Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.83 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
I : MỞ ĐẦU:

1

1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm.

1

2. Mục đích nghiên cứu.

2

3. Đối tượng nghiên cứu.

3

4. Phương pháp nghiên cứu.

3

II : NỘI DUNG SÁNG KIẾN:

4

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

4

2. Thực trạng của việc rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh


trước khi áp dụng sáng kiến.

4

3. Các biện pháp đã sử dụng để thực hiện rèn kỹ năng mở rộng vốn từ
cho học sinh.

7

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục.
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
III : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:

16
18

1. Kết luận:

18

2. Kiến nghị đề xuất:

18

IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO:

21


I. MỞ ĐẦU:

1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, để cùng hội nhập với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Sự nghiệp giáo dục là mối quan tâm hàng đầu của
đất nước. Đảng ta đã chỉ rõ: “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Thế hệ trẻ chính là
tài sản vô giá của dân tộc. Họ không chỉ được trang bị hệ thống kiến thức vững
vàng, mà quan trọng hơn cả là lớp trẻ phải được trang bị khả năng vận dụng kiến
thức vào thực tế. Tức là phát triển ở học sinh khả năng, năng lực để các em trở
thành con người có khả năng hành động, khả năng giải quyết vấn đề mà cuộc sống
đặt ra. Môn Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng, góp phần đắc
lực vào việc thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp Giáo dục Đào tạo, hình
thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Trong môn Tiếng Việt mỗi phân
môn đều có vai trò lớn trong việc bồi dưỡng rèn luyện kỹ năng đọc, viết, nghe,
nói ..., góp phần không nhỏ vào việc thực hiện mục tiêu môn học. Qua môn
Tiếng Việt nhằm nâng cao khả năng giao tiếp góp phần hình thành nhân cách,
bồi dưỡng tình cảm, cảm xúc, thẩm mỹ, làm giàu vốn sống, vốn văn hoá của học
sinh. Môn Tiếng Việt là một trong những môn có đóng góp tích cực vào quá
trình giáo dưỡng các em thành những con người phát triển toàn diện. Ở mỗi khối
lớp môn Tiếng Việt có yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau. Đặc biệt giai đoạn đầu
của bậc tiểu học có nhiệm vụ dạy cho học sinh nắm chắc vốn kiến thức cơ bản
làm nền tảng để các em tiếp tục học tập, rèn luyện các kiến thức, kỹ năng có
mức độ cao hơn ở các bậc học tiếp theo. Do đó, trong giai đoạn đầu của Tiểu
học việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng Việt vừa phải
quan tâm đến hệ thống hoá, khái quát hoá nội dung học tập vừa phải chú ý quan
tâm bồi dưỡng kinh nghiệm, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, đây là những nhiệm vụ
quan trọng góp phần hướng đạt được các mục tiêu: trang bị kiến thức và kỹ năng
cơ bản trong giao tiếp hàng ngày; tạo nền tảng kỹ năng, kiến thức để các em học
tập, nghiên cứu và rèn luyện môn Tiếng Việt ở các bậc học tiếp theo. Hơn thế
nữa môn Tiếng Việt là công cụ để học tốt các môn học khác, học sinh học tốt
môn Tiếng Việt sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu, học tập kỹ năng,
kiến thức ở những môn học khác. Vì vậy Đảng ta nói chung, Bộ Giáo dục và

Đào tạo nói riêng đang xây dựng chương trình thay sách giáo khoa trong năm
học 2018 - 2019 dựa trên nền tảng lí luận và thực tiễn, cập nhật thành tựu của
khoa học hiện đại để đáp ứng nhu cầu xã hội càng cao nhằm thay đổi phương
1


pháp dạy - học. Chính vì thế, môn Tiếng Việt lớp 2 là môn học rất quan trọng
được xây dựng trên nhiều quan điểm, trong đó xây dựng chủ yếu trên quan điểm
kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt nhằm đáp
ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh
thể, sự nhất quán liên tục: Muốn giao tiếp tốt thì ta phải có vốn từ phong phú, kỹ
năng vận dụng vốn từ tốt.... thực tế học sinh lớp 2 nói chung, vốn từ của các em
còn khá ít ỏi, nghèo nàn.
Vậy làm thế nào để mở rộng vốn từ cho học sinh? Vấn đề này không thể
giải quyết được trong ngày một ngày hai mà cần trải qua một quá trình nỗ lực
rèn luyện của cả thầy và trò, và của toàn xã hội...Vì vậy, bản thân tôi khi tiếp tục
nhận nhiệm vụ dạy lớp 2, tôi luôn trăn trở và đặt ra câu hỏi là phải làm gì? Làm
thế nào? để mở rộng vốn từ cho học sinh có vốn từ phong phú. Để giải quyết
trăn trở nêu trên, tôi chọn chủ đề nghiên cứu sáng kiến: “Một số biện pháp rèn
kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tiếng Việt là môn học cung cấp kiến thức bằng con đường quy nạp và
thực hành nhiều để rèn luyện kỹ năng dùng từ, đặt câu … Vì vậy, nhiệm vụ của
môn là cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con
người; cung cấp vốn từ, cách biểu đạt những hiểu biết về cốt truyện, nhân vật…
góp phần hình thành kỹ năng nói và viết cho học sinh. Thông qua phát triển, rèn
luyện kỹ năng nói, viết nhằm giáo dục các em luôn luôn rèn kỹ năng phát âm và
nói mạch lạc rõ ràng. Từ đó, giúp cho các em thấy được đây chính là con đường
đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Hướng tới sẽ hình
thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất cao đẹp: yêu nước, nhân ái,

chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm. Qua môn Tiếng Việt tạo cho học sinh cơ
hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng
cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú; bồi dưỡng cho học sinh
tình yêu đối với Tiếng Việt ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần
giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam.
Đặc điểm của dạy môn Tiếng Việt trong đó phân môn Luyện từ và câu lớp
2 là một phân môn mới đối với các em. Bởi các em chuyển từ giai đoạn đọc
thành tiếng, đoạn văn, thơ sang đọc bài và hiểu nội dung của bài để nói, viết góp
phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái
thiện và cái đẹp, dạy cho các em cách tư duy có hình ảnh và luôn “rèn kỹ năng
2


mở rộng vốn từ cho học sinh”.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 2 ở trường Tiểu học hiện
nay nói chung và học sinh lớp 2A trường Tiểu học Thiệu Dương nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Để việc nghiên cứu đạt kết quả tốt, tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:
- Phương pháp kế thừa tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Dạy thực nghiệm.
- Trao đổi, toạ đàm với đồng nghiệp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Để thực hiện mục tiêu hàng đầu “Hình thành và phát triển ở học sinh 4 kĩ
năng sử dụng Tiếng Việt” (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi. Chương trình Tiếng Việt lớp 2 đã lấy nguyên
tắc dạy giao tiếp, dạy thông qua giao tiếp làm định hướng cơ bản.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2 mới, phân môn Luyện từ và câu cung
cấp những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt bằng con đường quy nạp và rèn luyện
kĩ năng dùng từ, đặt câu (nói, viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Đây chính là nền
tảng giúp các em có hành trang ban đầu để ứng dụng vào việc hành văn (viết
văn) hay, làm phong phú, giàu hơn ngôn ngữ nói của các em.
“Rèn luyện kỹ năng mở rộng vốn từ” chính là sự tích cực hoá hoạt động
của người học, lấy người học làm trung tâm, làm sao mỗi học sinh đều được
hoạt động, đều được bộc lộ mình và được phát triển. Do đặc điểm tâm lí học
sinh tiểu học thích tham gia các hoạt động “Học mà chơi, chơi mà học”, các em
rất thích hình thức học nhóm. Học nhóm tạo cho các em một tâm thế thoải mái
khi tiếp nhận kiến thức. Các em như được tự phát hiện, tự giải quyết những vấn
đề của bài học. Điều đó khích lệ các em học tập tốt.
Việc tích cực hoá mở rộng vốn từ là quan trọng bởi nhiều lý do. Trước hết
nó cho phép học sinh có nhiều cơ hội hơn để diễn đạt và khám phá ý tưởng của
mình, mở rộng suy nghĩ, hiểu biết và rèn kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp… và
quan trọng hơn là rèn cho học sinh mở rộng vốn từ của mỗi em ngày càng trở
nên phong phú hơn. Nó cũng cho phép học sinh vừa phát huy được vai trò trách
nhiệm cá nhân vừa có cơ hội để học hỏi từ các bạn qua cách làm việc hợp tác
giữa các thành viên trong nhóm. Như vậy việc “ tích cực hoá mở rộng vốn từ
cho học sinh” chính là tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc giao tiếp, cho
việc rèn luyện 4 kỹ năng sử dụng Tiếng Việt.
2. Thực trạng của việc rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh trước khi
áp dụng sáng kiến:
2.1. Thực trạng của việc dạy rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh lớp
2 trường Tiểu học Thiệu Dương.

- Giáo viên đã vận dụng đầy đủ phương pháp dạy học để rèn kỹ năng mở
rộng vốn từ cho học sinh, tuy nhiên việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực
chưa thường xuyên, chưa thực sự nhuần nhuyễn.
4


- Giáo viên chưa tổ chức được các chương trình ngoại khoá lý thú, bổ ích
cho việc rèn kỹ năng mở rộng vốn từ của học sinh.
- Thiếu sự kết nối của giáo viên – phụ huynh. Một số phụ huynh có thái
độ thờ ơ, xem nhẹ việc học của con em, phó mặc hoàn toàn cho nhà trường và
giáo viên.
- Nội dung sinh hoạt Sao, Đội đơn điệu, thiếu sinh động, chưa đóng góp
tích cực cho việc rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh.
- Thiếu văn hoá phẩm ( sách, báo, truyện tranh…) dành cho các em ttrong
các giờ sinh hoạt đầu giờ, cuối tuần…. v.v.
2.2. Một số thuận lợi, khó khăn trong việc dạy rèn kỹ năng mở rộng vốn
từ cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Thiệu Dương.
a) Thuận lợi:
- Trường có đội ngũ giáo viên vững về chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ sư
phạm, nhiệt tình công tác, yêu nghề, yêu trẻ.
- Cơ sở vật chất của trường tương đối đầy đủ, khang trang.
- Hầu hết các em đã biết đọc, viết, có ý thức học tập và đã bắt đầu hình
thành khả năng hoạt động độc lập. Đặc biệt là lòng ham học hỏi, ý thức tìm hiểu
về sự vật, hiện tượng và môi trường xung quanh….
- Đa phần phụ huynh thể hiện sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho con
em học hành nên đa số các em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập.
- Các em sinh ra và lớn lên ở địa phương có nhiều tập tục văn hoá hay,
đẹp…
b) Khó khăn:
- Nhìn chung đối với học sinh lớp 2 vốn từ của các em còn rất nghèo nàn;

kỹ năng sử dụng, vận dụng vốn từ chưa linh hoạt, hợp lý; kỹ năng diễn đạt kém,
dẫn đến gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong giao tiếp và tư duy …
- Đa số các em là con gia đình làm nghề nông, cuộc sống khá khó khăn,
bố mẹ thường đi làm ăn xa ( gửi con cho ông, bà, chú, bác, cô, dì …..), một số
phụ huynh còn thờ ơ, xem nhẹ việc học hành của con em, họ phó mặc hoàn toàn
việc học tập của con cái vào ý thức tự giác của các em và sự dạy dỗ nhà trường.
Do vậy việc “dạy - học” đôi khi thiếu đi một yếu tố quan trọng đó là sự quan
tâm, kiểm tra, giám sát và đôn đốc của phụ huynh đối với các em.
- Ngoài giờ học ở trường, các em không có điều kiện tham gia các câu lạc
bộ, các môn năng khiếu như hát, múa, Aerobic … hay tham gia các câu lạc bộ
5


thể thao: bóng đá, võ, cờ vua…… Bởi thế, nhiều em còn nhút nhát, chưa mạnh
dạn tự tin trước tập thể, còn lúng túng khi nêu ý kiến của mình.
- Kỹ năng phát âm của các em còn nhiều hạn chế như: nói ngọng, nói lắp
và nói tiếng địa phương dẫn đến e thẹn, ngại ngùng khi giao tiếp, phát biểu ý
kiến….
- Ở lớp 1 em đang chú trọng về việc phát âm mà chưa đi sâu vào mở rộng
vốn từ. Lên lớp 2 với một nền tảng vốn từ ít ỏi như vậy, các em thực sự khó
khăn để làm quen với với nhiều phân môn mới như Luyện từ và câu, Tập làm
văn ….
Qua thực hiện khảo sát đánh giá phân loại học sinh đầu năm học 2017
-2018 môn Tiếng Việt trên tập thể học sinh lớp 2A trường tiểu học Thiệu Dương
(Phương pháp khảo sát đánh giá năng lực được thực hiện theo hướng dẫn tại
Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục
Đào tạo về việc đánh giá học sinh tiểu học và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT
ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ Giáo dục Đào tạo về việc sửa đổi quy định
đánh giá học sinh tiểu học), kết quả như sau:
Tổng số học sinh lớp 2A là 32 em, kết quả khảo sát, đánh giá như bảng sau:

Tổng số
học sinh
(em)

Mức đạt
Số
Tỷ lệ
được
lượng
(%)
(điểm số) (em)
Hoàn
thành tốt
(điểm 9,
10)

32

Hoàn
thành
(điểm
5,6,7,8)
Chưa
hoàn
thành
(điểm
dưới 5)

4


12

16

12,5

37,5

50,0

Nhận xét
Nhóm HS này có vốn từ phong phú,
đa dạng và có kỹ năng tốt trong việc
sử dụng, vận dụng vốn từ của bản thân
để diễn đạt, giao tiếp.
Nhóm HS này có vốn từ trung bình,
chưa phong phú, có kỹ năng từ trung
bình đến khá trong việc sử dụng, vận
dụng vốn từ của bản thân, việc đọc,
nói đôi lúc chưa trôi chảy.
Nhóm HS này có vốn từ ít, kỹ năng sử
dụng vốn từ còn lúng túng, diễn đạt
kém, đôi lúc còn phát âm chưa rõ
trong khi đọc, nói.

6


3. Các biện pháp đã sử dụng để rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh
lớp 2:

Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng về kỹ năng mở rộng vốn từ của
học sinh, về mục tiêu đổi mới chương trình sách giáo khoa, về phương pháp dạy
học tích cực... Để “ rèn kỹ năng mở rộng vốn từ” cho học sinh đạt hiệu quả
cao, theo tôi có thể áp dụng những biện pháp sau:
Biện pháp thứ nhất: Xác định đúng cấu trúc chương trình Tiếng Việt lớp 2.
Để đạt mục tiêu cao “rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh “ chúng ta
phải nắm được cấu trúc chương trình tiếng Việt lớp 2: Tiếng Việt lớp 2 đã được
xây dựng theo hai trục kiến thức là chủ điểm và kỹ năng. Trong đó chủ điểm được
lấy làm khung cho cả cuốn sách, còn kỹ năng được lấy làm khung cho từng tuần,
từng đơn vị học. Cấu trúc của sách gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một
chủ điểm. Mỗi chủ điểm có các chủ điểm nhỏ. Chủ điểm trường học được chia
nhỏ thành các chủ điểm: Em là học sinh; Bạn bè; Trường học; Thầy cô. Chủ điểm
gia đình được chia nhỏ thành các chủ điểm: Ông bà; Cha mẹ; Anh em; Bạn trong
nhà. Chủ điểm thiên nhiên gồm 5 chủ điểm nhỏ: Bốn mùa; Chim chóc; Muông
thú; Sông biển; Cây cối. Còn chủ điểm xã hội ở lớp 2 mới chỉ đề cập đến 2 chủ
điểm nhỏ: Bác Hồ; Nhân dân. Bên cạnh các tuần học theo từng chủ điểm, trong
mỗi học kỳ còn có một tuần giữa và tuần cuối dành ôn tập và kiểm tra.Về cấu trúc
của đơn vị học: Mỗi đơn vị học gồm 2 tuần, trừ chủ điểm Nhân dân là nội dung
khá rộng nên học trong ba tuần. Trong mỗi tuần học, học sinh học từng phân môn
với thứ tự sau: Tập đọc (2 tiết); Kể chuyện (1 tiết); Chính tả (2 tiết); Tập đọc (1
tiết); Luyện từ và câu (1 tiết); Tập viết (1 tiết); Tập làm văn (1 tiết). Nhằm mục
đích mở rộng vốn từ cho học sinh qua các phân môn Tiếng việt một cách dễ nhớ,
ví dụ chủ điểm gia đình gồm có ông, bà, cha, mẹ… Học sinh biết phân biệt ông
bà nội, ngoại ngoài ra còn biết tình cảm, trách nhiệm con cháu đối với ông bà….
Biện pháp thứ hai: Xác định đúng mục tiêu, nội dung Tiếng Việt 2 theo
phương pháp mới (phải đọc kỹ sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tập
huấn, tài liệu giảm tải và các tài liệu liên quan khác).
Theo cấu trúc Tiếng Việt 2 được xây dựng qua những chủ điểm như trên. Các
chủ điểm, bài học trong từng chủ điểm gần gũi, quen thuộc, gắn bó hàng ngày với
các em. Nếu giáo viên vận dụng tốt mọi phương pháp dạy học sẽ giúp học sinh hệ

thống, nắm nội dung bài, mở rộng vốn từ một cách dễ dàng. Ngược lại sẽ không có
hiệu quả, sẽ gây sự nhàm chán cho học sinh, gây cho học sinh tính chủ quan, xem
7


nhẹ vấn đề, xem nhẹ nội dung bài học. Bằng việc nắm chủ điểm, tổ chức dạy học
theo chủ điểm, giáo viên dẫn dắt học sinh đi dần vào các lĩnh vực của đời sống qua
đó tăng cường vốn từ, nâng cao kĩ năng diễn đạt của các em về nhà trường, gia đình
và xã hội...Mở rộng vốn từ cho học sinh phải chú trọng dạy Tiếng Việt theo nhiều
quan điểm như: giao tiếp, tích hợp, tích cực... Đồng thời phải xác định tầm quan
trọng của kênh hình ở sách giáo khoa; việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong môn Tiếng Việt cũng như việc chuẩn bị của giáo viên. Để tránh trường
hợp quá tải gây áp lực cho học sinh tạo cho các em một cách học thoải mái nhất.
Biện pháp thứ ba : Xác định tình hình chung về khả năng nhận thức kỹ năng
mở rộng vốn từ của học sinh trường mình:
Xác định được tình hình chung về khả năng nhận thức bản thân tôi phải
lập kế hoạch bám sát, tìm hiểu tình hình chung về đặc điểm khả năng nhận thức,
khả năng mở rộng vốn từ, khả năng giao tiếp của học sinh trường mình dạy. Tôi
nhận thấy điều kiện để trao đổi, học hỏi, sinh hoạt... của học sinh trong lớp tôi
không thuận lợi vì khả năng tiếp thu, nhận thức chung của học sinh trong lớp
không đồng đều, còn chênh lệch... Vì vậy, mà việc dạy - học cũng gặp rất nhiều
khó khăn. Bởi vậy, cần phải lập kế hoạch bám sát khả năng của từng em, từng
nhóm để xác định nguyên nhân dẫn đến thực trạng năng lực của mỗi nhóm học
sinh khác nhau.
a) Đối với nhóm học sinh mức đạt được là mức “Hoàn thành tốt”: Nhìn
chung những em nhóm này có tầm nhận thức, tiếp thu bài tốt. Ngoài ra các em là
những học sinh mạnh dạn, sôi nổi tự tin, tích cực phát biểu xây dựng bài, hay
đọc sách, đọc báo, hay tham gia các hoạt động tập thể...
b) Đối với học sinh mức đạt được là mức “Hoàn thành”: Nhìn chung
những HS nhóm này có khả năng nhận thức, tiếp thu bài vào loại khá, ý thức tự

học tốt, song các em chưa thật mạnh dạn, ít hoặc còn ngại tham gia vào các hoạt
động tập thể, ít trao đổi với bạn bè, người lớn. Tuy nhiên, trong nhóm này cũng
có một số em khả năng nhận thức, tiếp thu bài ở mức trung bình, ý thức học tập
chưa cao, trầm, không mạnh dạn, không tham gia các hoạt động tập thể...
c) Đối với nhóm học sinh mức đạt được là mức “Chưa hoàn thành”: nhóm
này chủ yếu là học sinh trong các hộ nghèo, gia đình đông con, ít có sự quan tâm
giáo dục con. Các em ở trong hoàn cảnh khó khăn nên ít có điều kiện học tập,
giao tiếp, tính cách rụt rè, thiếu tự tin, tự ti trước bạn bè, thậm chí nhiều lúc cô
gọi đọc bài các em còn ngượng ngại.... Vì vậy mà các em không những hạn chế
8


về vốn từ mà nhiều em còn biểu hiện không muốn học.
Căn cứ vào những nguyên nhân dẫn đến thực trạng năng lực của mỗi
nhóm học sinh nói trên, tôi đã áp dụng phương pháp dạy học sao cho phù hợp
với từng nhóm học sinh, cụ thể:
* Đối với học sinh có vốn từ phong phú, có kỹ năng tốt trong việc sử
dụng vốn từ, sử dụng ngôn ngữ thì ngoài việc thực hiện mục tiêu của từng môn
học, bài học (trong môn Tiếng Việt), tôi ra thêm nhiều bài tập nâng cao, đòi hỏi
kỹ năng sử dụng vốn từ phức tạp hơn; khuyến khích học sinh đọc báo, đọc
chuyện, kể chuyện, viết thơ... (theo khả năng, lứa tuổi của mình) nhằm phát huy
kỹ năng giao tiếp và ngày càng mở rộng thêm vốn từ.
* Đối với nhóm học sinh có vốn từ trung bình, chưa phong phú, có kỹ
năng từ trung bình đến khá trong việc sử dụng, vận dụng vốn từ của bản thân,
việc đọc, nói đôi lúc chưa trôi chảy: Tôi đã tăng cường kiểm tra bài cũ, kiểm tra
làm bài tập theo SGK, tăng cường gọi các em đọc bài, gọi phát biểu ý kiến…v.v.
Bên cạnh đó khuyến khích, động viên các em tích cực luyện nghe, nói, đọc, viết
thông qua hình thức thuật lại chuyện kể đã nghe, viết lại chuyện đã đọc, phát
biểu ý nghĩa, cảm tưởng về bài văn, thơ..v.v.
* Đối với học sinh vốn từ ít, kỹ năng sử dụng vốn từ còn lúng túng, diễn

đạt kém, đôi lúc còn phát âm chưa rõ trong khi đọc, nói…
Với nhóm này, giáo viên cần phải thực sự kiên trì, cung cấp dần những từ
ngữ đầu tiên, sơ giản, để những học sinh có vốn từ ít có thể tiếp cận được với hoạt
động học, vỡ dần những tri thức được cung cấp. Bởi vì, trong phạm vi dạy từ ngữ
cho những học sinh còn ít vốn từ thì không chỉ đơn thuần là dạy nghĩa từ mà phải
bao gồm dạy nghe, dạy nói, dạy viết, dạy nghĩa từ, dạy sử dụng từ ngữ, và tìm ra
điểm yếu chung về sử dụng từ của nhóm học sinh này là gì (về đọc, viết, nói hay
diễn đạt...?). Sau đó tiếp tục truy tìm ra nguyên nhân yếu điểm đó là do cái gì: do
khả năng, do thói quen hay do điều kiện tiếp xúc, học hỏi ... Sau đó giáo viên áp
dụng phương pháp dạy học bồi dưỡng vốn từ cho học sinh như: có thể cùng một
lúc dạy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết hay dạy từng mức, từng kỹ năng một hoặc
kết hợp rèn hai kỹ năng cùng lúc với nhau. Thậm chí trong nhóm học sinh này giáo
viên phải có thêm một bước nhỏ đó là: tách riêng những học sinh mức đạt được
“Chưa hoàn thành” cận nhóm trên (3,4 điểm) và những học sinh mức đạt được
“Chưa hoàn thành” (1,2 điểm), để có kế hoạch bồi dưỡng bổ sung vốn từ bằng các
phương pháp khác nhau. Tuy nhiên để làm được việc này không chỉ ngày một ngày
9


hai mà giáo viên cần có thời gian, sự kiên trì, chịu khó trong một giai đoạn dài hoặc
trong cả năm học, liên kết năm học này với năm học khác thì mới có hiệu quả.
Thông qua việc rèn luyện kỹ năng nghe, tức là dạy các em tiếp nhận âm
thanh ngôn ngữ. Học sinh nghe giáo viên dùng từ, đặt câu, diễn đạt thuyết trình
ở trên lớp. Vì vậy, từ trong giọng đọc, trong lời nói của giáo viên, cần phải dịu
dàng; giáo viên phải nói, đọc đúng cường độ, tốc độ, cao độ...sao cho phù hợp
với ngữ cảnh, phù hợp với trình độ tiếp thu của học sinh; giáo viên cần đọc liền
hơi các từ ghép, các cụm từ cố định, ngắt nghỉ hơi nhấn giọng cần phải chính
xác.Còn trong khi rèn luyện kỹ năng đọc, nói, viết, cần giúp các em đọc, nói
đúng âm, viết đúng từ ngữ. Muốn vậy, giáo viên cần sử dụng nhiều phương pháp
như: rèn luyện theo mẫu; chữa lỗi dựa vào cấu âm; phương pháp luyện tập tổng

hợp và phân tích; phương pháp đi từ âm sai đến âm đúng qua âm trung gian.
Trong đó việc rèn luyện theo mẫu (tức việc đọc mẫu của giáo viên) là cực kì
quan trọng. Nhưng hiện nay việc đọc mẫu của giáo viên cũng không phải là việc
dễ dàng, không phải là giáo viên nào cũng làm tốt vì việc xác định chỗ ngắt
nhịp, ngắt nghỉ hơi trong câu văn, câu thơ nhiều lúc chúng ta còn lúng túng.
Ngắt nhịp sai sẽ dẫn đến việc dạy đọc, nghe, cảm thụ từ, ngữ, câu, bài sẽ không
hiệu quả nếu không muốn nói sẽ lệch lạc nội dung bài. Vì vậy, giáo viên cần
nắm được những nguyên tắc khi dạy học sinh ngắt nhịp thơ, văn:
- Giáo viên cần bám sát ý nghĩa của câu văn câu thơ, các cụm từ, hình ảnh
âm thanh các từ có mặt trong câu. Ngoài ra, cần xác định đúng cấu trúc ngữ
pháp của câu, của các cụm từ, các từ và bám sát cảm xúc, ý định của người viết
cộng hưởng cảm xúc của người đọc.
Đối với việc rèn luyện kỹ năng nói, giáo viên phải có hình thức chăm lo,
uốn nắn các trường hợp dùng từ chưa chính xác, có thể qua đó giáo viên cung
cấp cho học sinh một số từ đồng nghĩa, trái nghĩa, hướng dẫn học sinh tìm hiểu
dạng từ cùng dạng, từ có thể thay thế từ đã cho.
Đặc biệt khi dạy học sinh mức đạt được “Chưa hoàn thành” luyện các kỹ
năng đọc và nói thì mỗi lần đọc, nói của học sinh được coi như một lần đọc mẫu,
nói mẫu của giáo viên để học sinh khác học tập. Không những thế mà còn tạo sự
tập trung trong học tập của các em. Khi luyện kỹ năng đọc to, nói to, rõ ràng học
sinh cũng tự mình có ý thức đọc đúng (bởi nếu đọc sai thì các bạn nghe được và sẽ
cảm thấy xấu hổ). Hơn nữa khi học sinh đọc to, nói to thì giáo viên cũng như các
bạn trong lớp mới có thể phát hiện chỗ sai và sữa chữa kịp thời. Vì vậy đọc to, nói
10


to có tác dụng không chỉ phát hiện ở một em nào đó mà còn có tác dụng với các em
khác khi biết bạn sai và được giáo viên sữa chữa. Nói cách khác đọc và nói tốt
không chỉ vốn từ được mở rộng mà còn sử dụng vốn từ một cách chính xác.
Ngoài ra đối với học sinh mức đạt được “Chưa hoàn thành”, hàng ngày bằng

sự nhiệt tình, nhẫn nại của mình giáo viên có thể kèm học sinh luyện đọc riêng
(thêm) trong những giờ sinh hoạt 15 phút, trong các giờ ra chơi hoặc có thể cho học
sinh có kĩ năng đọc mức đạt được “Hoàn thành tốt” kèm những học sinh có kĩ năng
đọc mức đạt được “Chưa hoàn thành”. Làm được thế chắc chắn kết quả đọc của
những em có kĩ năng đọc mức đạt được “Chưa hoàn thành” sẽ được nâng lên rõ rệt.
Điều đó sẽ làm cho các em thuận lợi hơn trong giao tiếp, trong thực hành đọc, viết
và làm bài; kỹ năng mở rộng vốn từ, sử dụng vốn từ ngày càng hoàn thiện.
Đối với việc dạy từ ngữ trong hoạt động viết là dạy cho học sinh phải viết
đúng, viết hay, sử dụng từ trong văn bản phải đúng âm, đúng ý nghĩa, chú ý ở các
dạng bài tập. Thường xuyên cho học sinh mở rộng vốn từ trong một tiết luyện từ và
câu theo chủ đề. Nếu có thời gian thì trong các tiết luyện tập giáo viên cần phân theo
chủ đề hai tuần học như ở sách giáo khoa để yêu cầu học sinh tìm từ hoặc có thể chia
lớp ra thành các nhóm, mỗi nhóm có nhiệm vụ sưu tầm các vốn từ thuộc chủ đề sau
đó giáo viên thu, nhận xét và sửa để các em được mở rộng vốn từ nhiều hơn.
Đối với dạy nghĩa từ cần chú ý: giảng từ trong đơn vị câu, trong ngữ cảnh;
giảng từ gắn liền với hoạt động đọc, hoạt động viết, gắn liền với hành động;
giảng từ trên cơ sở những hiểu biết về tiếng mẹ đẻ... Ngoài ra, giáo viên còn có
thể giúp đỡ, động viên các em bằng nhiều hình thức khác nhau như: không đặt
yêu cầu học tập của các em giống như các đối tượng học sinh khác trong lớp, số
lượng bài tập cũng như mức độ yêu cầu của bài tập thấp hơn... để các em có thể
làm bài, hoàn thành bài tốt. Bên cạnh đó, giáo viên cũng phải chấm bài, sửa
chữa kịp thời, khen ngợi, động viên.... Từ đó, các em có thể tự tin, có hứng thú
hơn trong học tập rèn luyện, sinh hoạt, các em sẽ mạnh dạn hơn trong học tập,
giao tiếp.... Trong các giờ sinh hoạt tập thể, những giờ ra chơi, giờ sinh hoạt Sao,
Đội..., giáo viên cần chú ý tạo môi trường cho các em được trò chuyện với cô
giáo, với các bạn trong và ngoài lớp...từ đó học sinh được mở rộng thêm vốn từ,
rèn luyện kỹ năng sử dụng vốn từ tốt hơn.
Biện pháp thứ tư: Vận dụng tối đa phương pháp dạy học tích cực:
Ngoài việc xác định, thực hiện đúng mục tiêu, nội dung chương trình, yêu
cầu về kiến thức, kỹ năng chương trình Tiếng Việt nói chung, chương trình đổi

11


mới sách giáo khoa lớp 2 nói riêng thì giáo viên phải năng động vận dụng tối đa
phương pháp dạy học theo hướng tích cực để học sinh chủ động tìm tòi, sáng tạo
tự lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, hiệu quả. Giáo viên phải tìm tòi để có
thể sử dụng một hoặc kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết học.
Thay vì áp dụng quan điểm và phương pháp dạy học trước đây (như đã đề
cập ở phần đặt vấn đề) là chỉ tập trung, chú trọng mở rộng vốn từ cho học sinh
chủ yếu trong phân môn Luyện từ và câu, Tập đọc...thì giờ đây giáo viên phải
biết chú trọng đồng đều, phát huy tối đa mục tiêu của các phân môn trong môn
Tiếng Việt. Đối với việc vận dụng trong thực tế dạy học môn Tiếng Việt lớp 2,
chúng ta cần biết rằng ở mỗi phân môn đều có một vai trò, nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng trong việc mở rộng vốn từ, rèn luyện kỹ năng dùng từ đặt câu, rèn
luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tư duy. Chẳng hạn như: trong
phân môn Tập đọc, quá trình rèn kỹ năng đọc cho học sinh giáo viên cần phải
giải thích nghĩa của những từ ngữ khác ngoài từ ngữ đã được chú giải, tức là
phải nắm được nội dung dạy từ ở phân môn này gồm những gì?
Ví dụ: trước đây, đối với một bài Tập đọc cụ thể nào đó, sau khi giáo viên
đọc mẫu, hướng dẫn học sinh luyện đọc, chúng tôi kết hợp tìm hiểu nội dung,
trong quá trình đó hướng dẫn học sinh nắm, hiểu nghĩa một số từ cơ bản sau đó
là rèn kỹ năng đọc cho học sinh. Còn bây giờ, để mở rộng vốn từ cho học sinh,
chúng ta phải thực hiện các bước sau:
- Đọc mẫu của giáo viên, giáo viên hướng dẫn sơ qua cách đọc.
- Tổ chức cho học sinh cách tìm, phát hiện từ khó, tiếng khó (khó cả về cách
phát âm, khó cả về nghĩa), câu khó (khó cả về cách đọc và cách hiểu). Từ đó
hướng dẫn học sinh hiểu những từ - tiếng - câu khó đó trong văn bản, trong ngữ
cảnh... Những từ khó ở đây không chỉ là những từ được chú giải ở sách giáo khoa
mà có thể là từ chốt nội dung bài hoặc từ mới đối với học sinh mà có liên quan
chặt chẽ tới nội dung bài. Còn câu khó giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định

khó ở chỗ nào, hoặc cho học sinh tìm từ, đặt câu, nói câu tương tự. Sau khi đã
hiểu thì tiến tới việc rèn kỹ năng đọc, nói, tìm hiểu nội dung bài đọc sẽ dễ dàng
hơn, hiệu quả hơn...
Đối với phân môn Luyện từ và câu, ngoài việc góp phần quan trọng giúp
các em mở rộng phát triển vốn từ, còn yêu cầu học sinh nắm được nghĩa một
thành ngữ, tục ngữ, có hoặc không có trong bài học, những liên quan đến nội
dung bài dưới hình thức bài tập thực hành phong phú, đa dạng về kiểu loại, nhằm
12


giúp học sinh nâng cao trình độ, năng lực sử dụng từ ngữ. Vì vậy, khi dạy phân
môn này, giáo viên cần nắm rõ bốn dạng bài tập cơ bản ở chương trình sách giáo
khoa gồm: dạng bài tập mở rộng vốn từ theo chủ điểm; dạng bài tập giúp học sinh
nắm nghĩa từ; dạng bài tập giúp học sinh luyện tập sử dụng từ; dạng bài tập giúp
học sinh phân nhóm các từ, hệ thống hoá vốn từ. Và trong mỗi dạng bài tập cơ
bản trên, giáo viên cũng cần nắm, hiểu rõ bản chất, phương pháp dạy học phù hợp
với mỗi kiểu dạng bài tập đó như: ghép từ cho sẵn vào hình vẽ tương ứng; gọi tên
các vật được vẽ ẩn trong tranh, dựa vào tranh tìm từ tương ứng.... Nói chung là
kết hợp cả mở rộng vốn từ, cách sử dụng từ, xếp từ thành câu, thành bài... Ở mỗi
dạng cần hướng dẫn học sinh diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau (vấn đề này đã
có trong chương trình - những bài học ở đầu và giữa học kỳ I). Tuy nhiên nếu còn
thời gian thì trong các tiết luyện tập giáo viên có thể biến đổi nội dung trong bài
tập ở mỗi dạng ra nhiều dạng, nhiều cách hỏi khác nhau để nắm cách hiểu của học
sinh và hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu, và hiểu nội dung bài tập.
Trong phân môn Tập viết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh kỹ thuật viết
chữ rồi mới mở rộng vốn từ. Nội dung mở rộng vốn trong phân môn Tập viết
được hiểu là các ngữ liệu (từ, cụm từ), vừa phục vụ tập viết vừa có tác dụng
cung cấp từ ngữ cho học sinh, giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ. Vì thế,
khi dạy học sinh tập viết từ, cụm từ ứng dụng, một việc yêu cầu giáo viên phải
làm và hướng dẫn học sinh là: giải nghĩa từ, cụm từ ứng dụng đó. Khi giải nghĩa

các cụm từ này, giáo viên có thể dùng cách diễn đạt mộc mạc, dễ hiểu phù hợp
với trình độ học sinh (có thể đa dạng những cụm từ, những thành ngữ cùng
nghĩa hay khác nghĩa để thay thế từ đã cho).
Nội dung dạy từ trong phân môn Chính tả thì chủ yếu giới hạn ở việc giúp
các em nắm nghĩa của từ và mở rộng vốn từ ở cả các ngữ liệu và bài tập chính tả.
Học sinh làm được bài tập chính tả tức là các em đã củng cố, khắc sâu nghĩa của
từ. Ở phần này sau khi học sinh viết chính tả, làm bài tập chính tả thì việc chấm,
chữa bài trực tiếp ở bảng là rất quan trọng. Bởi vì, có những từ khó, có khi học
sinh lại tìm và làm đúng, nhưng đôi lúc có những từ rất rễ nhưng do tính chủ quan
học sinh hay làm sai, nếu ta không chấm và chữa bài thì không biết được những
sai sót thông thường đó. Không chữa bài dẫn đến việc học sinh sẽ không nhận ra
các sai đó và có thể tiếp tục phạm cái sai này trong các bài sau.
Nói tóm lại: Khi dạy, giáo viên cần kết hợp sử dụng tối đa các phương pháp
để tiết học có hiệu quả. Ở phân môn Kể chuyện, với mục đích dạy từ, giáo viên cần
13


chú trọng tạo điều kiện để học sinh được luyện tập, sử dụng từ nhằm phát triển kỹ
năng nghe, nói. Cần cho học sinh luyện tập nhiều về từ ngữ - các từ trong tranh
trạng thái hoạt động, vận động để giúp học sinh có thể nối bằng một từ, một câu về
nội dung tranh đó. Từ đó học sinh có thể kể thành một nội dung trọn vẹn.
Đối với phân môn Tập làm văn, thì giáo viên phải nhận thấy được rằng:
với mục đích dạy từ thì dạy Tập làm văn chính là dạy sử dụng từ nhằm củng cố
các kỹ năng nói - viết - nghe - đọc phục vụ cho việc học tập, giao tiếp của học
sinh. Nội dung luyện tập, sử dụng từ ở phân môn Tập làm văn nhằm đạt được
các mục đích: học sinh hiểu từ để lĩnh hội văn bản và biết cách dùng từ chính
xác; mở rộng được vốn từ.
Trong việc dạy - học, giáo viên phải nắm rõ và thực hiện được mục tiêu
kiến thức trong từng phân môn Tiếng Việt, từ đó giáo viên phải biết lựa chọn, kết
hợp các hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Có liên quan, xâu chuỗi các phương

pháp học tập, lĩnh hội tri thức, mở rộng vốn từ một cách có hiệu quả nhất.
Ngoài việc rèn luyện kỹ năng mở rộng vốn từ, sử dụng từ ngữ trong giao
tiếp ở môn Tiếng Việt thì cũng cần rèn luyện kỹ năng này ở các môn khác cả
chính khoá và ngoại khoá. Tuy nhiên vì thời gian một tiết hạn chế nên giáo viên
cần nắm chắc mạch đi các nội dung chính của chương trình, đảm bảo không bỏ
sót nội dung trọng tâm và bám sát mục tiêu của bài.
Biện pháp thứ năm : Rèn cho học sinh tính tích cực, sáng tạo trong học tập:
Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý
chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con
người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Trong một lớp học trình độ
kiến thức, tư duy của học sinh không thể đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng
phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ
hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành một chuỗi
công tác độc lập. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên sự
tự tin giao tiếp cho các em nhất là mở rộng vốn từ. Trong phân môn Tập đọc giải
nghĩa từ giúp các em hiểu thêm về từ ngữ. Phân môn luyện từ và câu các em biết
cách dùng từ và đặt câu. Trong phân môn Chính tả giúp các em viết đúng chính
tả để hiểu nghĩa của từ. Vì vậy, trong các tiết học, môn học, giáo viên cần cho
học sinh thực hiện đúng vai trò của mình là nhân vật trung tâm, các em nắm vai
trò chủ đạo trong việc phát hiện, tìm tòi, lĩnh hội trí thức. Bên cạnh đó cần có sự
kiểm tra hướng dẫn thường xuyên, đánh giá một cách kịp thời, công bằng khách
14


quan của giáo viên. Sau đó là sự động viên khuyến khích của giáo viên để học
sinh thấy được vai trò, kết quả và sự cố gắng của mình trong việc học tập. Từ đó
các em sẽ cố gắng hơn, tích cực hơn, sáng tạo hơn nữa trong học tập.
Biện pháp thứ sáu : Kết hợp với phụ huynh hướng dẫn phương pháp học ở
nhà trong vấn đề mở rộng vốn từ:
- Để thực hiện tốt công tác kết hợp với các bậc cha mẹ, ngay từ đầu năm học

thông qua các buổi họp phụ huynh tôi thực hiện công tác tuyên truyền tới các
bậc phụ huynh và nội dung chương trình học, thống nhất một số biện pháp để
mở rộng vốn từ cho học sinh.
- Kết hợp các bậc cha mẹ không chỉ giúp cha mẹ và giáo viên có kiến thức, mà
còn giúp cha mẹ hiểu được thêm công việc của giáo viên ở lớp cũng như giáo
viên hiểu được hoàn cảnh và điều kiện sống của trẻ ở gia đình. Để có biện pháp
giáo dục phù hợp, tạo nên mối quan hệ thân thiết, cởi mở, thân thiện giữa phụ
huynh và giáo viên để mở rộng vốn từ cho học sinh. Ví dụ như chủ đề: Gia đình.
Trẻ biết được các thành viên trong gia đình, mối quan hệ, tình cảm và trách
nhiệm của các thành viên trong gia đình với nhau. Trẻ tôn trọng lễ phép với ông
bà, bố mẹ, yêu quý em nhỏ…biết công việc hàng ngày của bố mẹ.
- Ngoài ra phối kết hợp với các phụ huynh của lớp, kết hợp với nhà trường
trong việc tổ chức ngày lễ, ngày hội và các sự kiện đặc biệt ở trường tiểu học: tết
trung thu, tết thiếu nhi 1/6,…để các em có cơ hội giao tiếp tốt hơn.
Nếu giáo viên và phụ huynh có liên kết tốt, có ý thức trách nhiệm cao đối
với học sinh, đối với con em mình thì kết quả học môn Tiếng Việt nói riêng, kết
quả học tập nói chung sẽ được nâng cao. Có thể nói phụ huynh cũng là thầy cô
giáo ở nhà “chỉ dạy một học sinh là con mình” họ có thể ra bài, hướng dẫn, giảng
dạy con mình một cách rất hiệu quả. Nhờ vậy các em sẽ có điều kiện học tập tốt
hơn, vấn đề mở rộng vốn từ được phát triển, giao tiếp và tư duy sẽ tốt hơn.
Biện pháp thứ bảy : Kết hợp với tổ chức Đội và giờ Hoạt động ngoại khoá:
Hoạt động tổ chức Đội, hoạt động ngoại khoá không chỉ là một hoạt động
vui chơi giải trí đơn thuần. Nó thực sự góp phần bồi bổ kiến thức cho các em.
Chính hoạt động Đội, hoạt động ngoại khoá ở trong nhà trường đang góp phần giúp
các em tự tin, mạnh dạn hơn, dùng từ đặt câu phong phú. Ngoài ra giúp học sinh
tham gia, đem lại cho các em những giây phút thư giãn lý thú sau những giờ học
căng thẳng và còn giao tiếp tốt hơn. Vì vậy mà giáo viên phải kết hợp chặt chẽ với
tổ chức Đội trong nhà trường, thường xuyên cho học sinh tham gia đầy đủ các hoạt
15



động của Đội (như sinh hoạt Sao, tổ chức thi ngoại khoá...). Qua đó, học sinh ngày
càng quen hơn, nhuần nhuyễn hơn với hoạt động phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với
khả năng nhận thức của các em, để càng ngày các em càng mạnh dạn tham gia và
làm chủ được chính mình. Như vậy, các em không chỉ có điều kiện mở rộng rộng
vốn từ, mà còn thực hành vận dụng vốn từ vào các hoạt động, vào các tình huống...
Các em sẽ nhớ lâu các từ mình đã dùng. Vậy nếu có thể thì mỗi giáo viên chủ
nhiệm ngoài làm công tác chủ nhiệm, dạy học cần cố gắng học để trở thành một
phụ trách Đội cho trường mình nói chung và cho chính lớp mình nói riêng.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Sau khi dựa vào một số kinh nghiệm của năm trước kết hợp vận dụng một
số biện pháp được bổ sung ở năm học 2017 - 2018 để rèn kỹ năng mở rộng vốn
từ cho học sinh. Thực hiện đánh giá năng lực của học sinh giữa học kì II (theo
Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục
Đào tạo về việc đánh giá học sinh Tiểu học và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT
ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ Giáo dục Đào tạo về việc sửa đổi quy định
đánh giá học sinh Tiểu học), chất lượng và năng lực của học sinh lớp tôi dạy đã
được nâng lên rõ rệt so với kết quả khảo sát đầu năm, cụ thể như sau:
Tổng số
học sinh
(em)

Mức đạt
được
(điểm số)
Hoàn thành
tốt (điểm 9,
10)


32

Hoàn thành
(điểm
5,6,7,8)

Chưa hoàn
thành
(điểm dưới
5)

Số
lượng
(em)

14

18

0

Tỷ
lệ
(%)

Nhận xét

Nhóm HS này có vốn từ phong phú,
đa dạng và có kỹ năng tốt trong việc
43,7

sử dụng, vận dụng vốn từ của bản
thân để diễn đạt, giao tiếp.
Nhóm HS này có vốn từ trung bình,
chưa phong phú, có kỹ năng từ trung
bình đến khá trong việc sử dụng, vận
56,3
dụng vốn từ của bản thân, việc đọc,
nói đôi lúc chưa trôi chảy.

0

Nhóm HS này có vốn từ ít, kỹ năng sử
dụng vốn từ còn lúng túng, diễn đạt
kém, đôi lúc còn phát âm chưa rõ
trong khi đọc, nói.
16


Như vậy, sau khi vận dụng các biện pháp nói trên để rèn kỹ năng mở rộng
vốn từ học sinh lớp 2, kết quả học tập nói chung, kết quả học môn Tiếng Việt nói
riêng của học sinh lớp tôi đã tăng cao rõ rệt so với kết quả khảo sát đầu năm. Cụ
thể: 32/32 học sinh (đạt 100%) được đánh giá năng lực đều ở mức đạt được là
mức “Hoàn thành” trở lên, không còn học sinh mức đạt được là mức “Chưa
hoàn thành”. Trong đó có 14 học sinh (đạt 43,7 %) mức đạt được “Hoàn thành
tốt”, nhóm này tăng xấp xỉ 3,5 lần so với kết quả khảo sát đầu năm. Nhìn chung
vốn từ của các em được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là nhóm “Chưa hoàn thành”
(theo kết quả khảo sát đầu năm học) đã tiến bộ lên đạt mức “Hoàn thành” (theo
kết quả khảo sát giữa học kì II). Từ thực trạng học sinh nhóm này: có vốn từ ít,
kỹ năng sử dụng vốn từ còn lúng túng, diễn đạt kém, đôi lúc còn phát âm chưa
rõ trong khi đọc, khi nói (theo kết quả khảo sát đầu năm học) thì đến giữa học kì

II tình trạng này không còn nữa. Vốn từ của các em dần trở nên phong phú hơn;
kỹ năng vận dụng, sử dụng vốn từ khá linh hoạt, khá hình ảnh trong làm bài,
trong giao tiếp. Việc hiểu yêu cầu của từng bài, từng lời, từng ý ở các bài học,
bài tập trong sách giáo khoa cũng dễ dàng, đơn giản hơn.
Theo tôi, nếu áp dụng các biện pháp nói trên một cách nhuần nhuyễn vào
việc dạy học Tiếng Việt thì sau khi học xong lớp 2 học sinh sẽ có vốn từ khá
phong phú, việc sử dụng từ cũng chuẩn xác và hiệu quả hơn. Kỹ năng giao tiếp
sẽ tốt hơn tạo tiền đề để các em học tốt các phân môn trong Tiếng Việt (đọc, nói,
viết, làm văn,...) phù hợp với mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt cũng như tạo tiền
đề để các em học tốt các môn học khác bây giờ và cả ở các lớp trên.

17


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Như vậy, từ thực tế giảng dạy nhiều năm và một số năm dạy chương trình
lớp hai sau khi vận dụng những kinh nghiệm năm trước và một số kinh nghiệm
được bổ sung ở năm nay, tôi nhận thấy: Để học sinh có vốn từ đa dạng, phong
phú; có kỹ năng giao tiếp, sử dụng tốt Tiếng Việt thì giáo viên là người có vai trò
quan trọng nhất. Giáo viên phải là người thực sự yêu nghề, thực sự có tâm
huyết, thực sự vì học sinh. Giáo viên phải luôn luôn tìm tòi, học hỏi, kiên trì,
nhẫn nại trong quá trình dạy học. Ngoài ra giáo viên cần biết tận dụng sự hỗ trợ
đắc lực của phụ huynh, của tổ chức Đội, Sao... Nếu thoã mãn được các yêu cầu
trên thì kết quả học tập, đặc biệt là kỹ năng mở rộng vốn từ ở học sinh sẽ tiến bộ
rõ rệt.
2. Kiến nghị:
Từ những thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 2 tôi mạnh dạn đề xuất một
số kiến nghị sau:
a. Đối với học sinh, phụ huynh.

- Học sinh cần phải được tăng cường kiểm tra và uốn nắn; học sinh phải
học tích cực, độc lập suy nghĩ không có tính ỷ lại, trông chờ.
- Học sinh phải thường xuyên tự ôn tập để củng cố kiến thức theo từng
chủ điểm, hiểu biết về các cách dùng từ nhằm mở rộng vốn từ.
- Học sinh cần có thói quen rèn luyện cho mình các kĩ năng dùng từ đặt
câu và sử dụng từ chính xác thông qua các bài tập của môn học và được thực
hành nhiều bài tập Luyện từ và câu.
- Phụ huynh phải chú trọng quan tâm đến việc học hành và các hành động
của của con cái nhiều hơn. Ngoài ra cần liên hệ - phối hợp với giáo viên chủ
nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của các em, nhằm rèn luyện đạt hiệu quả cao
hơn, không nên trông chờ, phó mặc cho giáo viên.
b. Đối với nhà trường, giáo viên:
- Khuyến khích, động viên để phát huy hơn nữa tinh thần học tập và tính
tích cực của học sinh.
- Thường xuyên biểu dương, khen thưởng những em có thành tích tốt,
những em tiến bộ trong học tập để làm gương và tạo động lực phấn đấu học tập,
rèn luyện cho những học sinh khác.
18


- Giáo viên phải thường xuyên trau dồi kiến thức chuyên môn, phương
pháp giải bài tập để làm phong phú, tích luỹ thêm phương pháp giảng dạy đạt
kết quả cao.
- Giáo viên phải thường xuyên rèn viết, luyện nói cho học sinh thật chính
xác, kiểm soát quá trình học của học sinh nhằm biểu dương học sinh hoàn thành
tốt, phát hiện theo dõi và giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành một cách kịp thời.
c. Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Nên thường xuyên tổ chức các hội thảo chuyên đề về công tác giáo dục
và đặc biệt là phổ biến rộng rãi, triển khai áp dụng vào thực tiễn giảng dạy
những sáng kiến hay và có hiệu quả cao.

- Tổ chức các cuộc thảo luận về việc thực hiện Thông tư số 30/2014/TTBGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo dục Đào tạo về việc đánh giá
học sinh Tiểu học và Thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm
2016 của Bộ Giáo dục Đào tạo về việc sửa đổi quy định đánh giá học sinh Tiểu
học nhằm thu thập kinh nghiệm từ các cán bộ của ngành giáo dục và nhất là từ
những giáo viên trực tiếp đứng lớp - giảng dạy.
- Phòng nên tham mưu với Sở, Bộ áp dụng cách đánh giá học sinh Tiểu
học theo Thông tư số 32/2009/TT-BGDĐT ngày 27 tháng 10 năm 2009 về việc
đánh giá học sinh tiểu học (đánh giá bằng điểm số). Bởi vì theo cách đánh giá
hiện nay, việc hằng ngày giáo viên chấm – phê các em sẽ rất khó để phân biệt rõ
được năng lực, chất lượng học tập của các em như cách đánh giá bằng điểm số.
- Phòng cần tạo điều kiện để giáo viên được tiếp cận, học tập nhiều
phương pháp giảng dạy mới có hiệu quả cao hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi được rút ra trong quá
trình giảng dạy của năm học 2017 - 2018. Theo tôi, đó là những việc làm thiết
thực để góp phần cải tiến phương pháp dạy nhằm ngày càng nâng cao năng lực
học tập, rèn luyện của học sinh.
Vì điều kiện, thời gian và khả năng có hạn, chắc chắn sáng kiến còn nhiều
hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm giúp đỡ, góp ý, bổ sung của Hội
đồng khoa học, của Ban Giám hiệu nhà trường và của các đồng nghiệp để sáng
kiến được hoàn thiện hơn. Qua đó, giúp tôi nâng cao được năng lực giảng dạy,
mở rộng kiến thức chuyên môn, tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
19


Tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường cùng các bạn đồng nghiệp
trường Tiểu học Thiệu Dương, tập thể phụ huynh lớp 2A đã tạo điều kiện giúp
đỡ cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 26 tháng 3 năm 2018.

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
không sao chép nội dung của người khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Người viết

Hứa Thị Hợp

20


IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách Tiếng Việt 2 - NXB Giáo dục.
- Sách giáo viên Tiếng Việt 2 - NXB Giáo dục.
- Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 2 - NXB Giáo dục.
- Tiếng Việt nâng cao 2 - (Tác giả: GS.TS. Lê Phương Nga - NXB Giáo dục Việt
Nam).
- Hỏi đáp về dạy - học Tiếng Việt 2 – Tác giả: Lê Hữu Tỉnh.
- Phương pháp dạy- học Tiếng Việt ở Tiểu học - Tác giả: GS.TS. Lê Phương
Nga – Dự án phát triển Giáo dục Tiểu học.
- Dạy từ ngữ ở tiểu học - Tác giả: GS.TS. Lê Phương Nga.
- Báo "Thế giới trong ta".
- Báo "Dạy và học ngày nay".
- Các tài liệu tham khảo khác.

21




×