Tải bản đầy đủ (.doc) (154 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác thu thuế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (600.85 KB, 154 trang )

PHẦN 1- MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước và là công cụ điều
tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy mà các nhà kinh tế, các nhà
quản lý luôn quan tâm nghiên cứu về chính sách thuế của quốc gia nói chung
và của từng địa phương nói riêng. Trọng tâm của các nghiên cứu là: làm thế
nào để chính sách thuế đạt được mục đích tạo nguồn thu vững chắc, đảm bảo
cân đối thu chi Ngân sách Nhà nước; đồng thời góp phần phát huy tác dụng
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.
Tỉnh Thừa Thiên Huế là tỉnh mới được tái thiết lập lại từ năm 1989, đã
nhanh chóng hoà cùng với cả nước tạo thế, tạo đà vững bước đi lên; xây
dựng Thừa Thiên Huế trở thành một trung tâm kinh tế-văn hoá-du lịch ngày
càng vững mạnh. Trong quá trình phát triển kinh tế, tỉnh đã luôn quan tâm
xây dựng ngành tài chính - thuế tạo nguồn thu ngân sách, đáp ứng được
nhiệm vụ chi tiêu ngày càng cao của tỉnh nhà.
Kết quả thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ chính sách
thuế đã phần nào hợp lý, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
phát triển; nuôi dưỡng được nguồn thu; Hệ thống quản lý thu thuế đã từng
bước cải cách, hiện đại hóa, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng cho
đội ngũ công chức thuế, tăng hiệu quả trong quản lý thu thuế. Tuy nhiện,
Hệ thống chính sách thuế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề ở chính sách thuế,
cũng như trong quá trình tổ chức quản lý thu thuế. Hệ thống chính sách thuế
chưa bắt nhịp được với sự phát triển ngày càng cao về khoa học, công nghệ.
Sự hội nhập và quá trình toàn cầu hóa một cách nhanh chóng đã làm cho
chính sách thuế cũng như công tác tổ chức quản lý thuế bộc lộ nhiều bất cập
1
và tính khả thi thấp. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức quản lý thu thì chưa phù
hợp, thiếu chặt chẽ, chồng chéo, nặng nề nên gây thất thu lớn về số lượng cơ
sở, đơn vị thực tế có kinh doanh nhưng không nộp thuế hoặc nộp không đầy
đủ, nợ đọng dây dưa thu ngân sách. Trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế chưa
phát huy hết tác dụng của công cụ thuế để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có


lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện đóng góp hợp lý, công bằng cho Ngân
sách Nhà nước. Vì vậy, việc chọn đề tài : "Nâng cao hiệu quả công tác thu
thuế trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế" có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý
luận và thực tiễn.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện nhằm đạt được những mục đích sau đây:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn
đề lý luận về thuế và công tác quản lý thuế.
- Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thu thuế trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy
và nâng cao hiệu quả công tác thu thuế trên địa bàn, nhằm phấn đấu đưa tỉnh
Thừa Thiên Huế gia nhập câu lạc bộ thu ngân sách trên 2.000 tỷ đồng vào
năm 2010.
Đối tượng nghiên cứu là các sắc thuế chủ yếu đang thực hiện và cơ
cấu tổ chức bộ máy của Cục Thuế Thừa Thiên Huế hiện tại, đề ra cơ cấu tổ
chức mới theo hướng cải cách bộ máy hành chính và hiện đại hóa nền tài
chính quốc gia, phù hợp thông lệ quốc tế và khu vực.
Phạm vi nghiên cứu là công tác quản lý thuế trong đó có nhấn mạnh
đến công tác thu thuế tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Với phạm vi đó, trọng tâm
của vấn đề nghiên cứu chủ yếu bao gồm các loại thuế chủ yếu và các đối
2
tượng quản lý thu thuế của địa phương. Nội dung chủ yếu của Luận văn : Từ
phân tích kết quả thu thuế qua từng năm chỉ ra ưu, nhược điểm và tác động
của chính sách thuế đến số thu Ngân sách, và phát triển kinh tế, thực hiện
công bằng xã hội ở địa phương; nghiên cứu các nguyên nhân về mặt chính
sách, chế độ, về tổ chức quản lý thu thuế, về đối tượng nộp thuế để đưa ra
được những giải pháp tổ chức quản lý thuế khả thi trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do nét đặc thù của chủ đề nghiên cưu, để thưc hiện đề tài này, các

phương pháp nghiên cứu truyền thống và được sử dụng rộng rãi trong nghiên
cứu khoa học xã hội đã được sử dụng. Cụ thể của các phương pháp nghiên
cứu này là: phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu thống kê,
phương pháp phân tích định lượng và phương pháp hạch toán, tứclà sử dụng
hệ thống các chỉ tiêu GO, IC, ... để đánh giá kết quả và hiệu quả công tác
quản lý thu thuế.
4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm 3 phần chính : ngoài phần mở đầu, kết luận, phần chính
của luận văn gồm bốn chương :
Chương 1 : Tổng quan lý luận về thuế và công tác quản lý thu thuế.
Chương 2 : Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3 : Thực trạng công tác thu thuế trên địa bàn tỉnh TT-Huế.
Chương 4 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thu thuế trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
3
PHẦN 2- NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU THUẾ
1.1. ĐẠI CƯƠNG VỀ THUẾ NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm về thuế
Thuế trên thực tế đã tồn tại từ khi các Nhà nước hình thành, song các
lý luận về kinh tế của thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt
đối khái niệm về thuế [33]. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế
đưa ra, mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó không
phản ánh đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Gần đây trong một
số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng, để vạch rõ bản
chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật được các khía cạnh sau : Nội
dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước

với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này
được nảy sinh một cách khách quan và có đ ý nghĩa xã hội đặc biệt [39][42].
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của các quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu
lên khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và
pháp nhân cho Nhà nước theo các mức độ mà pháp luật quy định. Khoản
chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế để phục vụ cho mục tiêu phục vụ
lợi ích công cộng. Nguồn thu về thuế không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân.
Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung,
Nhà nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý
4
và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó
đựơc hưởng một phần kết quả nộp thuế của mình [22]. Như vậy thuế ở nước
ta luôn luôn là một khoản thu bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho
người nộp thuế nhưng họ được gián tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư,
phát triển của Nhà nước cho các công trình phúc lợi xã hội khác nhau [40]
[43].
1.1.2. Bản chất, chức năng của thuế
Từ khái niệm thuế nói trên ta có thể thấy được bản chất của thuế
được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của nó, những thuộc tính
đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển [43]. Nghiên cứu
về thuế, người ta thấy có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt với các
công cụ tài chính khác như sau :
a) Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp nhân
dân cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự. Tính bắt buộc phi hình sự
là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, phân biệt thuế với các hình thức huy
động tài chính khác của Ngân sách Nhà nước [43].
Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ
tiền tệ, được hình thành khách quan và có t ý nghĩa xã hội đặc biệt, việc động

viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước ta [39].
Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một
phương thức phân phối của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó là một bộ
phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà
không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người
nộp thuế.
Tính cưỡng bức, bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn
từ những lý do sau :
5
Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương
pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc các đối
tượng có thu nhập phải chuyển giao [21].
Thứ hai, trong một xã hội hiện đại, các thành viên của cộng đồng
ngày càng có nhu cầu cao về hàng hóa công cộng [20]. Nhìn chung đại bộ
phận hàng hóa công cộng do Nhà nước sản xuất và cung cấp. Để sản xuất và
cung cấp hàng hóa công cộng tất yếu phải bỏ chi phí, các chi phí đó phải
được bù đắp từ nguồn thu nhập của những người thụ hưởng hàng hóa công
cộng. Song do tính chất của hàng hóa công cộng không thể phân bổ theo
khẩu phần để sử dụng và không muốn sử dụng theo khẩu phần, do đó, không
có tính cạnh tranh, không thể trao đổi theo cơ chế thị trường. Chính vì vậy
trong việc cung cấp hàng hóa công cộng xuất hiện “người ăn không” nghĩa là
không tự nguyện trả tiền cho việc thừa hưởng hàng hóa công cộng. Do vậy
để có chi phí cho việc cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử
dụng phương pháp bắt buộc “người ăn không” chuyển giao thu nhập từ khu
vực tư sang khu vực công [22].
Tuy nhiên tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa

vụ của người công dân [26].
Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài
chính khác của ngân sách Nhà nước như phí, lệ phí, công trái hoặc hình thức
phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song
việc phạt bằng tiền chỉ xảy ra đối với người nộp phạt khi có hành vi vi phạm
luật lệ làm phương hại đến lợi ích nhà nước hoặc cộng đồng [31].
6
b) Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính
chất hoàn trả trực tiếp, biểu hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính
đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà
nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những
dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nước cung cấp [43], [20]. Người nộp
thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ
công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao khoản thu
nhập cho Nhà nước, mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà
nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao [1], [21]
Thứ hai, Khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không
hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các
dịch vụ công cộng của Nhà nước. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt sự
khác nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí [23].
c) Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định
trước bằng pháp luật.
Đặc điểm này, một mặt thể hiện tính pháp lí cao của thuế, mặt khác
phản ánh sự chuyển giao thu nhập này không mang tính chất tùy tiện mà dựa
trên những cơ sở khoa học nhất định và đã được xác định trong luật thuế.
Những tiêu thức thường được xác định trước đối với thuế là : đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế
tài mang tính cưỡng chế khác [23].
d) Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh

hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định.
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của
nền kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự
biến động của ngân sách Nhà nước...
7
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế của Nhà
nước, tâm lí, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hóa, xã hội
của dân tộc...Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội như vậy nên người ta thường nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã
hội tổng hợp [23].
e) Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới
hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lí của nhà nước đối
với con người và tài sản [23].
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản
chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân
biệt thuế với các hình thức động viên khác của ngân sách nhà nước trên
nhiều phương diện khác nhau.
1.1.3. Hệ thống thuế và phân loại thuế
1.1.3.1. Khái niệm hệ thống thuế
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức khác nhau mà giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết bao hàm việc xây dựng các sắc thuế, loại thuế;
phương pháp thu, nộp trên những nguyên tắc nhất định .Tùy thuộc vào khả
năng và ý đồ của từng Nhà nước trong việc điều tiết dòng thu nhập quốc dân,
ở những giai đoạn lịch sử cụ thể mà hình thành những hệ thống thuế khác
nhau. Tuy vậy, bất kỳ một hệ thống thuế nào cũng phải bao gồm 2 bộ phận :
Hệ thống chính sách thuế và Hệ thống quản lý thuế. Chính sách thuế là tổng
hợp các phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thu nộp thuế; quản lý
thuế là các biện pháp, thủ pháp thực hiện chính sách thuế để đạt được những
mục tiêu đã định
Khi xem xét hệ thống thuế của một quốc gia nhất định, người ta ít

chú ý đến số lượng của các sắc thuế, các loại thuế trong hệ thống đó, mà chủ
8
yếu đánh giá, xem xét đến khía cạnh chất lượng của nó. Mỗi quốc gia tùy
theo điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội ở từng giai đoạn cụ thể mà định hướng
xây dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống thuế đó phản ánh những
mục tiêu của Nhà nước đặt ra [41].
Ở Việt nam, trong giai đoạn 1990 – 1998, Hệ thống chính sách thuế
đã được cải cách đáng kể, đã xây dựng được một hệ thống chính sách thuế
gồm 9 sắc thuế và một số loại phí, lệ phí, cụ thể :
- Thuế doanh thu
- Thuế hàng hoá
- Thuế lợi tức
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Thuế nông nghiệp
- Thuế tài nguyên
- Thuế nhà, đất
- Thuế thu nhập dân cư
- Thuế vốn
Và một số thuế mang tính chất lệ phí (như thuế môn bài, thuế sát
sinh…) [41].
Hệ thống chính sách thuế hiện nay được xây dựng và hoàn chỉnh có
tính pháp lý cao nhất đó là các văn bản Luật và đã đáp ứng được một số yêu
cầu của một hệ thống chính sách thuế hiện đại, đó là :
+ Về tài chính : Đã bao quát hết mọi nguồn thu có thể bồi dưỡng,
khai thác và động viên nhằm đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày
càng tăng của ngân sách nhà nước, tạo được phần tích lũy cho phát triển kinh
tế, xây dựng cơ sở hạ tầng .
9
+ Về kinh tế : Thực sự phát huy tác dụng là công cụ có hiệu lực của
Nhà nước tích cực góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tăng

cường hạch toán kinh tế, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh. Thực
hiện tốt chính sách kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực và
thế giới.
+ Về xã hội : Từng bước thực hiện yêu cầu động viên đóng góp công
bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, giảm dần
khoảng cách chênh lệch về thu nhập và tiêu dùng xã hội, góp phần ổn định
chính trị, kinh tế, an toàn xã hội.
+ Về nghiệp vụ : Chính sách chế độ đã có sự đơn giản, rõ ràng, dễ
hiểu, dễ kiểm tra; phát huy được quyền dân chủ và nâng cao được trách
nhiệm và nghĩa vụ công dân về thuế [41].
1.1.3.2 Phân loại thuế
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, quản lý và tổ chức hành thu
trong thực tế, người ta tiến hành phân loại thuế theo một số tiêu thức nhất định.
1.1.3.2.1. Phân loại theo tính chất kinh tế của thuế
Theo cách phân loại truyền thống đã hình thành từ rất lâu, thuế được
chia thành hai loại : thuế trực thu và thuế gián thu. Sự phân loại này phụ
thuộc vào đối tượng đánh thuế, mối quan hệ tương hỗ giữa người nộp thuế
và nhà nước.
- Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp lên một khoản thu nhập (tiền
lương, lợi nhuận, lợi tức...) hoặc tài sản (ruộng đất, nhà cửa, chứng khoán...)
nào đó của người nộp thuế.
Thuế trực thu thường đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người nộp
thuế, dễ gây ra tâm lý bất bình trong nhân dân. Ở nước ta, trong hệ thống
thuế hiện hành, các loại thuế dưới đây được xem là thuế trực thu : như thuế
10
lợi tức, thuế thu nhập, thuế tài nguyên, thuế nhà đất và thuế sử dụng đất nông
nghiệp.
- Thuế gián thu là một loại thuế đánh vào hàng hoá, dịch vụ và được
ấn định dưới hình thức một khoản phụ thêm được cấu thành trong giá cả
hàng hoá, dịch vụ nhằm điều tiết một phần thu nhập của người tiêu dùng.

Khi áp dụng hình thức thuế gián thu, mối quan hệ giữa người nộp thuế
và nhà nước được thể hiện một cách gián tiếp.
Ngày nay, sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu không còn
rõ nét như trước đây. Ở giác độ hành chính đã có sự thống nhất quản lý đối
với hai loại thuế. Trong các hệ thống thuế hiện đại, còn tồn tại hai phương
thức thu thuế, nhưng mỗi phương thức đều tương ứng với hình thức thu gián
tiếp. Thuế lúc này sẽ do người chủ các đơn vị nộp đối với các khoản lương
bổng, hoặc do chủ ngân hàng nộp đối với các khoản tiền lãi về động sản, hay
do người bán hàng nộp đối với các khoản chi tiêu. Tuy nhiên, thuế trực thu
đáp ứng yêu cầu đánh thuế dựa trên khả năng chi trả hơn thuế gián thu, thuế
suất trung bình sẽ tăng khi thu nhập gia tăng, và những người có thu nhập
cao sẽ phải chịu thuế suất trung bình cao hơn [43].
1.1.3.2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế
Phân loại theo đối tượng đánh thuế, hệ thống thuế bao gồm các loại:
- Thuế đánh vào hàng hoá: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập
khẩu, thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào thu nhập, như: thuế lợi tức, thuế thu nhập.
- Thuế đánh vào tài sản, như: thuế nhà, thuế đất, thuế chuyển quyền sử
dụng nhà, đất....
- Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu công cộng, như: thuế tài
nguyên, thu vốn ngân sách.
11
Vận dụng cách phân loại này trong thực tế cho thấy hệ thống thuế bao
gồm nhiều loại thuế với những tác dụng riêng có khác nhau, từng loại thuế
phát huy vai trò điều tiết trong các lĩnh vực nhất định song chúng vừa hổ trợ,
bổ sung cho nhau để đảm bảo thực hiện chức năng toàn diện của hệ thống
thuế.
Ngoài ra còn một số cách phân loại như:
- Phân loại thuế dựa vào tính chất lũy tiến và lũy thoái
- Phân loại thuế theo chế độ phân cấp quản lý, điều hành ngân sách:

Thuế nhà nước, thuế địa phương
- Phân loại theo phương thức sử dụng: Thuế tổng hợp, thuế chuyên
dùng [43].
1.1.4. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà
nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được
coi trọng và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, sự can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ thống
Pháp luật, đặc biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò
của thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế được coi là công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, có ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và
góp phần đảm bảo công bằng xã hội [20].

Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước :
Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào
nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay,
các khoản viện trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ
yếu của Ngân sách quốc gia, là một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính
12
quốc gia. Sau 20 năm đổi mới tình hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến
tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau tăng hơn năm trước, bình quân
trong 5 năm 2001-2005 là 7,5% [42]. Lạm phát được kìm hãm và đẩy lùi, thị
trường được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản xuất
trong nước phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại từng bước được mở rộng và
phát triển hội nhập . Trong bối cảnh đó thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn
năm sau cao hơn năm trước đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu
tư phát triển, góp phần tích lũy cho Ngân sách và cả việc chi trả nợ vay.
Được như vậy thuế đã góp phần tích cực trong việc tăng thu Ngân sách. Tỷ
lệ động viên GDP vào Ngân sách Nhà nước ngày càng tăng. Trong đó mức

động viên thuế và phí chiếm vai trò quan trọng.
0,000
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
Tong thu NS
81,980 83,570 108,960
So thu thue noi đia
65,486 70,943 90,671
2003 2004 2005
Đơn Vị Tính Nghìn Tỷ Đồng
Nguồn: Tổng Cục Thuế, 2005
Sơ Đồ 1 : Kết quả thu ngân sách của nước ta giai đoạn 2003 – 2005
Ngân sách Nhà nước được thu từ nhiều nguồn khác nhau: Từ thuế,
Phí - lệ phí, viện trợ nước ngoài, tín dụng nhưng thuế và phí, đặc biệt là thuế
là nguồn thu chủ yếu, là bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia. ở các
13
nước phát triển, thuế chiếm trên dưới 90% tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam
vai trò của thuế trong tổng thu ngân sách chiếm tỷ trọng lớn ngày càng tăng.
Trong năm 1990 tỷ trọng thuế và phí trong Tổng thu ngân sách nhà nước
(NSNN) là 76,8%, năm 2001 tăng lên 96,5% và tỷ lệ điều tiết từ GDP hàng
năm khoảng 21-22%; tốc độ thu ngân sách qua các năm được thể hiện theo
biểu đồ trên về kết quả thu ngân sách của nước ta [37]
Với cơ cấu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Hệ thống thuế
được áp dụng thống nhất, đồng bộ giữa các thành phần kinh tế đã bao quát
toán bộ mọi hoat động sản xuất kinh doanh.
Các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng của xã hội thuế đã hoàn thành

được nhiệm vụ tập trung tích lũy ngân sách đảm bảo cho yêu cầu chi của
Nhà nước về các mặt: Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển...
∗∗
Thuế là công cụ quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là một công cụ sắc bén của Nhà nước để quản lý kinh tế - xã
hội với chức năng chủ yếu là đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước
và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng khuyến khích sản xuất
phát triển theo định hướng của Nhà nước [32].
Một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc là chính sách thuế phải
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Do vậy, bằng
các sắc thuế khác nhau áp dụng đối với từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau.
Nhà nước điều chỉnh quy mô đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Thực hiện cân đối hàng - tiền, cân đối cung cầu ở tầm vĩ mô, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, các vùng lãnh thổ giữa Trung
ương và Địa phương đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng tích lũy trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là điều kiện quan trọng ổn định để thúc đẩy tốc
độ phát triển của nền kinh tế.
14
Thông qua Pháp luật thuế Nhà nước xác định đúng đắn cơ cấu và
quan hệ giữa các sắc thuế, quy định chính xác, hợp lý đối tượng nộp thuế,
chế độ miễn giảm, phương pháp quản lý thuế để đảm bảo việc thu đúng thu
đủ đồng thời khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động sản xuất kinh doanh
cần thiết cho xã hội, khuyến khích những thành phần kinh tế cần thiết, các
danh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời hạn chế, thu hẹp
những ngành nghề, những mặt hàng cần thiết phải hạn chế kể từ sản xuất đến
tiêu dùng xã hội theo định hướng của chiến lược phát triển kinh tế của Đảng,
Nhà nước có lợi cho quốc kế dân sinh.
"Khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế cạnh tranh và chống độc quyền không thể áp dụng một cơ chế tài
chính đồng nhất cho các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi

hiện nay (giữa các doanh nghiệp kinh doanh theo cơ chế thị trường và các
doanh nghiệp phục vụ các lợi ích công cộng) để điều tiết kinh tế - xã hội. Mặt
khác để chống độc quyền cần thiết phải có Luật về mặt tài chính cần phải sử
dụng công cụ thuế" [Trích Lê Thanh Huệ, trang 37].
Thuế góp phần khuyến khích việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường sinh thái đồng thời khuyến khích việc khai thác, sử dụng một
cách tiết kiệm có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, vật tư trong nước [8].
Bằng các quy định phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế,
Thuế không những khuyến khích được hoạt động xuất khẩu hàng hoá nội
địa, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển đồng thời thuế đã tạo điều kiện tốt cho
quan hệ hợp tác quốc tế trong khu vực và quốc tế. Mở rộng, phát triển đầu tư
hợp tác quốc tế thông qua chính sách khuyến khích đầu tư và xuất nhập khẩu [15].
∗∗∗
Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế
và góp phần thực hiện công bằng xã hội:
15
Hệ thống thuế mới bao gồm 9 sắc thuế được áp dụng thống nhất đối
với mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề và các tầng lớp dân cư. Các đối
tượng nộp thuế bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với việc nộp thuế, không
một ai có những đặc quyền đặc lợi riêng. Chính sách thuế không phân biệt,
ưu tiên hay hạn chế giữa các thành phần kinh tế. Mọi tổ chức, cá nhân đều
phải chịu sự điều chỉnh giống nhau của Pháp luật thuế [10].
Thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân bằng các sắc
thuế và các mức thuế suất khác nhau đối với từng lĩnh vực, từng mức thu
nhập Nhà nước thực hiện việc điều tiềt thu nhập giữa các thành phần kinh tế
và các cá nhân trong xã hội. Bằng cách đó, Nhà nước thu hẹp, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch quá mức về thu nhập giữa các bộ phận trong xã hội.
Người có thu nhập cao phải nộp thuế cao, người có thu nhập thấp nộp thuế
thu nhập ít [17].
Nhưng đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân sản

xuất kinh doanh giỏi, có hiệu quả bằng cách thừa nhận các khoản thu nhập
hợp pháp của họ.
Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, ý thức Pháp luật, tính tự giác
của số lớn các đối tượng nộp thuế chưa cao. Để đảm bảo sự công bằng về
nghĩa vụ nộp thuế thì một việc hết sức quan trọng là phải tăng cường công
tác quản lý thu thuế. Thông qua việc kiểm tra, thanh tra việc chấp hành Pháp
luật thuế phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm Pháp luật thuế. Từ
yêu cầu đó trong mọi luật thuế đều quy định rõ các biện pháp xử phạt, cưỡng
chế. Nhờ đó thuế đã góp phần tích cực trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Góp phần vào việc thực hiện
công bằng xã hội nói chung.
16
1.2. QUẢN LÝ THUẾ
1.2.1. Khái niệm
Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện
những quy định trong luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền
thuế vào ngân sách nhà nước theo luật định [7][20].
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế
+ Hệ thống chính sách, pháp luật thuế
Hệ thống chính sách, pháp luật thuế được áp dụng thống nhất đối với
mọi thành phần kinh tế phải đảm bảo được sự động viên đóng góp bình đẳng
và thực hiện công bằng xã hội. Hệ thống thuế phải thực sự khuyến khích mọi
thành phần kinh tế, mọi ngành nghề kinh doanh, các tổ chức và cá nhân bỏ
vốn, lao động, đầu tư trang thiết bị và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
cho sản xuất kinh doanh theo quỹ đạo của kế hoạch nhà nước [44], [23].
Hệ thống thuế mang tính chấp vá, chồng chéo, thiếu căn cứ kinh tế, có
thể vừa gây lạm thu, vừa gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Ngược
lại, hệ thống chính sách thuế khoa học, đơn giản, dễ hiểu và ổn định trong
thời gian dài tạo điều kiện nâng cao hiểu biết và nhận thức về nghĩa vụ công
dân đối với thuế, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của các tầng

lớp dân cư và tự giác chấp hành luật thuế, từ đó tác dụng thúc đẩy hạch toán
kinh tế, thực hiện nghiêm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ [31].
+ Tổ chức bộ máy quản lý thuế
Yếu tố này có vai trò quan trọng mang tính quyết định cho việc thực
thi chủ trương, chính sách, bảo đảm thắng lợi cho công cuộc cải cách thuế.
Hệ thống bộ máy quản lý thuế phải được kiện toàn, củng cố để có đủ điều
kiện thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của cả hệ thống thuế. Bộ
17
máy quản lý thuế phải thống nhất từ trung ương đến địa phương, bảo đảm
hiệu lực của cả hệ thống trong quá trình triển khai hệ thống chính sách thuế
mới [2], [29].
Phẩm chất cách mạng và năng lực toàn diện của các cán bộ quản lý
thuế phải được nâng cao về quan điểm, lập trường, đạo đức, về trình độ
nghiệp vụ thuế, về khả năng tổ chức quản lý, thông thạo về kế toán, kiểm
toán, có trình độ ngoại ngữ, biết sử dụng vi tính phù hợp với sự phát triển
của ngành và đáp ứng được yêu cầu quản lý ngày càng cao trong tình hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng đa dạng và phức tạp [41].
+ Quy trình quản lý thu nộp thuế
Đây chính là cơ chế vận hành hết sức quan trọng trong quá trình tổ
chức quản lý, hành thu. Cần thiết phải xây dựng một quy trình quản lý, thu
nộp thuế, quyết toán thuế chặt chẽ từ khâu quản lý đối tượng nộp thuế, lập
bộ thuế và thông báo thuế, tổ chức thu nộp qua hệ thống kho bạc, theo dõi
chấm bộ thuế, quyết toán và xử lý nợ đọng, xem xét miễn giảm thuế, báo cáo
cung cấp thông tin trong hệ thống.
Mỗi đối tượng quản lý thuế, chẳng hạn đối tượng thực hiện thu theo
phương pháp khấu trừ, phương pháp kê khai hay khoán thuế hoặc theo từng
sắc thuế như thuế nông nghiệp, thuế nhà đất,... đều phải xây dựng một quy
trình cụ thể, chặt chẽ theo nguyên tắc “khép kín”, có sự độc lập của từng
khâu, kiểm tra giám sát lẫn nhau [40].
+ Công tác tin học

Khối lượng công việc quản lý hành thu thuế là rất lớn, chi phí rất cao
và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu ngân sách nhà nước. Phương pháp
càng tiến bộ thì kết quả quản lý thu thuế càng cao. Do vậy, việc ứng dụng
công nghệ tin học là một khả năng tốt nhất có tác dụng mạnh trong việc đẩy
18
mạnh cải cách thuế và phát huy những tiến bộ của ngành thuế trong công tác
quản lý và hành thu thuế hiện nay [19], [20].
Đặc điểm của công tác quản lý thuế là phải quản lý trực tiếp đến từng
đối tượng nộp thuế theo nhiều loại sắc thuế với số lượng đối tượng nộp thuế
rất lớn mà theo quy định thì tất cả các chứng từ hoạt động kinh doanh, kê
khai nộp thuế, căn cứ tính thuế, thông báo thuế phải lưu giữ là nguyên tắc bắt
buộc. Do vậy, nếu làm bằng phương pháp thủ công thì sẽ cần rất nhiều nhân
lực và chi phí cao. Mặt khác, sự sai sót, chậm trễ trong việc tính thuế và cung
cấp thông tin để chỉ đạo hành thu sẽ có nhiều khả năng tạo ra kẽ hở để thất
thu thuế, tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế. Nếu ứng dụng tốt công tác
tin học sẽ tự động hoá các khâu công việc trên và theo một quy trình chặt chẽ
sẽ nâng cao tính pháp lý và hiệu quả sẽ rất tốt trong công tác quản lý hành
thu thuế hiện nay [40].
+ Công tác tuyên truyền chính sách thuế
Các chính sách chế độ, luật, pháp lệnh về thuế chỉ có thể thực thi một
cách đầy đủ, thống nhất khi công tác phổ biến giáo dục được triển khai sâu
rộng trong quảng đại quần chúng. Mọi tổ chức, cá nhân cần phải biết đầy đủ
các quy định, những việc phải làm và mức độ sẽ bị xử lý đối với từng hành
vi trốn lậu thuế, không chấp hành nghiêm việc kê khai, đăng ký thuế; vi
phạm về sử dụng hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán, dây dưa nợ đọng trốn
thuế. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế còn có ý
nghĩa nâng cao tính tự giác, ý thức về nghĩa vụ của công dân đối với nhà
nước và sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với việc thực thi các chính sách,
pháp luật về thuế, đảm bảo tính công khai, công bằng xã hội [40].
+ Sự phối hợp giữa các ban ngành chức năng

Thuế là một trong những chính sách lớn của Đảng, Nhà nước. Là công
cụ quan trọng để Nhà nước quản lý kinh tế, quản lý xã hội hay nói một cách
19
khác thuế là một phạm trù kinh tế - chính trị tổng hợp, do đó thực hiện chính
sách thuế không phải là công việc đơn phương của ngành thuế. Cần có sự
phối hợp với các đoàn thể và cơ quan có liên quan để triển khai đồng bộ việc
thi hành chính sách thuế với các chính sách khác và quản lý kinh tế- xã hội
trên địa bàn [11].
Cần phát huy chức năng của các toà án hành chính kinh tế trong việc
giải quyết các tranh chấp giữa cơ quan thuế và người nộp thuế bảo đảm tính
khách quan trong việc thực hiện đầy đủ các quy định về thuế của nhà nước [36].
+ Trình độ nhận thức và ý thức chấp hành luật thuế của nhân dân
Nhà nước đưa được công tác thuế vào quần chúng nhân dân là công
việc rất quan trọng góp phần phát huy tác dụng của chính sách thuế; nâng
cao tính pháp lý của hệ thống chính sách thuế; giáo dục tính tự giác về nghĩa
vụ nộp thuế và quyền lợi được hưởng về thuế, tạo điều kiện giúp thuế trở
thành công cụ mạnh mẽ trong trong điều khiển kinh tế quốc gia. Nếu trình độ
nhận thức và ý thức chấp hành thuế của quần chúng nhân dân cao sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế đồng thời qua sự phản hồi những
vấn đề bất hợp lý sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về
thuế [36].
Tóm lại, công tác quản lý thu thuế có nhiều nhân tố tác động, chúng ta
cần chú trọng đến những nhân tố cơ bản nhất, nhưng cũng không nên bỏ qua
những yếu tố khác về kinh tế-xã hội và tác động của môi trường.
1.2.3. Nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế
1.2.3.1. Tổ chức bộ máy
Để thực hiện công tác quản lý thu thuế, trước hết bộ máy quản lý thuế
phải được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, mỗi bộ phận có
chức năng riêng biệt, không chồng chéo đồng thời có sự phối hợp thống nhất
chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong công tác quản lý thu thuế.

20
- Bộ máy thu thuế nhà nước được tổ chức thống nhất, thành hệ thống
dọc từ Trung ương đến các Quận, Huyện. Ở Trung ương có Tổng Cục Thuế
thuộc Bộ Tài Chính. Ở Tỉnh, Thành Phố, Đặc khu trực thuộc trung ương có
Cục Thuế thuộc Tổng Cục Thuế đồng thời chịu sự chỉ đạo của UBND cùng
cấp. Ở các Huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có Chi cục thuế chịu sự
quản lý song trùng của Cục thuế và UBND huyện, thị cùng cấp. Các đội thuế
phường, xã trực thuộc chi cục quản lý và UBND phường, xã, thị trấn cùng
cấp [6][40].
1.2.3.2. Chức trách, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế các cấp
- Tổng Cục Thuế :
Đây là cơ quan thuế cao nhất trong hệ thống thu thuế nhà nước. Cơ
cấu gồm có: Các phòng chức năng và phòng nghiệp vụ được tổ chức theo
các sắc thuế. Tổng Cục Thuế có một số nhiệm vụ chủ yếu:
Một là, giúp Bộ Tài Chính soạn thảo các văn bản pháp qui về thuế và
các khoản thu khác trình cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành và tổ
chức thực hiện thống nhất các văn bản này trong cả nước. Tổng Cục thuế
cũng được quyền ban hành theo ủy quyền của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính các
văn bản về nghiệp vụ quản lý thu thuế và hướng dẫn cơ quan thuế cấp dưới
thực hiện thống nhất.
Hai là, hướng dẫn lập kế hoạch và tổng hợp kế hoạch thu thuế và thu
khác trình Bộ trưởng Bộ Tài Chính xem xét để trình các cơ quan có thẩm
quyền quyết định. Tổng Cục thuế xem xét giao chỉ tiêu thu thuế và thu khác
cho cơ quan thuế cấp dưới, hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới tổ chức thu thuế và
thu khác trên địa bàn và đảm bảo thu đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước.
Ba là, tổ chức thanh tra bộ máy thu thuế và các đối tượng nộp thuế; xử
lý vi phạm theo luật định [31].
21
- Cục Thuế
Về cơ cấu tổ chức cũng bao gồm một số phòng chức năng và phòng

nghiệp vụ. Cục Thuế có hai mặt nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các văn bản pháp qui về
thuế, quản lý công tác thu thuế và thu khác thống nhất trên địa bàn.
Hai là, trực tiếp thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Theo phân
cấp hiện nay về công tác thu thuế thì Cục thuế trực tiếp thu thuế đối với các
doanh nghiệp nhà nước trung ương đóng trên địa bàn, các doanh nghiệp nhà
nước do tỉnh quản lý, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngoài
quốc doanh thu theo phương pháp khấu trừ, lệ phí trước bạ và một số đơn vị
thu khác ngân sách [31].
- Chi Cục Thuế
Về cơ cấu tổ chức, Chi Cục Thuế gồm các tổ chuyên môn, nghiệp vụ
và các đội, tổ, trạm trực tiếp quản lý thu thuế. Chi cục Thuế có các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
+ Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, quý, tháng trên địa bàn.
+ Tham gia với các cơ quan chức năng xét duyệt đăng ký kinh doanh,
đăng ký nộp thuế. Trực tiếp quản lý đăng ký tính thuế của các đối tượng nộp
thuế do Chi cục quản lý.
+ Tổ chức các biện pháp thu thuế: tính thuế lập sổ thuế, thông báo số
thuế phải nộp; đôn đốc thực hiện đầy đủ, kịp thời mọi khoản thu vào Kho
bạc nhà nước; xem xét và đề nghị xét miễn, giảm thuế và các khoản thu khác
theo quy định của nhà nước; thực hiện thanh quyết toán kết quả thu thuế đến
từng hộ nộp thuế.
+ Tổ chức kiểm tra chống khai man lậu thuế; kiểm tra và xử lý các vi
phạm chính sách chế độ thuế; vi phạm kỷ luật trong nội bộ ngành thuế; giải
22
quyết các đơn khiếu nại theo thẩm quyền và theo sự ủy quyền của cơ quan
thuế cấp trên.
+ Tổ chức công tác thống kê, kế toán, thông tin báo cáo tình hình và
kết quả thu nộp thuế theo chế độ quy định.
+ Quản lý kinh phí chi tiêu, trang phục, ấn chỉ của bộ máy thuế ở

Quận, Huyện.
Năm 1992, ngành thuế tập trung sắp xếp lại bộ máy Chi Cục Thuế
theo chỉ thị 238 của Chính Phủ và thông tư số 64 của Bộ Tài Chính về việc
thành lập các đội thuế Xã - Phường gắn với chính quyền cơ sở. Đồng thời
thực hiện qui trình thu thuế tách 3 bộ phận độc lập nhau : Bộ phận quản lý và
đôn đốc thu nộp, bộ phận tính thuế lập bộ và bộ phận kiểm tra thanh tra.
Việc gắn đội thuế phường, xã với chính quyền cơ sở đã có tác dụng
tích cực trong việc điều tra lập bộ quản lý nguồn thu đầy đủ, sát thực tế và tổ
chức hành thu kịp thời; chống thất thu về doanh số và số đối tượng nộp thuế;
góp phần thực hiện sự công bằng hợp lý về mức thuế của các đối tượng nộp
thuế, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền và cơ quan thuế địa
phương, đề cao trách nhiệm của chính quyền cơ sở đối với công tác thuế, vì
vậy chất lượng và hiệu quả quản lý thu thuế đã được nâng lên rõ rệt [23][31].
1.2.4. Nhiệm vụ cơ bản của công tác quản lý thuế
Nhiệm vụ của công tác quản lý thuế là làm thế nào để quản lý tốt đối
tượng nộp thuế, quản lý đối tượng tính thuế, tính thuế đúng và nộp thuế vào
ngân sách nhà nước kịp thời, đúng quy định.
1.2.4.1. Quản lý đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế là cá nhân, đơn vị, tổ chức có thu nhập có nhiệm
vụ chuyển giao một bộ phận thu nhập của mình cho nhà nước thông qua việc
23
đóng thuế. Đối tưọng nộp thuế thưòng rất đông và đa dạng do đó công tác
quản lý ĐTNT cũng phải tuỳ theo đặc điểm của đối tượng để quản lý. Trong
quản lý đối tượng nộp thuế, yêu cầu phải tổ chức lực lượng cán bộ trực tiếp
hợp lý, nhất là đội thuế phường xã, số lượng đối tượng nộp thuế và các
ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để bố trí cán bộ phù hợp, có khả
năng quản lý bao quát đến thôn, tổ dân phố, đường phố. Trách nhiệm của cán
bộ thuế phải nắm chắc tất cả các tổ chức, cá nhân đang hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn theo từng ngành nghề, quy mô kinh doanh,
quan trọng là theo dõi cho được các biến động của các đối tượng kinh doanh:

cơ sở mới phát sinh, đang tạm nghỉ, nghỉ hẳn, tái hoạt động, kinh doanh vãng
lai, các hoạt động kinh doanh ngầm, các đối tượng xin nghỉ nhưng thực chất
vẫn kinh doanh trốn thuế, kinh doanh không đúng ngành nghề theo giấy
phép, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại... Đây là khâu cơ bản trong
công tác quản lý thu thuế.
Hệ thống cấp mã số thuế của ngành thuế ra đời góp phần tích cực vào
công tác quản lý thu thuế của ngành. Mã số thuế là nhân tố cơ bản để ngành
thuế thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế, quản lý chặt chẽ các
đối tượng nộp thuế trên địa bàn toàn quốc và thực hiện đối chiếu chéo các
hoạt động kinh doanh giữa các đối tượng nộp thuế nhằm phát hiện các
trường hợp kê khai sai để trốn lậu thuế hoặc đề nghị hoàn thuế sai. Mặt khác,
hệ thống mã số thuế còn được sử dụng khai thác phục vụ cho công tác quản
lý nhà nước [39],[43], [16].
1.2.4.2. Quản lý đối tượng tính thuế
Theo [1], [11] thì trong giai đoạn hiện nay, quản lý đối tượng tính thuế
thật sự là một vấn đề khó khăn. Để thực hiện tốt khâu quản lý này đòi hỏi
phải có các điều kiện sau:
24
+ Về phía quản lý nhà nước phải xây dựng các định mức (sản lượng,
giá tính thuế, tỷ lệ động viên, mức thuế suất...) sát hợp theo từng ngành nghề,
quy mô kinh doanh và điều kiện kinh doanh của từng địa phương, từng vùng
kinh tế có tính chất hướng dẫn kinh doanh đồng thời giúp công tác quản lý
kinh tế của nhà nước chặt chẽ hơn.
+ Các tổ chức cá nhân kinh doanh phải chấp hành tốt pháp lệnh kế
toán-thống kê, thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán và hạch toán kinh tế đầy đủ.
+ Trong hoạt động kinh doanh phải thực hiện tốt chế độ hoá đơn,
chứng từ hợp pháp.
+ Cán bộ thuế phải có trình độ nghiệp vụ giỏi, đồng thời phải am hiểu
về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của đối tượng nộp thuế để theo
dõi quản lý chuẩn xác.

+ Mọi sự vi phạm phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Các vấn đề trên tuy rằg pháp luật đều có quy định, nhưng thực chất sự
chấp hành của các tổ chức, cá nhân kinh doanh chưa thật nghiêm túc: đối với
doanh nghiệp nhà nước thì thực hiện khá chặt chẽ, nhưng đối với khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh thì quá trình kinh doanh gắn với lợi ích cá nhân
nên rất khó quản lý được doanh số tính thuế một cách đầy đủ [31][39].
1.2.4.3. Công tác tính thuế
Nếu quản lý tốt đối tượng nộp thuế, xác định đúng đối tượng tính thuế
thì tính thuế sẽ dễ dàng. Tuy nhiên việc xác định đối tượng tính thuế rất phức
tạp, việc tính thuế, lập sổ thuế, tính thuế nợ, tính phạt, miễn giảm thuế,... là
công việc rất tốn nhiều công sức và rất dễ nhầm lẫn, gây thất thu thuế hoặc
không công bằng trong đối tượng nộp thuế. Cần phải cải tiến phương pháp
tính thuế thủ công sang tự động hoá bằng máy vi tính và cập nhật kịp thời
25

×