơi này thì hiếu quả tuyên truyền sẽ rất cao, chính vì vậy tôi đã tận
dụng lợi thế này để tuyên truyền và đưa vào các nội dung như: Những nguyên
nhân chính gây ô nhiễm môi trường? Vì sao có những cơn mưa axit? Vì sao
Trái đất nóng dân lên và hệ quả của việc Trái đất nóng dần lên? Hiện tượng
hiệu ứng nhà kính là gì? Các em cần làm gì để bảo vệ môi trường sống cho
chính các em nói riêng và xã hội nói chung
Đồng thời thông qua chương trình cũng sẽ tuyên dương, khích lệ các
tập thể, cá nhân học sinh có thái độ tích cực trong các buổi lao động, những
cá nhân, tập thể điển hình về công tác bảo vệ môi trường. Đồng thời chương
trình phát thanh cũng đưa những tin tức có lồng ghép nội dung nhắc nhở,
khuyên răn các em không được có hành vi gây mất vệ sinh sân trường lớp
học, đi vệ sinh không đúng nơi qui định. Với biện pháp này thì hiệu quả tuyên
truyền cũng được nâng cao rõ rệt so với trước đây.
4. Giáo dục bảo vệ môi trường phải đi đôi với giáo dục giá trị sống,
kỹ năng sống cho học sinh:
Chúng ta muốn hiệu quả giáo dục môi trường luôn bền vững thì cần
phải giáo dục cho các em những thói quen, những việc làm tốt, những giá trị
của cuộc sống như: Giá trị của việc giữ gìn vệ sinh trường lớp, giá trị của một
bầu không khí trong lành, giá trị của một môi trường “xanh-sạch-đẹp”. Bên
cạnh, chúng ta phải giáo dục những kỹ năng sống liên quan đến bảo vệ môi
trường.
Ví dụ: chúng ta rèn các em thói quen không vứt rác trong phòng học,
ngoài sân trường, không ném rác trên đường đi, khi thấy rác trước mặt phải
nhặt và đổ rác đúng nơi quy định, không phải bằng khẩu hiệu hay lời khuyên
mà quy định bắt buộc mỗi lớp học phải có một giỏ đựng rác đặt ở góc lớp.
Khi nhìn thấy người khác vứt rác không đúng chỗ, nên có trách nhiệm nhắc
11
nhở lịch sự để giữ gìn nhà trường luôn sạch đẹp, vệ sinh. Khi tổ chức cho học
sinh đi tham quan, du lịch, phải nhắc nhở các em không được vứt bừa bãi giấy
gói, bao bì thức ăn, chai lọ, vỏ đồ hộp… Trong học tập, chúng ta khuyên các
em tiết kiệm giấy, giấy loại tích góp để làm kế hoạch nhỏ. Trong cuộc sống
hàng ngày, khi đi lựa chọn mua hàng tiêu dùng, giáo dục các em giảm thiểu
dùng bao bì nilon (một chất liệu rất khó phân hủy) mà dùng các loại giấy gói
truyền thống như lá chuối, lá dong Tránh mua các hàng hóa có bao bì quá
nhiều và cầu kỳ, nên chọn mua những sản phẩm thân thiện với môi trường
hoặc mua những loại hàng hóa có bao bì dễ tiêu hủy trong tự nhiên hoặc có
thể tái sử dụng nhiều lần để tiết kiệm và tranh gây ô nhiễm môi trường…
Trong các nội dung về giáo dục bảo vệ môi trường chúng ta giáo dục
giá trị sống cho các em như: Một môi trường lớp học, trường học hay khu nội
trú sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh thì các em sẽ có một cảm giác dễ chịu thoải mái,
mát mẽ, bởi “nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”; một bầu không khí trong
lành sẽ rất có lợi cho sức khỏe con người vì chúng ta sẽ có một lượng ôxi dồi
dào để cung cấp cho cơ thể, một môi trường không khí đầy bụi bẩn và hôi
thối thì sẽ gây ra các bệnh như hen, viêm phổi; ô nhiễm ozone có thể gây
bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm vùng họng, đau ngực, khó thở
4. Tham mưu tốt cho BGH nhà trường trong việc đảm bảo vệ sinh
trường, lớp luôn sạch sẽ, không gây ô nhiễm môi trường:
Cơ sở của Trường THCS BTCX Nguyễn Bá Ngọc hiện nay được đưa
vào sử dụng vào năm 2004, qua một vài năm đưa vào sử dụng thì các công
trình vệ sinh bị bị hư hỏng nặng. Trước tình hình đó tôi đã thường xuyên tham
mưu cho nhà trường tu bổ, sửa chữa các công trình vệ sinh đảm bảo tiêu
chuẩn môi trường về: ánh sáng, không khí trong lành, không gian yên tĩnh,
nước sạch, công trình vệ sinh đạt chuẩn. Nhu vậy mới đáp ứng nhu cầu của
các em học sinh ở nội trú cũng như các em học sinh tham gia học tại trường.
Tham mưu việc mua sắm những dụng cụ lao động để làm vệ sinh khu
nhà vệ sinh như chổi, xô đựng nước, xà phòng và đặc biệt là có đủ lượng
nước dùng để hằng ngày các phòng ở khu nội trú và các lớp có đủ điều kiện tổ
chức việc lao động quét dọn sạch sẽ khu nhà vệ sinh.
Nhận thức được vai trò của xã hội tác động tích cực đến việc xây dựng
bảo vệ môi trường nên tôi cũng đã tham mưu cho nhà trường quán triệt việc
nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên và học sinh về bảo vệ môi trường,
gắn việc giáo dục môi trường với việc triển khai thực hiện cuộc vận động
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, xây dựng cảnh quan
nhà trường “xanh-sạch-đẹp”; tích cực phối hợp với các đoàn thể địa phương
đặc biệt là trạm y tế xã để tuyên truyền, vận động. Huy động sức mạnh tổng
hợp này để cùng nhà trường sớm hoàn thành các cuộc vận động. Trong các
buổi họp ở trường tôi cũng thường xuyên đề nghị các giáo viên phải có những
biện pháp xử lí kịp thời các em học sinh không có ý thức bảo vệ môi trường,
trực nhật không đảm bảo, đi vệ sinh không đúng nơi qui định. Qua các nội
dung tham mưu của tôi nhà trường đã tiếp thu và triển khai thực hiện những
12
giải pháp mà tôi đã đề nghị, vì vậy mà trong 02 năm học qua, vệ sinh môi
trường ở nhà trường và khu nội trú đã được cải thiện đáng kể.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Sau gần 02 năm (Từ đầu năm học 2010 - 2011 đến cuối năm học 2011-
2012) triển khai thể nghiệm đề tài đã đạt được một số kết quả tương đối khả
quan như sau:
1. Tỉ lệ học sinh đạt các chuẩn A, B, C về ý thức bảo vệ môi trường
chiếm tỉ lệ trên 50% ở mỗi lớp. Thời điểm khảo sát ngày 04 đến ngày
07/04/2012. (Kết quả từ việc khảo sát các lớp đã tham gia khảo sát tháng
10/2010 - Bảng câu hỏi số 02 kèm theo ở phần Phụ lục)
HS
lớp
(NH
2011
SL
điều
tra
Chuẩn A: Tốt
(Có ý thức
BVMT)
Chuẩn B:Khá
(Có ý thức
BVMT nhưng
ở mức Khá)
Chuẩn C: TB
(Có ý thức
BVMT nhưng ở
mức TB)
Chuẩn D: Yếu
(Chưa có ý
thức BVMT)
SL TL % SL TL % SL TL % SL TL %
7/1 32 18 56.3 08 25.0 06 18.75 0 0
8/2 37 22 59.5 08 21.6 07 18.92 0 0
9/2 34 20 58.6 12 35.3 02 05.90 0 0
9/3 35 25 71.4 08 22.9 02 05.71 0 0
So với khi chưa đẩy mạnh các biện pháp, giải pháp mà tôi thực hiện
trong đề tài này chúng ta nhận thấy như sau:
Từ chỗ Chuẩn D (Chưa có ý thức bảo vệ môi trường) chiếm tỉ lệ hơn
50% số lượng học sinh khảo sát thì đến đến nay 100% học sinh tham gia khảo
sát đã đạt các Chuẩn A, B, C (Có ý thức bảo vệ môi trường ở mức độ Tốt,
Khá, TB). Như vậy, qua số liệu so sánh của nhóm đối chứng, có thể nói các
biện pháp mà tôi đã thực hiện đã mang lại hiệu quả rõ rệt và tôi đã thành công
trong việc áp dụng các giải pháp trong đề tài này. Đây là một kết quả rất đáng
khích lệ.
2. Hành vi tốt về bảo vệ môi trường của học sinh được thiết lập
vững chắc, ngày càng hoàn thiện và thực hiện trên tinh thần tự giác, tích
cực:
Qua theo dõi của bản thân tôi cũng như qua theo dõi của đội Sao đỏ
đánh giá điểm thi đua hằng ngày thì hành vi của các em được thay đổi cơ bản
theo hướng tích cực bảo vệ môi trường. Các em đã có ý thức giữ vệ sinh lớp
học, sân trường, không còn tình trạng ăn quà vặt, bánh, trái cây xả rác ra môi
trường nữa mà đã biết vứt vào sọt rác. Đi vệ sinh cũng đúng nơi qui định và
biết giữ nhà vệ sinh sạch sẽ. Đặc biệt, các em cũng biết giữ gìn vệ sinh thân
thể, quần áo được giữ sạch sẽ. Biết giữ gìn cửa kính phòng học, tình trạng vẽ
13
bậy trên tường, bàn ghế cũng giảm hẳn. Một tín hiệu đáng mừng là đa số học
sinh ở mỗi lớp học thực hiện quét dọn sân trường, lớp học, làm vệ sinh khu
vực vệ sinh một cách nghiêm chỉnh, tự giác, tích cực chứ không còn gượng ép
như trước nữa (Ảnh 12). Nhiều em khi thấy bạn mình có những hành vi gây
mất vệ sinh môi trường đã nhắc nhở bạn mình có hành vi không đúng, các em
đã góp phần vào bảo vệ môi trường trong lành, bảo vệ sức khoẻ cho chính các
em.
Trước đây khi tổ chức làm vệ sinh sân trường, tưới nước cho hoa thì
GVCN phải trực tiếp đứng ra phân công lao động và nhắc nhở các em, còn
bây giờ thì các em học sinh trong lớp có thể tự phân công nhau trong việc làm
vệ sinh lớp học, sân trường hay nhà vệ sinh. Đây là một tiến bộ đáng kể trong
nhận thức của các em.
Theo ghi nhận của nhà trường thì trong thời gian qua giáo viên và đặc
biệt là học sinh nhà trường đã tích cực hơn trong việc thực hiện cuộc vận
động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Các em học sinh
toàn trường đã đề cao ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác của các em
trong các các buổi lao động vệ sinh hằng ngày.
Hiện tượng vặt lá, bẻ cành, trèo cây bóng mát, bẻ hoa đã hạn chế đến
mức thấp nhất. Các phòng học được quét dọn sạch sẽ, nhất là bịch ni-lon, vỏ
kẹo bánh, thức uống cũng giảm đáng kể. Học sinh có ý thức thực hiện nếp
sống văn minh: bỏ rác vào giỏ rác của lớp hay hố rác của trường; phong trào
trồng hoa cây cảnh, mua ghế đá làm đẹp cảnh quan sân trường được duy trì
hằng năm và ngày càng được đẩy mạnh.
VII. KẾT LUẬN.
Bảo vệ môi trường và hành vi đạo đức, hai vấn đề này gắn với nhau.
Môi trường trong lành tạo điều kiện để học sinh phát triển toàn diện. Học sinh
có thể phát huy mọi năng lực sáng tạo của mình, yên tâm, phấn khởi học tập
còn nếu môi trường xung quanh ô nhiễm, mất mĩ quan nó ảnh hưởng đến học
sinh về mọi mặt, học sinh thấy chán trường dẫn đến các mặt giáo dục sẽ hạn
chế. Chính vì vậy nội dung giáo dục môi trường mà Bộ giáo dục đưa vào hệ
thống giáo dục quốc dân là rất đúng, kịp thời nhất là trong giai đoạn hiện nay
bởi môi trường đang bị tàn phá bởi các nhà máy và ý thức con người và sự tàn
phá của thiên nhiên.
Công tác bảo vệ môi trường có trở thành hiện thực hay không, có được
duy trì một cách bền vững hay không điều đó phụ thuộc rất lớn vào công tác
giáo dục thanh thiếu niên còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Với ý tưởng của
những người có sáng kiến về giáo dục bảo vệ môi trường áp dụng trong nhà
trường, nhất là các trường trên địa bàn miền núi nói chung và huyện biên giới
Tây Giang nói riêng. Từ thực tiễn tại trường và địa phương nơi tôi đang công
tác, tôi nhận ra tính hiệu quả, thiết thực của công tác giáo dục bảo vệ môi
trường cho học sinh thông qua hoạt động Đội, hoạt động ngoài giờ lên lớp và
các hoạt động dạy học. Tôi đã thực hiện việc giáo dục bảo vệ môi trường
14
bằng nhiều hình thức mới mẻ, trực quan, sinh động hấp dẫn với nội dung
phong phú, lấy phương châm “học đi đôi với hành” và “lí thuyết gắn với
thực tiễn” làm phương châm chủ đạo trong các hoạt động. Trong 02 năm qua,
với cách làm trên tôi đã thành công bước đầu khi áp dụng các biện pháp, giải
pháp đã đề ra; học sinh đã có ý thức hơn trong việc giữ gìn bảo vệ môi
trường, đã có những hành động tích cực để bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các biện pháp do điều kiện cơ sở vật
chất của nhà trường vẫn còn hạn chế so với nhu cầu như: Sân trường chưa
được làm bê tông, mặt sân trường chỗ lồi chỗ lõm nên nếu trời mưa nước sẽ
đọng lại gây mất vệ sinh; hệ thống nhà vệ sinh chưa đạt chuẩn (trong đó một
số phòng đã hư hỏng), nếu tính bình quân thì 28 em học sinh phải sử dụng
chung một phòng vệ sinh; hệ thống nước sinh hoạt thường xuyên bị hư hỏng
nếu có mưa lớn nên ảnh hưởng đến vệ sinh chung của nhà trường.
Ý thức bảo vệ môi trường của học sinh cũng như của người dân địa
phương không thể thay đổi một sớm một chiều. Thói quen chặt phá, đốt rừng
làm nương rẫy, khai thác gỗ làm nhà, săn bắt động vật quí hiếm là nhu cầu
hằng ngày của người dân địa phương. Chính vì những lí do trên ảnh hưởng
lớn đến việc áp dụng các biện pháp, các giải pháp tôi đã đua ra trong đề tài
này.
VIII. ĐỀ NGHỊ:
1. Đối chính quyền, các ngành các cấp của huyện Tây Giang:
- Cần quán triệt sâu sắc chủ trương bảo vệ môi trường và giáo dục bảo
vệ môi trường đến tất cả các ngành các cấp và mọi người dân. Thường xuyên
tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, từng bước nâng cao nhận
thức của người dân đối với công tác bảo vệ môi trường.
- Cần có biện pháp hữu hiệu để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng
khai thác gỗ, phá rừng làm nương rẫy, săn bắt động vất quí hiếm
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường học để đáp ứng nhu
cầu giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh trên địa bàn huyện.
2. Đối với UBND và các ngành các cấp xã Bhalêê:
- Có kế hoạch vệ tài sản của nhà trường như cây xanh, hệ thống nước,
công trình vệ sinh trong các dịp nghỉ Tết, nghỉ hè. Vì sau các dịp nghỉ này thì
tài sản của nhà trường thường bị người dân đến phá, cây cảnh bị người dân
nhổ đem về nhà trồng.
- Vận động, tuyên truyền các ban, nghành, đoàn thể và nhân dân có ý
thức và bảo vệ môi trường. Không chặt phá rừng bừa bãi, không săn bắt động
vật hoang dã và có kế hoạch xây dựng nơi đổ rác thải, nước thải đảm bảo
công tác vệ sinh môi trường cho nhân dân nhất là các chất thải vô cơ khó
phân hủy.
3. Đối với phòng GD-ĐT và Hội đồng Đội huyện Tây Giang:
15
- Tăng cường chỉ đạo công tác giáo dục bảo vệ môi trường cho đội viên
trong các trường học, các liên đội trên địa bàn huyện.
- Thường xuyên kiểm tra đánh giá các trường trên địa bàn huyện về
công tác bảo vệ môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường.
- Đưa tiêu chí vệ sinh môi trường là một trong các điều kiện để đánh
giá xếp loại thi đua của các trường học, các liên đội hằng năm.
4. Đối với BGH, các ban tổ và giáo viên nhà trường:
- Có cái nhìn đúng đắn về tính cấp thiết phải bảo vệ môi trường sống
xanh, sạch, đẹp, an toàn, văn minh. Xem nhiệm vụ giáo dục bảo vệ môi
trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng; có hành động thiết thực cụ
thể tuỳ theo nhiệm vụ của mình.
- Thường xuyên phát động phong trào trồng, chăm sóc cây xanh và lao
động làm vệ sinh môi trường trong các tổ chức đoàn thể của nhà trường như:
Công đoàn trường, Chi đoàn trường
- Trong các môn học, GV bộ môn căn cứ vào nội dung cụ thể của từng
môn học mà có sự lồng ghép, tích hợp kiến thức những kiến thức về bảo vệ
môi trường. Sử dụng điện, nước tiết kiệm và giáo dục học sinh sử dụng điện
tiết kiệm.
Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài mà tôi đã áp dụng thực hiện đối
với việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho đội viên ở Liên đội Trường
THCS BTCX Nguyễn Bá Ngọc -một liên đội miền núi trong 02 năm học qua.
Tuy nhiên năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế nên đề tài không tránh
khỏi nhiều thiếu sót mong Hội đồng khoa học các cấp đóng góp ý kiến để cho
đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
IX. PHẦN PHỤ LỤC :
1. Bảng câu hỏi khảo sát ý thức bảo vệ môi trường:
(Bảng câu hỏi số 1-Khảo sát trước khi thực hiện đề tài)
Câu 1: Tài nguyên thiên nhiên có thể được dùng để làm:
A. Lực lượng sản xuất.
B. Phương tiện sản xuất và đối tượng tiêu dùng.
C. Quan hệ sản xuất.
Câu 2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm môi trường là do:
A. Khói bụi nhà máy.
B. Nước thải công nghiệp
C. Rác thải y tế
D. Quá trình khai thác, chế biến, tiêu dùng tài nguyên, tiêu dùng
sinh hoạt sinh ra các chất thải.
16
Câu 3: Tốc độ khai thác khoáng sản tăng lên rất nhanh trong thời
gian nào?
A. Vài chục năm gần đây
B. Đầu thế kỷ XX
C. Đầu thế kỷ X IX
Câu 5. Ở khu vực nông thôn, miền núi ô nhiễm nguồn nước chủ
yếu là do:
A. Nước thải, rác thải sinh hoạt.
B. Việc sử dụng thuốc hóa học, phân hóa học và phân xanh; làm
vàng .
C. Chất thải bệnh viện
D. Tất cả đều đúng
Câu 6. Nguồn gây ra ô nhiễm không khí là:
A. Nguồn ô nhiễm nhân tạo
B. Do núi lủa phun bụi và các hoạt động công nghiệp
C. Nguồn ô nhiễm thiên nhiên
D. Đáp án a và c đúng
Câu 7. Thành phần nào của môi trường bị ô nhiễm trầm trọng?
A. Không khí B. Đất C. Nguồn nước D. Sinh vật
Câu 8. Hậu quả của việc ô nhiễm môi trường là gì?
A. Gây bệnh tật B. Nghèo đói
C.Biến đổi khí hậu D. Tất cả đều đúng
Câu 9. Việc xây dựng các nhà máy thủy điện ở khu vực miền núi
của tỉnh Quảng Nam gây những hậu quả gì?
A. Không gây hậu quả
B. Gây lũ lụt vào mùa mưa (do xả lũ) và hạn hán vào mùa khô
C. Tàn phá rừng (trong đó có rừng nguyên sinh)
D. Đáp án B & C đúng.
Câu 10. Em có thể làm gì để bảo vệ môi trường? (Nêu ngắn gọn)
* Đáp án bảng câu hỏi số 1:
- Các câu hỏi trắc nghiệm, đáo án là phần in đậm;
- Câu 10: Gợi ý: Không vứt rác bừa bãi, đi vệ sinh đung nơi qui định.
Có ý thức giữ gìn vệ sinh chung, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguồn tài nguyên
thiên nhiên, không đốt phá rừng, săn bắt động vật hoang dã
2. Bảng câu hỏi khảo sát ý thức về bảo vệ môi trường:
(Bảng câu hỏi số 2- Khảo sát sau khi thực hiện đề tài)
Câu 1. Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm điện và nguồn tài nguyên
thiên nhiên (đất, nước sạch, rừng, khoáng sản…) là việc làm cần thiết và
cấp bách hiện nay.
Đúng Sai
17
Câu 2. Việc làm nào sau đây thể hiện có ý thức bảo vệ môi trường:
A. Đi vệ sinh đúng nơi qui định và giữ nhà vệ sinh sạch sẽ.
B. Tổ chức lao động làm vệ sinh thường xuyên, phân công lao động ở
lớp và khu nội trú hợp lý.
C. Giữ phòng học, phòng ở khu nội trú ngăn nắp, sạch sẽ.
D. Cả 3 đều đúng.
Câu 3. Khi thấy bạn của mình vứt rác bừa bãi, không đúng nơi qui
định em có nhắc nhở bạn không?
Có Không, để thầy cô giáo nhắc nhở.
Câu 4. Khi thấy gia đình em đốt phá rừng làm nương rẫy, khai
thác gỗ, săn bắt động vật quí hiếm em sẽ:
A. Thường xuyên tham gia vì đây là nguồn sống và nguồn thu nhập
của gia đình mình.
B. Thỉnh thoảng tham gia và rủ bạn bè cùng tham gia.
C. Không tham gia và giải thích cho gia đình mình hiểu đây là việc
làm tàn phá môi trường, gây mất cân bằng sinh thái…
D. Cả 3 đều đúng
Câu 5. Bảo vệ tài nguyên và môi trường là:
A. Việc sử dụng và phát triển bền vững nguồn tài nguyên.
B. Việc thực hiện yêu cầu về môi trường xanh- sạch- đẹp và nguồn tài
nguyên bền vững.
C. Việc bảo vệ cho môi trường sống của con người không ô nhiễm.
D. Việc sử dụng tài nguyên hợp lí, lâu bền và đảm bảo chất lượng
môi trường sống cho con người.
Câu 6. Loại thiên tai nào xảy ra thường xuyên ở nước ta và cũng
gây tác hại lớn đến sản xuất và đời sống con người?
A. Bão, lũ lụt B. Hạn hán, nắng nóng
C. Lốc, mưa đá, sương muối. D cả 3 đều đúng.
Câu 7. Biểu hiện mất cần bằng sinh thái môi trường thể hiện ở yếu
tố nào?
A. Sự gia tăng các thiên tai, bão lụt.
B. Gây hiệu ứng nhà kính và thủng tầng Ô-zôn.
C. Sự biến đổi bất thường về thời tiết, khí hậu.
D. Cả 3 đều đúng.
Câu 8. Thế nào là sự phát triển bền vững?
A. Là sự tác động mạnh mẽ vào thiên nhiên, khai thác tự nhiên nhằm
mục đích phục vụ cho con người.
B. Là thỏa mãn nhu cầu phát triển cho hiện tại, không quan tâm đến các
thế hệ tương lai
C. Là sự thỏa mãn nhu cầu phát triển của hiện tại nhưng không
ảnh hưởng đến thế hệ tương lai.
D. Là sự thỏa mãn nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai.
18
Câu 9: Hội nghị Copenhagen (Đan Mạch) của Liên Hiệp Quốc
nhằm thảo luận về vấn đề gì?
A. Biến đổi khí hậu B. Bảo vệ môi trường
C. Sinh thái môi trường D. Bảo vệ động vật quý hiếm
Câu 10: Nội dung cơ bản của việc hưởng ứng Giờ trái đất (Earth
Hours) là gì?
A. Bảo vệ động vật hoang dã.
B. Mọi người cùng hành động để bảo vệ môi trường, sử dụng năng
lượng tài nguyên một cách hiệu quả.
C. Bảo vệ nguồn nước.
D. Không đốt phá rừng làm nương rẫy.
* Đáp án bảng câu hỏi số 2:
- Các câu hỏi trắc nghiệm, đáp án là phần in đậm;
- Câu 1 & câu 3: Đáp án là ô gạch chéo.
3. Bài viết tuyên truyền “Nạn ô nhiễm môi trường ở Việt Nam”:
(Bài tuyên truyền số 1)
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên
nghiêm trọng hơn ở Việt Nam. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hằng
ngày, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông tin về
môi trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, tình
trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Điều này khiến chúng ta phải
suy nghĩ…
Môi trường đang kêu cứu!
Từ đầu năm đến nay, đã có thêm không biết bao nhiêu thống kê mới
về tình trạng môi trường ở Việt Nam ta. Và đáng buồn thay, đó là những con
số gây thất vọng…
Theo bản tổng kết môi trường toàn cầu do Chương trình Môi trường
Liên Hợp Quốc (UNEP), Hà Nội và TP. HCM nằm trong danh sách 6 thành
phố ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất thế giới. Về nồng độ bụi, hai thành
phố lớn nhất Việt Nam này chỉ đứng sau Bắc Kinh, Thượng Hải, New Delhi
và Dhaka. Mối đe doạ tiềm tàng này chắc chắn sẽ cản trở quá trình phát triển
hơn nữa của các thành phố này. Cũng theo một nghiên cứu về các chỉ số môi
trường ổn định do Trường Đại học Yale (Mỹ) thực hiện, Việt Nam đứng một
trong những thứ hạng thấp nhất trong số các nước Đông Nam Á.
Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất
thải, nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công
nghiệp, khu đô thị đang ở mức báo động.
Không chỉ có môi trường nước mà môi trường không khí và môi
trường đất cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Môi trường không khí ở hầu hết
các đô thị Việt Nam đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Riêng tại thành phố
Hồ Chí Minh, kết quả đo đạc tại 6 trạm quan trắc không khí cho thấy 89%
19
mẫu kiểm tra không khí không đạt tiêu chuẩn cho phép, luôn ở mức nguy hại
cao cho sức khỏe, trong đó lượng bụi lơ lửng đang là nhân tố gây ô nhiễm
nghiêm trọng hàng đầu trên địa bàn. Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm không
khí do chì cũng gia tăng nhanh chóng, cụ thể nồng độ chì đo được từ đầu năm
2009 đến nay thường dao động ở ngưỡng 0,22 - 0,38g/m³, quá chuẩn cho
phép khoảng 1,5 lần. Về môi trường đất, kết quả của một số khảo sát cho thấy
hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công nghiệp đã tăng lên trong
những năm gần đây. Thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ảnh hưởng đến đất. Mặc
dù khối lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt Nam còn ít, trung
bình từ 0,5-1,0 kg/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc
bảo vệ thực vật trong đất.
Vậy nguyên nhân của những sự việc trên là do đâu?
Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng của nhiều người
dân mà đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều người nghĩ rằng những việc mình làm là
quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số người khác lại cho rằng
việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của chính quyền mà
không phải là của mình. Số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm
thì có làm gì đi chăng nữa cũng không đáng kể và việc ô nhiễm môi trường
cũng không ảnh hưởng gì tới mình nhiều Các bạn có suy nghĩ gì về những
nhận định trên! Việc phá hoại môi trường của một người tuy chỉ ảnh hưởng
nhỏ nhưng nhiều người lại là lớn. Trách nhiệm bảo vệ môi trường tuy cũng có
một phần là của nhà nước nhưng đa phần lại là của người dân. Những việc
chúng ta làm đối với môi trường chưa thấy trước mắt nhưng về lâu về dài nó
sẽ ảnh hưởng tới chúng ta rất nhiều.
Một nguyên nhân khác gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu
trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận,
không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần đáng kể gây
ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, chính sự chưa chặt chẽ trong việc quản lý
bảo vệ môi trường của nhà nước cũng đã tiếp tay cho các hành vi phá hoại
môi trường tiếp diễn. Ngoài ra, lượng xe cô lưu thông ngày càng nhiều ở
nước ta cũng góp phần không nhỏ vào việc gây ô nhiễm bầu không khí.
Điều này đã để lại hậu quả gì?
Tình hình ô nhiêm môi trường như vậy nên các bệnh do ô nhiêm môi
trường như: hen, viêm phổi, phổi tắc nghẽn mãn tính; ô nhiễm ozone có thể
gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm vùng họng, đau ngực, khó thở;
các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong thức ăn nước uống có thể gây
ung thư. Dầu tràn có thể gây ngứa rộp da. Ô nhiễm tiếng ồn gây điếc, cao
huyết áp, trầm cảm và bệnh mất ngủ… Điển hình như “làng ung thư” Thạch
Sơn ở Phú Thọ, hàng trăm người đã chết vì căn bệnh ung thư mà nguyên nhân
là do dùng nguồn nước bị ô nhiễm thải ra Nhà máy Hóa chất Lâm Thao, Phú
Thọ. Hàng năm có khoảng 16.000 người ở Việt Nam chết vì những căn bệnh
liên quan tới ô nhiễm không khí. Dự báo trong những năm tới, con số này còn
có thể tiếp tục gia tăng. Cạn kiệt tài nguyên sinh vật là một hậu quả khác
20
không thể tránh được của ô nhiễm môi trường và sự tàn phá thiên nhiên của
con người, gần đây nhất vào cuối năm 2011 loài tê giác Java (tê giác 1 sừng)
đã tuyệt chủng ở Việt Nam. Theo dự báo trong tương lai gần, Việt Nam có thể
sẽ bị thiếu nước sinh hoạt trầm trọng do lượng nước sạch bị ô nhiễm ngày
một nhiều và nguồn nước ngầm tự nhiên đang ngày càng khô cạn…
Vậy chúng ta phải làm gì để bảo vệ môi trường?
Chúng ta cần phải tiếp tục công việc bảo vệ và làm sạch môi trường
bằng những việc làm thiết thực hơn nữa! Bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết
đã trở thành nhiệm vụ cấp bách không của riêng ai.
Với trách nhiệm của một người làm chủ tương lai của đất nước các bạn
hãy luôn biết bảo vệ môi trường sống cho bản thân, gia đình và toàn xã hội
bằng những hành động thiết thực của mình như :
1. Bảo vệ cơ sở vật chất của nhà trường. Ra sức gìn giữ, chăm sóc bồn
hoa, cây cảnh của trường, của địa phương và nơi công cộng.
2. Tham gia lao động tích cực, tự giác với hiệu quả cao nhất qua các
buổi lao động do địa phương, thôn trường tổ chức.
3. Chú ý giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường, vệ sinh trong
cộng đồng từ nhà đến trường, phản đối mọi hành vi xâm hại đến môi trường
sống.
4. Góp phần cùng nhà trường tu bổ, gìn giữ khu vệ sinh của nhà trường,
góp ý phê bình bạn bè thiếu trách nhiệm bảo vệ, thiếu văn hoá, cần nhận thức
đầy đủ về hậu quả của ô nhiễm môi trường.
5. Tham gia tích cực vào việc trồng và chăm sóc bồn hoa, cây cảnh
trong lớp học, trong sân trường.
Vì một hành tinh xanh tất cả chúng ta hãy cùng chung tay góp sức giữ
môi trường “xanh – sạch – đẹp”!
4. Bài tuyên truyền về biến đổi khí hậu: (Bài tuyên truyền số 02)
Hiện nay, cùng với các vấn đề như bùng nổ dân số, xung đột vũ trang
và nạn khủng bố thì ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang là hai vấn
đề thời sự được cả thế giới nhắc tới và quan tâm nhiều nhất bởi những ảnh
hưởng, tác động vô cùng to lớn của chúng tới con người, sinh vật sống trên
trái đất.
Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, Việt Nam là một trong 5 quốc gia
chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do biến đổi khí hậu. Tháng 3 năm 2012,
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố kịch bản biến đổi khí hậu mới nhất.
Các kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng ở Việt Nam được xây dựng
dựa trên ước tính về phát thải khí nhà kính toàn cầu, gồm các kịch bản ở mức
thấp, trung bình và cao.
Theo kịch bản phát thải cao, đến cuối thế kỷ 21, mực nước biển tăng từ
57 tới 73 cm trên toàn dải ven biển Việt Nam. Mực nước biển tăng mạnh nhất
tại khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang, với mức tăng cao nhất lên tới 105 cm.
Giới khoa học cho biết nếu mực nước biển dâng đúng theo kịch bản, khoảng
21
39% diện tích đồng bằng sông Cửu Long bị ngập và 35% dân số chịu ảnh
hưởng. Môi trường tự nhiên vẫn đang từng phút, từng giây cung cấp cho cuộc
sống con người những nguồn lợi vô giá. Thế nhưng, con người đã và đang
làm gì để đền đáp, bảo vệ cho môi trường, cho tự nhiên-cái nôi nuôi dưỡng sự
sống của chính mình? Câu hỏi ấy tưởng chừng như rất đơn giản nhưng lại làm
cho ta phải giật mình một khi định trả lời, rằng bên cạnh không nhiều người
đã có kiến thức và ý thức tốt về bảo vệ môi trường là không ít những người,
thậm chí còn chưa có được dù chỉ là một khái niệm cơ bản về vấn đề này.
Người ta nói rằng cứ một cây đại thụ ở Châu Phi bị đốn hạ thì ở Thái
Bình Dương sẽ có thêm một cơn bão. Rất có thể cơn cuồng nộ Chan-Chu năm
2006 là một điển hình như vậy. Kẻ cuồng sát đã phá hủy biết bao nhà cửa,
đường sá, trường học, cướp đi sinh mạng của biết bao con người. Chúng ta
chắc vẫn còn nhớ Cơn bão số 6 (Xangsane) vào tháng 9/2006 đổ bộ vào Đà
Nẵng, một phần Quảng Ngãi, Quảng Nam và Thừa Thiên - Huế đã gây thiệt
hại nặng nề cho các tỉnh này. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt
bão Trung ương 59 người bị chết, 7 người mất tích do trận bão khủng khiếp
này cũng như các trận lũ sau đó. Ngoài ra, khoảng 527 người bị thương, gần
16.000 nhà sập, hơn 25.000 nhà tốc mái và 52.000 nhà bị ngập trong nước,
gần 579 tàu thuyền hư hại. Ước tính tổng số thiệt hại hơn 10.000 tỷ đồng.
Cơn bão số 9 (Ketsana) năm 2009 đổ bộ vào miền Trung, Tây Nguyên hồi
tháng 10.2009 làm 172 người chết, 12 người mất tích, thiệt hại trên 14.300 tỉ
đồng.
Vậy chúng ta phải làm gì để bảo vệ cái nôi sự sống của chính mình?
Đó không đơn thuần còn là một câu hỏi nữa mà đã là một nhiệm vụ cấp bách
của toàn thể nhân loại.
Đứng trước một thực tại cấp thiết đáng lo ngại, chính quyền các cấp
và nhân dân cũng đã và đang bắt tay vào nhiệm vụ tìm lại sự trong lành, khỏe
mạnh cho môi trường sống. Hằng năm, chúng ta cần tích cực tham gia Tết
trồng cây, bảo vệ rừng đồi, tuyên truyền phát động phong trào tự dọn vệ sinh
tới từng khu dân cư. Tất cả những việc làm đó đã và đang góp phần làm cho
địa phương của chúng ta ngày càng thân thiện với môi trường.
Các bạn thân mến ! Cùng với việc môi trường bị ô nhiễm, trái đất của
chúng ta đang ngày một nóng lên, thiên nhiên đã nổi giận. Băng tan ở hai cực
kéo theo sự dâng lên của mực nước biển đe dọa nhấn chìm những đồng bằng
màu mỡ nhất của thế giới. Môi trường sống của chúng ta đã không còn đủ
kiên nhẫn nữa. Nếu các bạn đã có ý thức bảo vệ môi trường, xin hãy tiếp tục,
còn nếu chưa thì cũng đừng quá lo lắng, hãy thay đổi thói quen ngay từ bây
giờ. Chỉ có như vậy thì môi trường tự nhiên mới mãi là cái nôi êm ái của mỗi
chúng ta.
22
HÌNH ẢNH MINH HỌA CHO ĐỀ TÀI
23
X. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Bản tin“Tài nguyên môi trường”- Website Bộ Tài nguyên môi
trường, 2012;
2. Bộ Chính trị (Khoá IX)- Nghị quyết 41-NQ/TW "Về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước",
2004;
3. Diễn đàn “Biến đổi khí hậu”- Website Bộ Tài nguyên môi trường,
2012;
4. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường, 2005;
5. Lâm Minh Triết- Lê Huy Bá- Sinh thái môi trường học cơ bản, Nxb
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2006.
24
XI. MỤC LỤC:
I. Tên đề tài ……………………………………………… Trang 01
II. Đặt vấn đề ……………………………………………… Trang 01
1. Tầm quan trong của vấn đề được nghiên cứu …………………… Trang 01
2. Tóm tắt những thực trạng liên quan đến đề tài ………………… Trang 02
3. Lí do chọn đề tài ……………………………………………… …… Trang 03
4. Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………… Trang 03
III. Cơ sở lí luận ……………………………………………… Trang 04
IV. Cơ sở thực tiễn ……………………………………………… Trang 05
V. Nội dung nghiên cứu: ……………………………………………… Trang 08
1. Tổ chức các hoạt động Đội, hoạt động ngoài giờ lên lớp
lồng ghép, tích hợp các nội dung bảo vệ môi trường: …………… Trang 08
2. Tổ chức thực hiện “Công trình măng non”, chăm sóc hoa
cây cảnh, làm vệ sinh sân trường hằng ngày để giáo dục tinh
thần lao động, tạo cảnh quan và giữ vệ sinh môi trường …………
Trang 09
3. Lồng ghép nội dung tuyên truyền về bảo vệ môi trường
trong chương trình “Phát thanh măng non” hằng tuần của Liên
đội: Trang 10
4. Giáo dục bảo vệ môi trường phải đi đôi với giáo dục giá
trị sống, kỹ năng sống cho học sinh: Trang 10
5. Tham mưu tốt cho BGH nhà trường trong việc đảm bảo
vệ sinh trường, lớp luôn sạch sẽ; không gây ô nhiễm môi
trường: Trang 11
VI. Kết quả nghiên cứu: ……………………………………………… Trang 12
VII. Kết luận: ……………………………………………… Trang 13
VIII. Đề nghị: ……………………………………………… Trang 14
IX. Phần phụ lục: ……………………………………………… Trang 15
1. Bảng câu hỏi khảo sát ý thức bảo vệ môi trường (Bảng số 1-
Khảo sát trước khi thực hiện đề tài) …………………………………… Trang 15
2. Bảng câu hỏi khảo sát ý thức bảo vệ môi trường (Bảng số 2-
Khảo sát sau khi thực hiện đề tài) ……………………………………… Trang 16
3. Bài viết tuyên truyền “Nạn ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
(Bài số 1) ……………………………………………………………………… Trang 18
4. Bài viết tuyên truyền về biến đổi khí hậu (Bài số 2) ………… Trang 20
5. Các hình ảnh minh họa cho đề tài ………………………………… Trang 22
X. Tài liệu tham khảo: ……………………………………………… Trang 27
XI. Mục lục: ……………………………………………… Trang 28