BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
-------------------------
VŨ TIẾN ĐẠT
VŨ TIẾN ĐẠT
AN NINH DẦU MỎ TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1995 ĐẾN NAY
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 9 31 02 06
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Hà Nội, năm 2019
Công trình được hoàn thành tại
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đỗ Sơn Hải – Học viện Ngoại giao
2. PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn - Học viện Ngoại giao
Phản biện 1: ……………………………………
…………………………………………………
Phản biện 2: …………………………………....
……………………………………….................
Phản biện 3:……………………………………
…………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án họp
vào hồi giờ ngày
tháng
năm
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:Tện Học viện Ngoại giao
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An ninh dầu mỏ là một bộ phận cấu thành của an ninh năng
lượng quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên dầu mỏ đã trở thành
một loại hàng hóa đặc biệt không thể thiếu trong cuộc sống của nhân
loại. Ứng dụng của dầu mỏ đã đặt nền tảng sự phát triển của nền kinh
tế thế giới. Một mặt, nó làm cho cuộc sống của nhân loại ngày càng
thay đổi, mặt khác con người cũng ngày càng phụ thuộc và trở nên
không thể tách rời khỏi dầu mỏ. Trong các mối quan hệ quốc tế
hiện đại, dầu mỏ trở thành nguyên nhân của những cuộc đối kháng,
xung đột, thậm chí cả chiến tranh để tranh giành ảnh hưởng và
khống chế nguồn dầu mỏ. Nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra trên thế
giới mà nguyên nhân sâu xa cũng bắt nguồn từ dầu mỏ. Thế giới đã
chứng kiến sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc như Mỹ,
Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ… trong nỗ lực tìm kiếm và
khống chế nguồn dầu mỏ trên thế giới.
Trong những năm gần đây, chủ đề an ninh năng lượng, đặc biệt
là an ninh dầu mỏ luôn trở thành vấn đề được đặt lên hàng đầu trong
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, cũng như trên các diễn đàn
toàn cầu. Mặc dù khoa học công nghệ đã phát triển vượt bậc và ngày
càng có nhiều nguồn năng lượng mới được sử dụng như năng lượng
gió, năng lượng mặt trời... Tuy nhiên, dầu mỏ vẫn là một trong những
nguồn năng lượng chủ đạo, có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống thế
giới trong nhiều năm tới, đặc biệt trong viễn cảnh một ngày không
xa, nguồn dầu mỏ được ví như “vàng đen” của nhân loại sẽ dần cạn
kiệt trong tương lai. Đối với các quốc gia trên thế giới, tốc độ phát
triển càng cao thì yêu cầu về đảm bảo an ninh dầu mỏ cho nền kinh tế
càng lớn và trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam kể từ khi mở cửa nền
kinh tế từ năm 1986 đến nay đã thu được những kết quả quan trọng,
mang lại nhiều đổi thay tích cực cho nền kinh tế và vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Sau hơn ba mươi năm đổi mới, đất Việt Nam
2
về cơ bản đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm
đầu mở cửa. Tăng trưởng kinh tế trong những năm qua luôn đạt mức
cao, ổn định, cơ cấu nền kinh tế được chuyển đổi theo hướng CNH HĐH với sự gia tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp. Để đạt
được điều nói trên thì việc đảm bảo nhu cầu về dầu mỏ để phục vụ cho
sự nghiệp CNH - HĐH luôn được nhà Việt Nam coi trọng và mang
tính chiến lược quốc gia trong bối cảnh mà nhu cầu sử dụng các sản
phẩm có nguồn gốc dầu mỏ không ngừng tăng nhanh.
Về lý luận, mặc dù đã có một số nghiên cứu quốc tế và Việt
Nam đề cập đến an ninh dầu mỏ, an ninh năng lượng như một bộ
phận của vấn đề an ninh phi truyền thống, nhưng những nghiên cứu
đi sâu vào phân tích nội hàm và nội dung của đảm bảo an ninh dầu
mỏ trong bối cảnh hội nhập còn thiếu vắng. Về thực tiễn, đối với Việt
Nam, nhận thức về các thách thức của an ninh dầu mỏ trong quá trình
hội nhập quốc tế còn có bất cập, chưa đầy đủ và chưa theo kịp những
diễn biến nhanh chóng của tình hình. Do đó, việc tìm ra các giải
pháp, đặc biệt là các giải pháp về mặt chính sách nhằm đảm bảo an
ninh dầu mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế, góp phần vào sự ổn
định an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế xã hội là yêu
cầu cấp thiết, khách quan đặt ra trong bối cảnh Việt Nam đang phát
triển và hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu như hiện nay. Xuất
phát từ những lý do trên và căn cứ vào đặc thù công tác của bản thân,
nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “An ninh dầu mỏ trong tiến trình
hội nhập quốc tế của Việt Nam từ năm 1995 đến nay” cho luận án
Tiến sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Tính đến nay, số lượng các bài nghiên cứu quốc tế về an ninh
năng lượng vô cùng đa dạng và phong phú, tuy nhiên số lượng các
bài viết về an ninh dầu mỏ còn rất hạn chế. Đa phần các bài viết về
an ninh dầu mỏ chỉ xem dầu mỏ như là một nhân tố cấu thành của an
ninh năng lượng nói chung và phân tích trong tổng thể về an ninh
3
năng lượng, chứ không có sự đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa an
ninh dầu mỏ với hội nhập quốc tế. Trước tiên, có thể kể đến công
trình nghiên cứu của một số tác giả điển hình như sau:
+ Công trình nghiên cứu của Hillard G. Huntington (2008)
“The Oil Security Problem” sử dụng công cụ phân tích kỹ thuật đề
đánh giá mức ảnh hưởng của giá dầu liên quan đến chính trị, các
chính sách xã hội và nền kinh tế.
+ Công trình nghiên cứu của Christopher Dula (2015) “The
Futureof PetroleumSecurityin ASEAN” đăng trên tạp chí Asian
Management Insights số 02 năm 2015. Tác giả đã đi vào phân tích sự
thay đổi trong nhu cầu dầu mỏ của các nước Châu Á trong những
năm qua đang tăng lên nhanh
+ Công trình nghiên cứu của E.G. Frankel (2008) “Oil and
Security: A World beyond Petroleum” cung cấp một sự đánh giá toàn
diện về các nhân tố kinh tế xã hội, chính trị, môi trường ảnh hưởng
đến việc sử dụng và phát triển của năng lượng toàn cầu.
+ Công trình nghiên cứu của Bo Kong (2009) “China’s
International Petroleum Policy” tập trung vào xem xét: cách thức
quản lý dầu mỏ của Trung Quốc, chính sách ngoại giao và chính sách
quốc tế liên quan đến dầu mỏ của Trung Quốc.
Ngoài ra, những bài viết nghiên cứu chung về an ninh năng
lượng, nhiều học giả đã xuất bản những công tình nghiên cứu về vấn
đề này tại một số quốc gia và khu vực cụ thể. Có thể kể đến công
trình nghiên cứu của Lauran Steveny về An ninh năng lượng tại Châu
Âu và công trình nghiên cứu Năng lượng và an ninh: Lý thuyết và
thực tiễn ở Mỹ và Trung Quốc. Các bài viết về cơ bản đã nêu bật
được thực trạng tình hình an ninh năng lượng chung và an ninh dầu
mỏ nói riêng, đưa ra một khung phân tích lý thuyết hoàn chỉnh.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, thời gian qua đã có một số công trình
nghiên cứu liên quan tới lĩnh vực dầu mỏ nhưng chưa thực sự phong
phú mà mới chỉ tập trung vào một số đề tài như:
4
+ Cuốn sách “Cuộc khủng hoảng giá dầu hiện nay: Xu hướng,
nguyên nhân tác động và giải pháp” của PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật năm 2016 đã khắc họa rõ
nét diễn biến thực trạng tình hình dầu mỏ toàn cầu từ năm 1973 đến
nay; phân tích nguyên nhân và hậu quả của cuộc khủng hoảng giá dầu
giảm hiện nay, xu hướng tình hình dầu mỏ đến năm 2020.
+ Luận án Tiến sĩ: “Đảm bảo nhu cầu năng lượng dầu khí cho
sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế” của
Tiến sĩ Nguyễn Trung Hiếu, trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh đã nghiên cứu hai vấn đề chính đó là: (i) xây dựng và lựa chọn
mô hình để dự báo nhu cầu sử dụng dầu mỏ ở Việt Nam; (ii) phân tích
thực trạng cung - cầu dầu mỏ ở Việt Nam trong những năm qua kết
hợp với kết quả dự báo cung - cầu để đưa ra các giải pháp thực hiện
nhằm đảm bảo nhu cầu dầu mỏ cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
+ Luận án Tiến sĩ kinh tế của Tiến sĩ Đinh Văn Sơn với đề
tài:“Nghiên cứu về phát triển bền vững ngành dầu khí Việt Nam” đã
đi sâu phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về phát triển bền
vững trên ba trụ cột kinh tế, xã hội, môi trường nói chung và phát
triển bền vững của ngành dầu mỏ trong điều kiện thực tế của Việt
Nam nói riêng
+ Luận văn Thạc sĩ:“Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào hoạt động thăm dò khai thác dầu mỏ ở Việt Nam” của
Thạc sĩ Nguyễn Thị Tám đã hệ thống hóa lý luận về đầu tư trực tiếp
nước ngoài, từ những kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) của một số nước trên thế giới từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
+ Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành quan hệ quốc tế của tác giả
Nguyễn Thị Việt Nga thực hiện ở trường Học viện Ngoại giao tháng 7
năm 2010 với đề tài “Chính sách an ninh năng lượng của Việt Nam và
ảnh hưởng của nó đến sự phát triển của ngành dầu khí”, luận văn đánh
giá tầm quan trọng của an ninh năng lượng, trong đó vấn đề cốt lõi là an
ninh dầu mỏ của các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
5
+ Cuốn sách: “An ninh quốc gia - Những vấn đề an ninh phi
truyền thống” của GS.TS Tạ Ngọc Tấn, Nhà xuất bản Chính trị Hành chính, năm 2013, trong công trình tác giả đã nghiên cứu về an
ninh quốc gia không chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự, ngoại giao
(an ninh truyền thống) mà gồm cả an ninh kinh tế, tài chính, xã hội,
sinh thái, nhân văn, lương thực, năng lượng, dầu mỏ…và nhiều vấn
đề khác (an ninh phi truyền thống.
+ Bài viết: “Một số nguyên nhân mất ổn định an ninh năng
lượng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” của Thạc sĩ Đinh
Thị Xuân Tươi cho thấy: Năng lượng nói chung và dầu mỏ nói riêng
có một vai trò hết sức quan trọng, nó không chỉ cải thiện chất lượng
cuộc sống mà còn làm cho kinh tế và xã hội phát triển.
+ Bài viết: “Chính sách an ninh năng lượng của Trung Quốc
đầu thế ký XXI và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông” của
Tiến sĩ Nguyễn Minh Mẫn đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 46 năm 2013, bài viết đã tập trung
nghiên cứu và phân tích về việc đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn
định với giá cả hợp lý, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chiến lược
năng lượng quốc gia và chính sách an ninh năng lượng với các mục
đích và biện pháp thực hiện cụ thể nhằm đảm bảo an ninh năng lượng
cho quốc gia.
Đối với Việt Nam, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu
nào phân tích sâu sắc, toàn diện về khía cạnh và nội dung của việc
đảm bảo an ninh dầu mỏ trong tiến trình hội nhập quốc tế. Do vậy,
nghiên cứu này sẽ phân tích thực trạng, đánh giá kết quả của công tác
đảm bảo an ninh dầu mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam giai đoạn từ năm 1995 - 2017, từ đó có các đề xuất, giải pháp
nhằm giải quyết tốt hơn trong việc đảm bảo an ninh dầu mỏ của Việt
Nam cho giai đoạn hội nhập quốc tế tiếp theo. Luận án sẽ tiếp thu, kế
thừa kết quả của các công trình trước, vận dụng và phát triển các ý
tưởng trong nghiên cứu, phục vụ cho việc làm rõ các vấn đề mà luận
án cần tiếp tục giải quyết. Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn
6
đề tài luận án tiến sĩ “An ninh dầu mỏ trong tiến trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam từ năm 1995 đến nay” để nghiên cứu là hoàn
toàn mới, có ý nghĩa khoa học, có giá trị thực tiễn cao và phù hợp với
bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án phân tích thực trạng đảm bảo an ninh dầu mỏ của Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, cũng như đưa ra các
giải pháp nhằm đảm bảo an ninh dầu mỏ trong giai đoạn hội nhập
quốc tế tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ hơn cơ sở lý thuyết và thực tiễn về đảm bảo an ninh
dầu mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Phân tích vai trò của an ninh dầu mỏ đối với Việt Nam trong
tiến trình hội nhập quốc tế.
- Đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo an ninh dầu mỏ trong giai
đoạn Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
4. Đối tƣợng và phạmvi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
Nghiên cứu tại Việt Nam có kết hợp khảo cứu kinh nghiệm của
một số nước trong khu vực và trên thế giới.
Về thời gian:
Nghiên cứu tập trung vào giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2017, là
giai đoạn hội nhập quốc tế của Việt Nam diễn ra sôi động, có nhiều
dấu mốc hội nhập quan trọng, trong đó có sự kiện Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của ASEAN vào ngày 28/07/1995, bình thường
hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ tháng 7/1995… Đồng thời, đây cũng là
giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam và khu vực có nhiều biến động
7
thăng trầm, trong đó phải kể đến cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở
Châu Á năm 1997, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, mà còn tác động trực tiếp đến lĩnh vực khai thác dầu
mỏ, cũng như vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Về nội dung:
An ninh dầu mỏ là một khái niệm tương đối rộng và phức tạp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án này, an ninh dầu mỏ được
xem xét ở cấp độ vĩ mô, có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng
lượng quốc gia.
Trong khuôn khổ của luận án này, tác giả tập trung phân tích về
vấn đề an ninh dầu mỏ dưới góc về quan hệ quốc tế, làm nổi bật vai trò
của việc đảm bảo an ninh dầu mỏ góp phần phát triển kinh tế - xã hội
đất nước cũng như giữ vững chủ quyền, lãnh thổ quốc gia trên biển
trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.
Về nội dung đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó
bao gồm các lĩnh vực như khí đốt, điện năng... Nhưng do hạn chế về
dung lượng trong khuôn khổ của luận án, cũng như tài liệu tham khảo
tiếp cận được, nên tác giả chỉ lựa chọn phân tích trong giới hạn về
khía cạnh đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế để phục vụ cho luận án nghiên cứu của mình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, cũng như kết hợp cách tiếp cận hệ thống, phương pháp nghiên
cứu đa ngành của khoa học xã hội và nhân văn như lịch sử, chính trị
học, quan hệ quốc tế... Ngoài ra, để thực hiện nội dung của luận án,
tác giả còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương
pháp dự báo. Đặc biệt, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
trường hợp (case study) để phân tích những trường hợp tiêu biểu
phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án.
8
Nguồn tài liệu chính được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài được tham khảo từ các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII năm 1991 đến nay, các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ về
chủ trương hội nhập quốc tế, cũng như các văn bản về Chiến lược
phát triển Ngành dầu khí Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, luận án sử
dụng tài liệu, bài viết của nhiều tác giả về lĩnh vực an ninh năng
lượng, an ninh dầu mỏ đăng trên một số tạp chí có uy tín trong và
ngoài nước, một số công trình nghiên cứu về hội nhập quốc tế liên
quan tới lĩnh vực năng lượng và vấn đề an ninh dầu mỏ của một số cơ
quan quản lý nhà nước ở Việt Nam như Bộ Ngoại giao, Bộ Công
Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Năng lượng, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Ngoại giao Việt Nam, Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam.... Và sử dụng các nguồn thông tin tin cậy,
chính thống từ các trang website của các Tổ chức, các Viện nghiên
cứu có uy tín, hoặc số liệu được các hãng thông tấn báo chí lớn đã
công bố. Cuối cùng luận án cũng khai thác nguồn tài liệu phỏng vấn
các chuyên gia về lĩnh vực kinh tế dầu khí, các nhà ngoại giao, học
giả trong, ngoài nước.
6. Những đóng góp của Luận án
- Luận án bổ sung và làm mới một số khía cạnh lý luận về đảm
bảo an ninh dầu mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế cấp độ quốc gia,
làm rõ hơn những vấn đề về an ninh dầu mỏ dưới góc độ kinh tế quốc
tế và quan hệ quốc tế, cụ thể là:
(i) làm rõ hơn nội hàm của khái niệm an ninh dầu mỏ, chỉ ra mối
quan hệ đan xen giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế trong việc đảm
bảo an ninh dầu mỏ trong nước;
(ii) phân tích nội dung, các yếu tố ảnh hưởng tới công tác đảm
bảo an ninh dầu mỏ của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
- Luận án phân tích kinh nghiệm công tác đảm bảo an ninh dầu
mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế của một số quốc gia và bài học
rút ra cho Việt Nam, trong đó quan trọng nhất là bài học về xây dựng
chiến lược phát triển ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ của Việt
9
Nam phù hợp với yêu cầu của hội nhập để giữ được trạng thái ổn
định cho nền kinh tế và là nền tảng quan trọng trong việc đảm bảo
chiến lược an ninh năng lượng quốc gia.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng đảm bảo an ninh dầu mỏ
trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2017,
luận án khẳng định một số thành tựu quan trọng của Việt Nam đồng
thời chỉ ra những hạn chế và phân tích rõ để xác định nguyên nhân.
- Luận án đã nêu lên một số quan điểm cơ bản của về đảm bảo
an ninh dầu mỏ trong quá trình hội nhập, trong đó nhấn mạnh đảm
bảo an ninh dầu mỏ phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và
khai thác tốt ngoại lực trong bối cảnh hội nhập; từ đó đề xuất các
nhóm giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đảm bảo an ninh dầu mỏ cho
quá trình hội nhập của Việt Nam trong bối cảnh mới của hội nhập
kinh tế quốc tế đến năm 2030.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục. Phần nội dung gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương 2: Vai trò và thực trạng của an ninh dầu mỏ đối
với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Chương 3: Giải pháp đảm bảo an ninh dầu mỏ của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế tới năm 2030
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về an ninh và an ninh dầu mỏ
1.1.1. Khái niệm về an ninh
An ninh là một khái niệm cơ bản thường được sử dụng trong
ngôn ngữ và thực tiễn chính trị quốc tế. An ninh là nhu cầu đầu tiên,
thiết yếu của mỗi con người, mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Đồng
thời, an ninh cũng là điều kiện cơ bản và quan trọng số một để đảm
10
bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa
chung nhất của ngôn ngữ chính trị quốc tế, “An ninh” là khái niệm
dùng để chỉ “trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy
hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của
từng tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã
hội”. Trong giai đoạn hiện nay, an ninh được chia thành hai loại đó là
“an ninh truyền thống” và “an ninh phi truyền thống”.
An ninh truyền thống (ANTT): Là khái niệm đã có từ thời chiến
tranh lạnh, đồng nghĩa với khái niệm an ninh quốc gia, đề cập tới an
ninh quốc gia cũng chính là an ninh truyền thống. Nội dung cơ bản
của an ninh quốc gia là bảo vệ lợi ích của đất nước, loại trừ những
nguy cơ đe doạ đối với lợi ích cơ bản đó.
An ninh phi truyền thống (ANPTT): Xuất hiện khá lâu sau khái
niệm ANTT. Từ năm 90 thế kỷ XX, tức là sau khi chiến tranh lạnh
kết thúc, các học giả trên thế giới mới đề xuất khái niệm này. Từ đó
đến nay, ANPTT trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia, dân
tộc trên toàn thế giới, là một trong những chủ đề quan trọng được các
nhà khoa học nghiên cứu và là vấn đề nóng hổi được bàn luận trên
nhiều diễn đàn khu vực, quốc tế, cũng như trong nhiều nội dung của
các quan hệ song phương và đa phương.
1.1.2. Khái niệm về dầu mỏ và an ninh dầu mỏ
Khái niệm cơ bản về dầu mỏ: Theo Luật Dầu khí Việt Nam
(1993) “Dầu khí” bao gồm dầu mỏ, khí đốt và hydrocarbon ở thể khí,
lỏng hoặc rắn trong trạng thái tự nhiên nhưng không kể than, đá
phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được
dầu. “Hoạt động dầu mỏ” là hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển
và khai thác dầu mỏ, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các
hoạt động này.
“An ninh dầu mỏ là quá trình đảm bảo khả năng cung ứng
dầu mỏ với một mức giá hợp lý theo phương thức bền vững. Mức giá
hợp lý trong định nghĩa này có hàm ý phải dựa vào chức năng cơ bản
của thị trường (do thị trường xác định giá) có tính đến nhu cầu
11
không thể thay thế và nguồn cung của các nước khác nhau trong mối
liên hệ với những vấn đề như quan hệ nhà nước và xã hội, chi phí
môi trường và điều tiết thị trường”.
Ngày nay, thế giới khi nói đến an ninh năng lượng thì mọi người
thường gắn liền với vấn đề an ninh dầu mỏ, bởi dầu mỏ đã dần thay
thế than đá để thành nguồn năng lượng chủ yếu của nhân loại. Cơ
quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đưa ra khái niệm về đảm bảo an
ninh năng lượng với trọng tâm là ổn định nguồn cung và giá dầu mỏ.
1.2. Tình hình an ninh dầu mỏ thế giới trƣớc thập kỷ 1990
Vào những năm của thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, nhu
cầu về năng lượng của các quốc gia nhìn chung được bảo đảm tương
đối ổn định thông qua thị trường. Song có một thực tế là các sản
phẩm công nghiệp chế biến luôn có giá so sánh cao hơn giá nguyên
nhiên liệu trên thị trường, vì vậy các nước phát triển luôn có lợi thế
và giành được nguồn lợi từ chính tình trạng này. Với sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào độc lập dân tộc, việc khai thác thuộc địa trở
nên khó khăn, việc tranh chấp các nguồn tài nguyên ngày càng quyết
liệt. Mặc dù các quốc gia đã có sự điều chỉnh trong cơ cấu kinh tế,
song cùng với sự gia tăng về tổng lượng kinh tế, mức tiêu dùng dầu
mỏ của nhân loại tăng lên nhanh chóng trong những thập niên vừa
qua. Kể từ những năm 1990 đến nay, mỗi năm bình quân một người
tiêu thụ khoảng 1,6 tấn dầu mỏ quy đổi.
Nhận thức được tầm quan trọng của dầu mỏ đối trong việc đảm
bảo an ninh năng lượng quốc gia, nên hầu hết các nước đều xây dựng
cho mình một chiến lược về an ninh dầu mỏ phù hợp, lâu dài và coi
đó là một khía cạnh của an ninh quốc gia. Từ đó đã xuất hiện một xu
thế mới trong quan hệ quốc tế hiện đại, đó là “ngoại giao dầu mỏ”
hay “ngoại giao năng lượng,” đây được xem là một kim chỉ nam
trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát
từ nhu cầu sử dụng dầu mỏ thực tế, cũng như nội lực trong nước, mỗi
quốc gia sẽ lựa chọn hướng đi và cách thức phù hợp để thực thi chính
sách ngoại giao dầu mỏ của mình.
12
1.3. Tầm quan trọng của an ninh dầu mỏ trong đời sống quốc tế
1.3.1. Vấn đề dầu mỏ trên thế giới hiện nay
Đây là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với nhiều quốc gia trên
thế giới, bởi nó không chỉ liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà còn làm
đảo lộn nhiều mối tương quan chiến lược, gây ra những biến động
mới trong đời sống quan hệ quốc tế. Sự khan hiếm nguồn năng lượng
hóa thạch này, cùng với sự phân bố không đồng đều của chúng là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều cuộc xung đột,
chiến tranh liên quan đến tranh chấp các nguồn dầu mỏ, tác động trực
tiếp đến sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước xoay
quanh bài toán an ninh năng lượng quốc gia, cũng như nguồn lợi
nhuận do dầu mỏ đem lại. Trong xu hướng toàn cầu hoá ngày nay,
dầu mỏ đã dần trở thành yếu tố hàng đầu quyết định sự đến sự ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
1.3.2. Sự cạnh tranh về dầu mỏ trong quan hệ quốc tế
Nhu cầu cấp thiết về dầu mỏ đã tác động mạnh mẽ đến quan hệ
quốc tế, làm thay đổi quan niệm về chính sách đối ngoại và các mối
quan hệ giữa các quốc gia. Các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Trung
Quốc, Nga, Nhật Bản, EU… đều tìm cách nắm giữ hoặc gây ảnh
hưởng tối đa tại những khu vực giàu trữ lượng dầu mỏ lớn như Trung
Đông, Trung Á, Bắc Phi, Đông Nam Á… Cuộc chạy đua tranh giành
ảnh hưởng ở các khu vực này, cũng như tham vọng độc chiếm được
nguồn dầu mỏ ở đây là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến
một số cuộc chiến tranh, bất ổn về chính trị ở những quốc gia dầu mỏ
trong thời gian gần đây, đồng thời tác động tới đời sống quan hệ quốc
tế ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp đan xen lẫn nhau, nhất là khi lợi
ích quốc gia luôn được đặt lên hàng đầu.
1.3.3. An ninh dầu mỏ trong chính sách đối ngoại của các quốc gia
Dầu mỏ từ lâu đã là tâm điểm của các chính sách đối ngoại, thậm
chí là nguyên nhân của cuộc xung đột và chiến tranh. Giờ đây, khi nguy
cơ cạn kiệt các nguồn dầu mỏ có thể trở thành hiện thực sau vài chục
năm nữa, các cuộc săn lùng thứ nhiên liệu quý từ lòng đất này gần đây
13
đang được tiến hành gắt gao hơn bao giờ hết. Điều này làm gia tăng sự
cạnh tranh vốn đã quyết liệt giữa các nước phụ thuộc lớn vào dầu mỏ,
nay dần hình thành nên các mối quan hệ phụ thuộc đan xen lẫn nhau,
báo hiệu sẽ có những va chạm về lợi ích giữa các quốc gia.
Với vai trò không thể phủ nhận, dầu mỏ được xem là có những
tác động không nhỏ đến các mối quan hệ quốc tế và bàn cờ chính trị
thế giới, vì vậy mỗi quốc gia cần hoạch định, xây dựng chính sách về
an ninh dầu mỏ cho phù hợp xu thế của thời đại.
CHƢƠNG 2 : VAI TRÒ VÀ THỰC TRẠNG CỦA
AN NINH DẦU MỎ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. Hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế của ngành công nghiệp
dầu mỏ
2.1.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội
nhập quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ nguyên tắc cơ bản và
bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN,
bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập
nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức
đặt ra của quá trình hội nhập, chủ động lựa chọn các tổ chức tham
gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập,
xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung,
chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội
nhập. Đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự
kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà
bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển quan
hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam còn nêu
rõ bốn nguyên tắc cụ thể:
14
(i) tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
(ii) không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực
(iii) giải quyết các bất đồng, tranh chấp thông qua thương
lượng hoà bình
(iv) tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
2.1.2. Hội nhập quốc tế của ngành công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam
Với việc Việt Nam gia nhập các nước ASEAN vào ngày
28/07/1995, sự kiện này được xem như là dấu mốc quan trọng ghi
nhận Việt Nam chính thức hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Song, nếu hiểu hội nhập quốc tế là một quá trình mà các quốc
gia tiến hành những hoạt động tăng cường, củng cố sự hợp tác, gắn
bó với nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu
vực dựa trên việc chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, nguồn lực, giá trị… thì
có thể thấy được trong những thập kỷ vừa qua, ngành công nghiệp
khai thác dầu mỏ Việt Nam đã có những bước đi tiên phong trong
tiến trình hội nhập quốc tế từ rất sớm, thông qua việc Việt Nam và
Liên Xô ký kết việc thành lập Liên doanh dầu khí Việt - Xô (nay là
Liên doanh dầu khí Việt - Nga) vào ngày 19 tháng 11 năm 1981.
Đối với chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong
lĩnh vực TDKT cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, những
tấn dầu mỏ được khai thác từ nước ngoài đã đóng góp vào việc gia
tăng trữ lượng và sản lượng khai thác góp phần đảm bảo an ninh dầu
mỏ quốc gia và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, từng bước khẳng
định được vị thế của ngành công nghiệp dầu mỏ Việt Nam trên
trường quốc tế.
Hội nhập quốc tế về lĩnh vực dầu mỏ đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam quan tâm từ lâu thông qua chủ trương đẩy mạnh hợp tác
quốc tế với nhiều đối tác chiến lược để tận dụng các nguồn lực từ bên
ngoài, cũng như học tập kinh nghiệm từ các quốc gia có nền công
nghiệp dầu mỏ tiên tiến đi trước để sớm xây dựng và phát triển ngành
công nghiệp khai thác dầu mỏ trong nước hiện đại, phù hợp với xu
thế hội nhập quốc tế, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu mỏ
15
trong nước kết hợp với đẩy mạnh việc khai thác dầu mỏ ở nước ngoài
một cách hợp lý, góp phần đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia trong
bối cảnh Việt Nam tăng cường liên kết kinh tế khu vực và thế giới,
đồng thời gắn liền với giữ vững chủ quyền quốc gia, lãnh thổ.
2.1.3. Tác động của hội nhập quốc tế đến an ninh dầu mỏ của
Việt Nam
Tiến trình hội nhập quốc tế đem đến nhiều cơ hội và thách thức
cho mỗi quốc gia, đó là tiếp thu những thành tự về khoa học - công
nghệ, kỹ năng quản lý và quản trị nguồn nhân lực để có khả năng
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh khi
tham gia hội nhập quốc tế. Việt Nam là quốc gia cũng không nằm ngoài
các yêu cầu thực tế nói trên trong việc triển khai các chính sách về an
ninh dầu mỏ, đồng thời phải ứng phó với các tình huống khủng hoảng,
rủi ro do hội nhập mang đến. Mặc dù là nước đi sau nhiều quốc gia
trên thế giới trong ngành công khai thác dầu mỏ, nhưng Việt Nam có
lợi thế được thừa hưởng những thành tựu về khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực dầu mỏ. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng
được một lộ trình hội nhập phù hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, bên cạnh đó tìm ra giải pháp để đối phó với
những rào cản về năng lực cạnh tranh, quá trình thực thi luật pháp để
tránh các điều khoản không tương thích hoặc những cam kết gây bất
lợi cho Việt Nam do quá trình hội nhập quốc tế đem lại.
2.2. Vai trò của an ninh dầu mỏ đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nƣớc
Vai trò của dầu mỏ trong suốt thời gian quá đã góp phần giúp
Việt Nam chủ động đảm bảo cung cấp nhiên liệu cho các ngành kinh tế
quốc dân, vượt qua các giai đoạn khủng hoảng về kinh tế, năng lượng,
đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước góp phần đáng kể vào ngân
sách quốc gia, làm cân đối hơn cán cân xuất, nhập khẩu thương mại
quốc tế. Ngoài ra, việc tăng cường thăm dò, khai thác dầu mỏ còn đóng
vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển, góp phần bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển của Việt Nam.
16
2.2.1. An ninh dầu mỏ trong an ninh năng lượng quốc gia
Trong cơ cấu năng lượng hiện nay, dầu mỏ đang chiếm tới 1/3
trong tổng tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, cần
chú trọng việc đầu tư phát triển cho ngành công nghiệp mũi nhọn này,
an ninh dầu mỏ đóng vai trò then chốt đối với việc bảo đảm an ninh
năng lượng quốc gia, nhất là khi các ngành khai khoáng khác gặp nhiều
khó khăn. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng,
song song với việc đẩy mạnh hợp tác với các công ty dầu mỏ nước ngoài
để triển khai các dự án thăm dò, khai thác dầu mỏ trong nước, Việt Nam
cũng cần chủ động xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực năng lượng để có các chính sách, cơ chế khuyến khích và
thúc đẩy việc đầu tư ra nước ngoài tìm kiếm các dự án khai thác dầu mỏ
mới để bổ sung cho nguồn dầu mỏ trong nước đang bị thiếu hụt, góp
phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc một cách bền vững, lâu dài.
2.2.2. Hoạt động thăm dò, khai thác dầu mỏ góp phần bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên biển
Tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường,
Việt Nam luôn quán triệt, chỉ đạo việc thăm dò, khai thác dầu mỏ trên
biển phải gắn liền với ổn định về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc
gia và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, đây là nhiệm vụ quan trọng
không kém so với nhiệm vụ phát triển kinh tế. Các hoạt động thăm dò,
khai thác dầu mỏ đi song hành với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an
ninh và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia trên biển và nguồn tài
nguyên dầu mỏ. Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế để kêu gọi
công ty dầu khí nước ngoài đến đầu tư, khai thác chung dầu mỏ ở
thềm lục địa Việt Nam, một mặt vừa để bảo vệ, giữ vững chủ quyền
quốc gia, mặt khác gia tăng trữ lượng khai thác dầu góp phần đảm
bảo an ninh dầu mỏ trong nước
2.2.3. An ninh dầu mỏ đóng vai trò thúc đẩy hội nhập quốc tế của
Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của dầu mỏ, cũng như giải bài
toán về vấn đề an ninh dầu mỏ trong những năm tới, Việt Nam cần
17
triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế
đi vào hiệu quả, thực chất hơn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu
tư, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào thăm dò, khai thác dầu mỏ
ở Việt Nam. Trong giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2015, Việt Nam
đã mở cửa cho nhiều công ty dầu mỏ quốc tế đến từ Mỹ, Nhật Bản,
Nga, Anh, Malaysia, Canada, Australia, Pháp, Kuwait… vào đầu tư
thông qua các loại hình hợp đồng dầu mỏ khác nhau. Với những
thành công bước đầu của quá trình hội nhập quốc tế đã giúp Việt
Nam dần tiếp cận và nhận chuyển giao nhiều loại hình công nghệ
hiện đại, đồng thời học hỏi được những phương thức quản lý tiên tiến
áp dụng vào hoạt động quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác
dầu mỏ. Đây là những bước tiến quan trọng để giúp Việt Nam sớm
bắt nhịp với thị trường dầu mỏ toàn cầu, tăng cường hội nhập quốc tế
một cách hiệu quả và toàn diện.
2.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu mỏ của Việt Nam
2.3.1. Sự cần thiết của hợp tác quốc tế về thăm dò khai thác dầu mỏ
Với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ
cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, cũng như cân đối được
sản lượng dầu mỏ khai thác để bù đắp cho những ngành công nghiệp
khác đang thiếu hụt trong những năm gần đây, Việt Nam không ngừng
đẩy mạnh hội nhập quốc tế để mở rộng các hoạt động đầu tư trong lĩnh
vực khai thác dầu mỏ ở nước ngoài, việc đầu tư này không chỉ cung cấp
nguồn dầu mỏ bổ sung lâu dài cho nhu cầu phát triển của đất nước, mà
còn mang về một nguồn thu ngoại tệ đáng kể, góp phần vào việc duy trì
ổn định nền kinh tế quốc gia và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành
công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Với đặc thù là lĩnh vực luôn cần có nguồn vốn đầu tư lớn và
mức độ rủi ro cao, việc mở rộng hợp tác đầu tư trong các hoạt động
dầu mỏ ở nước ngoài của Việt Nam còn nhằm mục đích chia sẻ rủi
ro, cũng như huy động được nguồn vốn đầu tư lớn, đa dạng và có thể
đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các dự án về thăm dò, khai thác
dầu mỏ, đồng thời tranh thủ ứng dụng, chuyển giao các công nghệ
18
tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của các nước có ngành công nghiệp
dầu mỏ phát triển đi trước.
2.3.2. Quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thăm dò, khai thác
dầu mỏ
Ngay sau khi thống nhất hai miền đất nước, ngày 09/08/1975,
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết 244-NQ/TW
về công tác dầu mỏ/khí đốt, trong đó cho phép hợp tác đa phương với
nước ngoài, để sớm khai thác nguồn tài nguyên dầu mỏ/khí đốt phục
vụ phát triển kinh tế đất nước. Thời điểm đó Việt Nam nằm trong
khối các nước XHCN, kinh tế bị bao vây, cấm vận… thì một quyết
định cho hợp tác với công ty tư bản vào thời điểm đó hết sức khó
khăn và gặp nhiều trở ngại.
Kể từ năm 1995, Việt Nam đã kêu gọi được nhiều công ty dầu
quốc tế đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu mỏ cả trên đất liền
và toàn thềm lục địa. Cho đến nay gần 100 hợp đồng dầu mỏ đã được
ký kết với đủ các tập đoàn, công ty tầm cỡ quốc tế thuộc 22 nước và
vũng lãnh thổ trên thế giới, trải khắp trên năm châu lục, trong đó có
các công ty dầu khí quốc gia như: ONGC (Ấn Độ), Petronas
(Malaysia), KNOC (Hàn Quốc), StatOil (Nauy), CPC (Đài Loan),
PetroCanada (Canada), OMV (Áo), Repsol (Tây Ban Nha), NOC
(Iran)...và các Tập đoàn dầu khí xuyên quốc gia như Shell (Hà Lan),
Total (Pháp) BP (Anh), Gazprom (Nga), ConocoPhilipps,
ExxonMobil (Mỹ).... Đến cuối năm 2015, gần 40 hợp đồng đã chấm
dứt, nhưng Việt Nam vẫn ký được nhiều hợp đồng bổ sung mới, nên
hoạt động thăm dò, khai thác dầu mỏ tại thềm lục địa Việt Nam vẫn
giữ mức ổn định với hơn 60 hợp đồng còn hiệu lực.
Đến nay, từng bước Việt Nam đã xây dựng được chiến lược
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu mỏ cụ thể
được phân ra thành 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1995 - 2005: Đây là giai đoạn mà chủ trương đầu
tư ra nước ngoài trong dầu mỏ đã được xác định:
- Giai đoạn 2006 - 2010: Là giai đoạn Việt Nam tích cực triển
19
khai các hoạt động đầu tư thăm dò, khai thác dầu mỏ ra nước ngoài,
đồng thời xây dựng các chính sách thông thoáng cho việc mở rộng
hợp tác với nhiều đối tác dầu mỏ quốc tế.
- Giai đoạn 2011- 2015: Là giai đoạn Việt Nam tích cực triển
khai nhiều dự án thăm dò, khai thác dầu mỏ ở nước ngoài, nhằm sớm
đưa các dự án này vào vận hành khai thác, chủ động tìm kiếm các cơ
hội đầu tư mới ở những quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có
quan hệ chính trị tốt để cùng hợp tác phát triển các dự án có tính khả
thi cao.
2.3.3. Kết quả của hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thăm dò, khai
thác dầu mỏ của Việt Nam trong thời gian qua
Tính từ khi có chính sách mở cửa nền kinh tế đến ngày
30/11/2015, Việt Nam đã ký 105 hợp đồng thăm dò khai thác dầu mỏ
với đối tác nước ngoài, trong đó 39 hợp đồng đã kết thúc và 66 hợp
đồng vẫn đang có hiệu lực. Thống kê cho thấy trong 30 năm qua, các
nhà thầu dầu mỏ nước ngoài đã đầu tư khoảng 45 tỷ USD vào hoạt
động thăm dò khai thác dầu mỏ tại Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì thực tế việc triển khai
các dự án đầu tư ở nước ngoài trong lĩnh vực dầu mỏ của Việt Nam
luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Có thể nhận thấy,
nguồn tài nguyên dầu mỏ không phải vô hạn mà ngày càng cạn kiệt,
giá thành khai thác còn cao và mức độ rủi ro địa chất ngày càng lớn,
việc khai thác dầu chủ yếu tập trung ở những khu vực có địa lý phức
tạp, khí hậu khắc nghiệt như biển nước sâu, vùng sa mạc, vùng tuyết
trắng, rừng sâu…
Tuy nhiên, kết quả thực hiện đầu tư vào các dự án khai thác dầu
mỏ ở nước ngoài trong thời gian qua đã có những thành công bước đầu
rất khích lệ, cơ cấu đầu tư hợp lý giữa các nhóm dự án, đã có quỹ trữ
lượng dầu mỏ lớn từ các dự án đang hoạt động ở nước ngoài, sản lượng
khai thác và doanh thu ngoại tệ từ các dự án TDKT dầu mỏ đã được
nâng lên một cách ổn định, đây là cơ sở để xác định mục tiêu đảm bảo
an ninh năng lượng quốc gia trong chiến lược dài hạn.
20
2.3.4. Một số hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng tới việc đầu tư ra
nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu mỏ của Việt Nam
Môi trường đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ thế giới có nhiều biến
động phức tạp, khó lường. Việt Nam đã thực hiện nhiều dự án đầu tư
ra nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế thế giới những năm trở lại
đây phát triển không ổn định kéo theo việc tiêu thụ năng lượng có
phần chững lại. Bên cạnh đó, hoạt động thăm dò, khai thác dầu mỏ
trên thế giới liên tục biến động, giá dầu thô lên xuống bất thường.
Thêm vào đó, xuất hiện những mâu thuẫn về kinh tế và chính trị giữa
các nước trên thế giới, đặc biệt là giữa các nước phát triển với các
nước có trữ lượng dầu mỏ lớn hoặc có vị trí chiến lược trên bản đồ
kinh tế thế giới. Những tác động tiêu cực nói trên đã gây ra không ít
khó khăn đối với ngành công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam.
Ngoài ra, sự khác nhau về văn hoá, phong tục và tập quán kinh
doanh. Mỗi nước có một nền văn hoá, phong tục và tập quán kinh doanh
khác nhau và không thể áp dụng phong tục, tập quán kinh doanh của
nước này vào nước khác được.
CHƢƠNG 3 : GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN NINH DẦU MỎ
CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ TỚI NĂM 2030
3.1. Chiến lƣợc hội nhập quốc tế của Việt Nam tới năm 2030
Mục tiêu tổng quát hội nhập quốc tế đến năm 2030 là nhằm
góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, tranh thủ tối đa
các điều kiện quốc tế thuận lợi để sớm đưa đất nước trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao đời sống nhân dân, giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế, uy tín
quốc tế của đất nước.
21
Chủ động và đẩy mạnh hội nhập quốc tế là đòi hỏi thực tiễn
khách quan trong xu hướng của quá trình toàn cầu hoá hiện nay.Thời
gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong hội nhập, đã trở
thành quốc gia có vị trí cao trên trường quốc tế. Vì vậy, với chủ trương
chủ động hội nhập quốc tế, trong đó nòng cốt là hội nhập kinh tế quốc
tế được đánh giá cao trong Văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ XII là cơ sở để Việt Nam tin tưởng vào những kết quả đạt được
của tiến trìnhhội nhập kinh tế quốc tếtrong những năm tới.
3.2. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong việc đảm bảo an
ninh dầu mỏ
Trong thập niên tới, hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là
xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài nguyên,
lãnh thổ, nạn khủng bố có thể gia tăng cùng với những vấn đề toàn
cầu khác như biến đổi khí hậu, thiên tai... buộc các quốc gia phải có
chính sách ứng phó và phối hợp hành động. Bên cạnh đó, toàn cầu
hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu
hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức
đan xen rất phức tạp.
Điều này, đòi hỏi Việt Nam cần nhận thức đầy đủ hơn về tính
tất yếu của hội nhập quốc tế, cũng như đánh giá được những mặt
thuận lợi, thời cơ và cả những khó khăn, thách thức mà do tiến trình
hội nhập quốc tế mang lại.
3.2.1. Dự báo về thị trường dầu mỏ thế giới đến năm 2030
Theo dự báo của các nhà khoa học, yêu cầu về dầu mỏ của cả
thế giới sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030, trong khi đó các nguồn dầu
mỏ hoá thạch đang cạn kiệt dần. Sức ép đối với các nguồn cung cấp
dầu mỏ toàn cầu là rất lớn. Theo tính toán của các chuyên gia, thế
giới sẽ tiêu thụ khoảng 679 tỉ thùng dầu từ nay đến năm 2020, chiếm
2/3 trữ lượng dầu mỏ của thế giới. Trong vòng mấy thập kỷ tiếp theo
có thể các nguồn dầu mỏ truyền thống vẫn đóng vai trò chủ đạo
nhưng với sự cạn kiệt dần của nó và nỗ lực của con người trong việc
tìm ra các nguồn dầu mỏ mới như dầu đá phiến, chắc chắn sẽ đóng
22
góp một phần không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu sử dụng của con
người trong tương lai. Do đó, sẽ không có khả năng về một nguy cơ
toàn cầu như nhận thức trước đây về sự thiếu hụt tuyệt đối các nguồn
dầu mỏ trên thế giới, ít nhất là trong khoảng thời gia 30 năm đầu của
thế kỉ XXI.
Tuy nhiên, đó không phải là tín hiệu tích cực hoàn toàn, bởi
một điều chắc chắn đó là sức ép về nguồn cung dầu mỏ trên toàn cầu
sẽ không giảm đi, thậm chí ngày một tăng lên khi nhu cầu tiêu thụ
của con người không ngừng gia tăng. Điều này đặt ra cho nhân loại
thách thức to lớn trong việc đảm bảo nguồn tài nguyên dầu mỏ cho
quá trình phát triển trong tương lai.
3.2.2. Cơ hội, thuận lợi
Một thị trường gần như toàn cầu đang mở ra đối với ngành
công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu
rộng như hiện nay. Tuy nhiên, thời điểm được đánh giá quan trọng
nhất là việc Việt Nam gia nhập WTO, mở cửa toàn diện theo đúng
các nguyên tắc của tự do hóa thương mại, minh bạch, công bằng tạo
điều kiện để nhà đầu tư, nhà kinh doanh xuất - nhập khẩu dầu mỏ,
bán lẻ xăng dầu nước ngoài thực hiện các giao dịch tại Việt Nam.
Theo nguyên tắc tương hỗ, Việt Nam cũng sẽ nhận được sự đối xử
tương tự ở các nước thành viên của WTO khi tiến hành đầu tư, kinh
doanh sang các nước trong ngành công nghiệp dầu mỏ.
3.2.3. Nguy cơ, thách thức
Hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay cũng như những năm
tới không chỉ có thời cơ, thuận lợi, mà còn phải đối diện với nhiều
thách thức lớn. Điều đó, đòi hỏi Việt Nam cần tìm ra các giải pháp
khắc phục một cách hiệu quả nhất với những thách thức như:
- Rủi ro chính trị khi tham gia đầu tư ở nước ngoài
- Rủi ro về nguồn cung - cầu dầu mỏ
- Sức ép về ứng dụng công nghệ
- Về chiến lược dự phòng và dự trữ dầu mỏ
- Đối mặt với sự bất ổn ở Biển Đông
23
- Các mối đe dọa liên quan đến kinh tế, tài chính, đầu tư
- Về hướng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo thay thế
3.2.4. Kinh nghiệm của một số quốc gia về đảm bảo an ninh dầu
mỏ và bài học rút ra đối với Việt Nam
Cuộc cạnh tranh gay gắt để giành giật các nguồn dầu mỏ như
dầu mỏ, khí đốt, than đá… đang chi phối trật tự thế giới và tác động
đến lợi ích quốc gia trong các mối quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh
đó, nhiều nước đã đưa ra các chính sách đối ngoại riêng về lĩnh vực
dầu mỏ với mục đích nhằm đảm bảo an ninh dầu mỏ cho quốc gia
mình, cụ thể như trường hợp của Hàn Quốc, Malaysia. Trên cơ sở đó
Việt Nam có thể rút một số kinh nghiệm trong việc đầu tư ra nước
ngoài để đảm bảo an ninh dầu mỏ trong nước.
3.3. Giải pháp và khuyến nghị nhằm đảm bảo an ninh dầu mỏ
của Việt Nam đến năm 2030
3.3.1. Giải pháp bảo đảm an ninh dầu mỏ trong tiến trình hội nhập
quốc tế
- Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác và sử dụng
có hiệu quả tài nguyên dầu mỏ.
- Đẩy mạnh hội nhập quốc tế để đảm bảo an ninh dầu mỏ
trong nước
- Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động dầu mỏ
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ mới
- Bảo đảm an ninh quốc phòng
3.3.2. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo an ninh dầu mỏ của Việt
Nam trong thời gian tới
- Khuyến khích, đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu mỏ
- Cải thiện môi trường pháp lý
- Chủ động, tăng cường hội nhập quốc tế và thu hút đầu tư
- Hỗ trợ chính sách vĩ mô
- Giải pháp đảm bảo an ninh - quốc phòng