Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn mưu tả cho học sinh lớp 4,5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.13 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC LỚP 4, 5

Người thực hiện: Lê Văn Thanh
Chức vụ: chuyên viên
Đơn vị công tác: Phòng GD&ĐT Hoằng Hóa
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Quản lý

THANH HOÁ NĂM 2018

1


MỤC LỤC:
TT

1

2

3

Nội dung
A. MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHIỆM
1. Cơ sở của lí luận
2. Thực trạng của vấn đề
3. Các biện pháp chỉ đạo góp phần nâng cao chất
lượng dạy học Tập làm văn miêu tả cho học sinh lớp
4,5
- Biện pháp 1: Hướng dẫn giáo viên nắm vững

mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp
dạy Tập làm văn miêu tả;
- Biện pháp 2: Hướng dẫn xác định yêu cầu trọng
tâm đề bài;
- Biện pháp 3: Hướng dẫn rèn luyện kĩ năng quan
sát cho học sinh;
- Biện pháp 4: Giúp học sinh nắm đặc điểm của
từng kiểu bài miêu tả;

- Biện pháp 5: Chỉ đạo nhà trường thực hiện làm
giàu vốn từ cho học sinh thông qua các môn học và đọc
sách, báo ở Thư viện;
- Biện pháp 6: Hướng dẫn Lập và hoàn thiện dàn ý
- Biện pháp 7: Chỉ đạo giáo viên chấm bài và trả bài
viết;
- Biện pháp 8: Chỉ đạo Dự giờ, thao giảng, sinh
hoạt tổ, khối chuyên môn ở các nhà trường
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận
2. Đề nghị
* Tài liệu tham khảo
* Phụ lục

Trang

Ghi chú

02
03
03
03
04
05
07
08
09
11
12
13
14
15
16
18
20
21

2



MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC LỚP 4, 5
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc hình thành
những cơ sở ban đầu giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Những cơ sở đó là
nghe, đọc, nói, viết, yêu cầu học sinh không chỉ “ đọc thông” mà còn phải “ viết
thạo”. Trong các giờ Tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả, trở nên quan trọng
trong việc rèn tư duy, cách thể hiện, cách diễn đạt, cảm nhận, “ thần thái” của
các em về cuộc sống. Văn miêu tả chiếm khá nhiều thời lượng trong các thể loại
Tập làm văn. (Ở lớp 4,5 văn miêu tả có 30 tiết, chiếm khoảng 50% thời lượng
toàn bộ chương trình tập làm văn). Văn miêu tả được chia thành các kiểu bài
khác nhau căn cứ vào đối tượng miêu tả. Các kiểu bài miêu tả bao gồm: tả đồ
vật, tả cây cối, tả con vật, tả cảnh... Ở lớp 4,5 thì văn miêu tả chủ yếu tập trung
vào tả người, tả cảnh.
Tuy nhiên để học sinh viết một bài văn miêu tả vừa đúng vừa hay là điều
không dễ. Thực tế hiện nay khi đọc các bài văn miêu tả của học sinh, giáo viên
bắt gặp không ít bài văn tả bố, mẹ, cô giáo…rất “ ngô nghê” của học sinh. Các
em không chỉ lúng túng trong cách sắp xếp, trình bày mà còn không biết chọn
lựa, so sánh, diễn đạt như thế nào cho phù hợp …làm các em khó khăn trong
việc cảm nhận cái hay, cái đẹp trong các đối tượng được tả. Khi dạy học giờ
Tập làm văn, một số giáo viên chỉ hướng dẫn các em hoàn thành những nội
dung yêu cầu của bài tập dựa vào gợi ý trong sách giáo khoa và sách giáo viên.
Không ít giáo viên chưa, nâng cao tính tích cực, chủ động của học sinh, thiếu
tìm tòi tìm giải pháp khắc phục…Vì vậy, không phát huy hết năng lực của học
sinh cũng như giúp các em biết rèn dũa câu văn, ý văn. Còn học sinh, đa phần
các em chỉ dừng lại ở mức độ trả lời, liệt kê các chi tiết, các bộ phận của sự vật theo

gợi ý của thầy cô một cách máy móc, khuôn mẫu. Mặt khác, với đa số học sinh,
vốn từ ngữ của các em còn rất nghèo nàn, việc diễn đạt câu văn, ý văn còn
nhiều hạn chế, khiến bài văn vụng về, diễn đạt rườm rà, tối nghĩa, thậm chí khô
khan. . Hoặc có những em khi miêu tả một sự vật thì không biết phải bắt đầu từ
đâu, không biết phải tả những gì, tả thế nào, …
Vì vậy, số học sinh học giỏi môn Tiếng Việt ít đi so với các môn khác,
trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta. Vậy làm thế nào để nâng cao
chất lượng dạy- học Tập làm văn nhất là văn miêu tả cho học sinh lớp 4, lớp 5?
Làm sao để học sinh yêu thích môn Tập làm văn? làm sao học sinh có được
những bài văn miêu tả hay? Đó là câu hỏi lớn đặt ra rất nhiều suy nghĩ cho các
3


cấp quản lý cũng như cho rất nhiều thầy cô giáo luôn tận tình với nghề nghiệp
hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo, rút kinh nghiệm trong quá
trình dạy học và chỉ đạo thực hiện ở cấp tiểu học, tôi đã đúc kết: “ Một số biện
pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng viết Tập làm văn miêu tả cho học sinh
lớp 4, 5”, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập
làm văn nói riêng cũng như môn Tiếng Việt nói chung cho các trường tiểu học .
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Bài viết tập làm văn là sản phẩm học tập của học sinh, là kết quả mà
học sinh lĩnh hội được, hay khác đi, đó là “ đầu ra” của sản phẩm giáo dục.
Tập làm văn là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ
năng viết cho HS Kỹ năng viết thể hiện ở một số yêu cầu cơ bản như: học sinh
biết lập dàn ý, biết sắp xếp, lựa chọn ý, biết diễn đạt hình ảnh trọn vẹn, biết thể
hiện cảm xúc...Vậy giúp cho GV có các biện pháp chủ động để nâng cao chất
lượng viết là góp phần giáo dục cho HS phát triển tư duy, biết cách viết chủ
động, hiểu yêu cầu, mục đích viết; hình thành thói quen tự học, tự bồi dưỡng;
tạo sự tin, hình thành thói quen giao tiếp chủ động hoạt bát trong cuộc sống.

- Thông qua các bài văn miêu tả không chỉ giúp các em biết làm một bài
văn miêu tả hay mà còn giúp các em thêm yêu cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ
tiếng Việt, biết tiếp cận với các hình ảnh văn học, biện pháp nghệ thuật sơ giản;
ham đọc sách, làm giầu vốn ngôn ngữ; yêu quê hương, yêu cuộc sống, mọi
người....
- Giúp cho HS có thêm các kỹ năng sống cần thiết, biết lựa chọn các viết
sao cho ngắn gọn, phù hợp, dễ hiểu, khả năng tự tin, khả năng diễn đạt trước
mọi người, phát triển tư duy tái tạo, sáng tạo, sự tự tin, chủ động trong việc rèn
kỹ năng sống cho học sinh hiện nay.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Việc dạy học phân môn Tập làm văn và các biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn miêu tả lớp 4,5
- Đối tượng khảo sát thực nghiệm: Giáo viên và học sinh lớp 4,5 trường
TH. Hoằng Phúc, trường tiểu học và THCS Hoằng Đức.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CƯU
- Nghiên cứu tài liệu;
- Phương pháp thực hành;
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu;
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Thảo luận, trao đổi, góp ý với cán bộ quản lý, GV cốt cán, giáo viên chủ
nhiệm lớp, phụ huynh học sinh....
B. NỘI DUNG SÁNG KIÊN KINH NGHIỆM
4


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
M.Góc-ki đã từng nói “văn học là nhân học”, học văn là học làm người.
Do đó, việc dạy tập làm văn ở tiểu học không chỉ góp phần rèn luyện cho học

sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, biết cách giao tiếp trong cuộc sống mà còn
biểu hiện những hiểu biết thực tế, tâm tư, tình cảm của các em trong cuộc
sống...Văn miêu tả chính hình ảnh sự vật, con người, cảnh vật …được tái hiện
thông qua lăng kính của người viết – học sinh.
Theo QĐ số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt - mục tiêu dạy học Tập làm
văn là: Cung cấp, hướng dẫn cho học sinh biết lập dàn ý cho bài văn, viết được
bài văn theo dàn ý đã lập có đủ 3 phần, lời văn trôi chảy, câu văn bước đầu có
cảm xúc; biết nói, viết câu có dùng phép so sánh, nhân hóa; biết kiểm tra, rà
soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách trình bày.
Từ đó bồi dưỡng tình yêu, cái đẹp, cái thiện, lòng trung thực, lòng tốt, lẽ
phải và sự công bằng xã hội.
2. Cơ sở tâm sinh lý:
Ngôn ngữ được hình thành ở 2 dạng là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Tập làm văn là dạng ngôn ngữ viết, giúp học sinh hình thành năng lực diễn đạt
và tư duy trí tuệ, giúp học sinh hình thành nên năng lực tư duy để làm việc sau
này.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi đang có nhiều tò mò, khám phá cũng
như muốn được thể hiện những cảm xúc, tư duy, cảm nhận về cuộc sống của
mình.
Môn tập làm văn và văn miêu tả sẽ giúp các em có thêm những nhận thức,
tố chất cần thiết để tiếp tục vươn lên, phát triển, trưởng thành.
3. Cơ sở của phương pháp dạy học Tiểu học:
Tập làm văn là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là
hình thành năng lực viết cho học sinh, giúp các em có thói quen quan sát và làm
việc, làm giàu kiến thức ngôn ngữ, đời sống và văn học. Đây chính là mục tiêu
dạy học của mỗi giáo viên khi dạy tập làm văn.
Luôn đổi mới phương pháp dạy học Tập làm văn, trong đó có văn
miêu tả luôn là then chốt trong việc nâng cao chất lượng viết văn của học sinh.
Đây là việc làm thiết thực mà mỗi cán bộ quản lý cũng như giáo viên đứng lớp

suy nghĩ tìm cách dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ Tập làm văn.
Để học sinh hiểu và viết được bài Tập làm văn miêu tả, cảm nhận được
cái hay, cái đẹp của cuộc sống thì trước tiên thầy (cô) giáo phải coi trọng việc tổ
chức các bước lên lớp của mình trở thành kỹ năng, kỹ xảo; biết phối hợp nhịp
nhàng các phương pháp dạy học, hình thức dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy,
5


từng yêu cầu và đối tượng HS thì tiết Tập làm văn mới trở nên hiệu quả và có tác
dụng thiết thực với HS.
II.THỰC TRẠNG DẠY HỌC TẬP LÀM VĂN TRƯỚC KHI ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Thực tế dạy và học hiện nay vẫn còn những tồn tại sau:
- Về phía học sinh:
Do khả năng tiếp cận, cũng như rèn luyện của học sinh còn hạn chế, nhiều
học sinh không biết phải bắt đầu tả từ đâu, tả như thế nào, lựa chọn hình ảnh gì
để tả.....Dẫn đến có nhiều bài văn “ buồn cười” vì sự “ chân thật “ của học sinh
đến bất ngờ. Ví dụ có em miêu tả: “ Nhà em nuôi một ông bố” , “Cô giáo em
mặt đỏ như mặt trời, chân đi xào xạc tựa mây bay”, hay “ đôi mắt mẹ em tròn
như mắt con cún nhà em...”, “ Riêng em đứng nhìn theo thầy cho đến khi thầy
xa dần, xa dần, đến khi nhỏ bằng con chó em mới quay lại”.
Hoặc có học sinh khi viết bài thì quá ngắn đọc không ra ý gì cả, khô khan
và chẳng hình dung định nói cái gì. Bên cạnh đó có em lại viết rất dài, cái gì
cũng viết. Bài văn lại trở nên mông lung, lủng củng, rườm rà, khó hiểu, văn tả
mà như văn kể...vì không đúng trọng tâm. Ví dụ có em viết: Con đường từ nhà
đến trường dài ngoẵng, em đi mỏi cả chân..
Có em lại lệ thuộc, bắt chước vào tài liệu tham khảo làm cho bài văn
khuôn sáo, gượng ép, nhạt nhẽo không phải của mình...
Cá biệt có em làm bài lạc đề “ tác thành ra tộ”...
Nhiều em không thích giờ Tập làm văn vì khó làm, khó viết....Thậm chí

có em còn ngủ gật trong giờ viết bài.
- Về phía giáo viên: Giờ dạy Tập làm văn trở nên “khô, khó, khổ” vì GV
phải xử lý tính hướng nhiều, hướng dẫn, giải thích nhiều, ít có đồ dùng minh
họa. Nhiều giáo viên khi thao giảng GV giỏi cũng lắc đầu ngán ngẩm khi bắt
phải bài dạy Tập làm văn.
Một bộ phận GV ít có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị, tham khảo tài liệu
nên lên lớp thiếu dẫn chứng thực tế, minh họa cho GV, khiến cho bài học nhiều
khi xa rời thực tế, khô khan. Ví dụ có GV khi hướng dẫn các em tả cảnh vật có
liên hệ cảnh trời, mây nhưng chưa bao giờ cho các em quan sát bầu trời xem như
thế nào.
- Về phía các cấp quản lý: hiện nay việc dự giờ, đánh giá, nhận xét các
giờ tập làm văn: lập dàn ý, viết bài, trả bài...ít được đưa vào chương trình sinh
hoạt chuyên môn hoặc thao giảng
- Về phía xã hội: Hiện nay tâm lý xã hội có xu hướng trọng các môn học
tự nhiên, ít quan tâm tới các môn học xã hội, trong đó có môn Tiếng Việt. Nhiều
phụ huynh không thích con mình học giỏi Tiếng Việt hoặc các khối xã hội...
2. Khảo sát thực tế chất lượng viết tập làm văn của HS đầu năm học
2016 – 2017:
6


Qua kết quả khảo sát cho thấy vẫn còn một bộ phận HS vẫn chưa biết
cách viết bài Tập làm văn miêu tả, hoặc bài viết sơ lược, nhàm chán, rời
rạc...Đây là một thực tế đáng trăn trở, đáng cân nhắc:
Bảng tổng hợp kết quả khảo sát viết tập làm văn:
Bài viết đủ bố cục Bài viết đủ bố cục Bài viết thiếu bố
Nội dung
ba phần. Sắp xếp ba phần. Sắp xếp cục hoặc không có
được các ý, nêu được các ý, nội bố cục rõ ràng.
được các nội dung dung tả còn sơ Sắp xếp chưa rõ ý,

cần tả, cảm xúc cá lược, cảm xúc cá nội dung tả lan
nhân. Câu văn nhân mờ nhạt. Câu man, thiếu cảm
Số
viết rõ ràng, ít sai văn viết chưa rõ xúc. Câu văn lủng
HS
lỗi ngữ pháp, ràng, sai một số lỗi củng, sai nhiều lỗi
chính tả.
ngữ pháp, chính tả. ngữ pháp, chính tả.
Lạc đề
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Khối/Lớp
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
116
26
22.4
59
50.9
31
26.7
5
121
28

23.1
64
52.9
29
24.0
Cộng
237
54
22.2
123
44.9
60
27.1
Từ thực tế khảo sát, kết quả trên ta thấy chỉ có 22,2% học sinh viết bài
văn tương đối đạt yêu cầu. 44,9% bài viết ở mức hoàn thành và hoàn thành khá.
Tuy nhiên vẫn còn 27,1% học sinh chưa hoàn thành. Trong đó cá biệt có 5 học
sinh làm bài ở mức yếu: 6%” .
Từ kết quả nêu trên, chúng ta thấy rằng việc chỉ đạo giảng dạy cũng như
học Tập làm văn cần có những biện pháp đồng bộ, nhất là từ phía dạy học của
giáo viên để tạo ra một cuộc “ cách mạng” trong thay đổi chất lượng học Tập
làm văn hiện nay, giống như G.Hécđéc đã nói “ Mùa xuân không gieo, mùa hè
không mọc, mùa thu không gặt, mùa đông sẽ đói meo”.
III. CÁC BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
HỌC PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 4,5

1. Biện pháp 1. Hướng dẫn giáo viên nắm vững mục tiêu, nội
dung, chương trình và phương pháp dạy Tập làm văn miêu tả:
Tônxtôi đã từng nói: “Điều quan trọng không phải ở vị trí ta đang
đứng mà là hướng ta đang đi tới”. Trước tiên giáo viên phải cho học sinh hiểu
được thế nào là văn miêu tả ? Để giúp học sinh làm văn miêu tả được tốt thì thầy

giáo phải làm gì?
Miêu tả là lấy câu văn để tái hiện cuộc sống, giúp người đọc như được
nhìn tận mắt, sờ tận tay sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, người thầy
phải xác định đúng mục tiêu, nội dung chương trình, chọn lọc, vận dụng phương
7


pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần gì,
chưa biết những gì để xác lập được mối quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến
thức sẵn có của học sinh, huy động được năng lực học sinh trong giờ học mới là
điều quan trọng trong dạy học.
Để làm được điều này, tôi hướng dẫn Ban giám hiệu nhà trường, tổ
chức Hội thảo từ đầu năm học để giúp giáo viên rà soát lại các yêu cầu này,
trước khi vào tổ thức dạy học cho học sinh. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững
những vấn đề sau:
a. Mục tiêu, nội dung, chương trình Tập làm văn lớp 4,5: Cả năm có
62 tiết trong đó Tập làm văn miêu tả 33 tiết (chiếm hơn 50% số tiết) với mục
tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các
môn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc
thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
b. Phương pháp dạy học từng kiểu bài: Hướng dẫn học sinh phân tích
ngữ liệu và làm bài tập thực hành theo các biện pháp sau:
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập.
- Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
c. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai
loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành. Khi dạy
từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh của lớp: có nội
dung cho học sinh hoàn thành, hoàn thành tốt; có nội dung cho học sinh chưa
hoàn thành hoặc có những em quá yếu,...

Ví dụ:
Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế
nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng
và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua
quan sát đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị bài mới của
giáo viên).

2. Biện pháp 2. Hướng dẫn xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Đây là một việc làm cần phải có mỗi giáo viên khi dạy Tập làm văn cho
HS. ở nội dung này, qua khảo sát, đa số giáo viên đều đã làm rất tốt. Bài văn của
học sinh được viết theo một đề bài (yêu cầu) cụ thể, cho nên các em phải viết
đúng trọng tâm đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3
yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng
tâm.
Ví dụ: Luyện tập tả cảnh - Lớp 5
Thông qua việc đọc bài Buổi sớm trên cánh đồng , giáo viên sẽ giúp học
sinh xác định nội sung của đoan văn qua các câu hỏi gợi ý:
- Tác giả tả gì? ở đâu? – Buổi sớm trên cánh đồng
8


- Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm đấy? Hình ảnh, từ ngữ gợi
tả?....
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp
học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định
nội dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 2 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: tả Buổi sớm trên cánh đồng.
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp

nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...

3. Biện pháp 3. Hướng dẫn rèn luyện kĩ năng quan sát cho học
sinh
Điều đầu tiên để giúp cho HS làm tốt bài văn miêu tả, thầy giáo phải biết
hướng dẫn cho HS cách quan sát.
Ví dụ: khi dạy bài Luyện tập quan sát cây cối – Tuần 22 lớp 4, giáo viên
đặc biệt chú ý việc gợi mở cho học sinh cách quan sát:
Việc chuẩn bị cần thiết ở đây là GV đã gợi ý cho học sinh quan sát trước,
hay cho HS sưu tầm hình ảnh một số cây cối mà học sinh quen thuộc hoặc yêu
thích. Nhờ có việc chuẩn bị như vậy HS và GV hoàn toàn chủ động trong việc
quan sát. Đặc biệt không đoán mò. Khi học sinh miêu tả cây nào GV có thể đưa
tranh hoặc chiếu hình ảnh cây đó để HS dựa vào trả lời. Nếu học sinh lúng túng,
tùy từng em, GV có thể dẫn dắc bằng hệ thống gợi ý:
- Cây em yêu thích nhất là cây gì?
- Cây trồng ở đâu?
- Nhìn toàn cảnh ( từ xa) hình dáng cây thế nào?
- Lại gần cây thì thấy những gì ( lá,thân, cành, gốc, rễ, hoa, quả ….); màu
sắc, mùi vị (nếu có) như thế nào?; điểm nổi bật nhất của cây?
Sau khi HS thấm được “nội dung” cần tả, GV gợi ý cho HS các cách quan
sát khác, như:
a. Quan sát theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 4, lớp 5 trình tự này
được vận dụng khi miêu tả loài vật, đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1:
Tả từ ngoài vào trong: “ Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa
Lĩnh. Trước đền, những khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm
nhiều màu sắc bay dập dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ
vàng Nam Quốc Sơn Hà uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”

Ví dụ 2:
9


Tả từ dưới lên trên “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy
hơn cành khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ
Lạng).
b. Quan sát theo trình tự thời gian:
Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau)
thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả
cảnh vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ 1:
“...Buổi chiều, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng hoe.
Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo sặc
sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn,
người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt” (Đường đi Sa Pa- Tiếng Việt
4).
Ví dụ 2:
c. Quan sát theo đặc điểm nổi bật nhất:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ:
“ Buổi trưa, ngồi trong nhà nhìn ra sân, thấy rất rõ những sợi không khí
nhỏ bé, mỏng mảnh, nhẹ tênh, vòng vèo lượn từ mặt đất bốc lên, bốc lên mãi”
( Nắng trưa – TV lớp 5 – Tập 1)
“ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai
vai, xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên

tay, bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày. (Bà Tôi
- Tiếng Việt 5- Tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả cái năng trưa – rất nóng, hay mái tóc
“dày kì lạ”, giọng nói rồi đến ánh mắt của bà.
Để có thể quan sát và “ vẽ “ được như ví dụ trên, thầy giáo cần hướng
dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị
giác, xúc giác, vị giác,...) để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả. Có
vậy mới thâu tóm được những âm thanh, hính ảnh, cảm giác vào trong bài viết
của học sinh một cách sống động.
Ví dụ : Khi dạy bài: cấu tạo của bài văn miêu tả con vật- Lớp 4 – Tuần 29.
Để giúp HS biết chon cách quan sát, giáo viên có thể xây dựng 1 dàn ý sẵn để
HS lụa chọn cách quan sát cho riêng mình:
- Mở bài: Giới thiệu về con mèo
- Thân bài:
10


+ Các em sẽ lựa chọn cách quan sát con mèo:
* Từ ngoại hình – đến bộ phận:
* Từ đặc điểm nổi bật của con vật: có bộ lông màu vàng muốt, đôi mắt
xanh lè, thích đùa giỡn…
Để các em có thể so sánh và lựa chọn cách tả cho mình, điều này sẽ giúp
HS có những cách tả riêng mình, độc đáo, phong phú..
Nhờ phương pháp này mà sau một thờ gian, các giáo viên đều thấy đa
phần ( khoảng 80% HS chủ động trong cách tả, biết lựa chọn cách tả và ít có em
tả giống nhau, mỗi em đề có cách tả của riêng mình.

4. Biện pháp 4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài
miêu tả:
Tập làm văn có nhiều kiểu (hay dạng) bài; GV có giúp học sinh năm bắt

được các kiểu bài thì mới có thể giúp cho HS biết viết bài có chất lượng hơn. Cụ
thể:
a. Kiểu bài tả cảnh: Cần lưu ý những vấn đề sau:
- Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa
chọn trình tự quan sát, để cảnh quan sát bộc lộ ra những điều cơ bản tại một thời
điểm nhất định. Mỗi mùa, mỗi buổi, mỗi vị trí sẽ giúp cho HS có cái nhìn khác
nhau về cảnh vật để đưa vào bài làm.
Ví dụ: Mùa hè, cây phượng trước sân trường nở hoa đỏ rực một góc trời
báo hiệu một mùa chia tay bạn bè, mái trường nữa lại đến.
- Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc
điểm đó lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp
phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
Ví dụ: Tán phượng thì xòe rộng ra như cái dù phi công trùm lây một
khoảng sân rộng, che bóng mát cho tụi nhỏ chúng tôi. Trên những cành phượng
cao tít chim chóc thường đến đây ca hát líu lo làm cho sân trường không chỉ rộn
rã tiếng trẻ thơ mà còn âm vang cả một bản hợp xướng yêu đời của người và
chim.
- Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so
sánh hoặc nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như
đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ :
Sau đây xin trích một số câu trong bài văn tả cảnh: “Mưa rào” của Tô
Hoài (Sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 31): “Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt
bay, bụi nước tỏa trắng xóa… Mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào
lòng lá chuối. Tiếng giọt tranh đổ ồ ồ.”
11



b. Kiểu bài tả người: Cần chú ý:
- Tả hình dáng:
Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác, giới tính - mỗi lứa tuổi, giới tính khác
nhau sẽ có sự phát triển về cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những
hành động thể hiện theo giới tính, thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống…. Khi
miêu tả cần tập trung vào việc làm sao nêu được cái chung và cái riêng của con
người được miêu tả.
Ví dụ: : Khi hướng dẫn Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con người
ở lớp 4, GV chú ý cho học sinh nhấn mạnh vào từ ngữa,hình ảnh nổi bật: “ A
Cháng đẹp người thật. Mười tám tuổi, ngực nở vòng cung, da đỏ như lim, bắp
ta, bắp chân rắn chắc như trắc, gụ” (TV lớp 5- Tập 1- Trang 119).
- Tả hoạt động:
Khi tả người, điều cần chú ý nữa là quan sát hoạt động. Qua quan sát
khuôn mặt, dáng đi, cách nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi
bật.... Giáo viên cần gợi mở để học sinh tả được những hoạt động cụ thể gắn với
nhân vật định tả.
Ví dụ: Tả người thợ rèn đang làm việc:
+ Bắt lấy thỏi thép hồng như bắt lấy một con cá sống
+ Quai những nhát búa hăm hở khiến con cá lửa vùng vẫy, quằn quại, giãy
đành đạch, vảy bắn tung tóe thành những tia lửa sáng rực…
- Tả tính nết kết hợp tả ngoại hình, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tả kết hợp cả hình dáng, tính nết, hoạt động để nội
dung bài văn miêu tả gắn bó, súc tích và sinh động hơnhơn.
Ví dụ: Trong bài văn tả “Cô Chấm” (sách Tiếng Việt 5- tập 1) nhà văn
Đào Vũ đã viết: “Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với
mưa để cho cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm
khác...”

5. Biện pháp 5. Chỉ đạo nhà trường thực hiện làm giàu vốn từ

cho học sinh thông qua các môn học và đọc sách, báo ở Thư viện
Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng bài
đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ điểm.
Với vai trò quản lý và chỉ đạo chuyên môn, tôi hướng dẫn các nhà trường thực
hiện như sau:
a. Làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt:
- Môn Tập đọc không chỉ giúp các em đọc, hiểu được nội dung của các
đoạn văn, khổ thơ có ý nghĩa miêu tả (cảnh vật, con người,...) mà còn giúp các
em học hỏi cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ sao cho hay, cho đúng. Những
bài Tập đọc ấy luôn là kho từ vựng cho học sinh chiếm lĩnh để làm “vốn”.

12


- Môn Luyện từ - câu là môn giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất khi
được thao tác, trải nghiệm với từ ngữ theo từng chủ đề: như tìm từ, ghép từ, đặt
câu, sắp xếp nhóm từ,...
Ví dụ 1: Tìm các từ ngữ nói về hạnh phúc ( TV lớp 5- tập 1-Trang 146).
Đặt câu với từ tìm được…
Tìm từ ngữ miêu tả dáng người… về đôi mắt, khuôn mặt, làm da,….
Ví dụ 2: Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dòng sông: dòng
sông như dải lụa, dòng sông như con trăn khổng lồ, dòng sông như người mẹ
hiền ôm ấp đồng lúa chín vàng...
b. Tăng cường vốn từ cho học sinh thông qua đọc sách, báo ở Thư
viện
Việc đọc sách ở Thư viện các trường gần đây luôn được chú ý khi việc
xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn Quốc gia luôn xác định Thư viện chuẩn là
một yếu tố “ cứng”. Nhờ vậy giúp học sinh bồi bổ kiến thức rất nhiều, nhất là
cho môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng, đúng như
Goocky đã từng nói: “Sách vở như một kho vườn tuyệt diệu, nơi có tất cả

những điều bổ ích và lý thú”. Đặc biệt tôi khuyến khích giáo viên khuyến
khích hướng dẫn cho học sinh ghi cảm tưởng, nhận xét về những câu chuyện đã
đọc vào một cuốn sổ theo gợi ý sau:
- Ngày đọc:….. ngày kết thúc…….
- Tên câu chuyện em yêu thích
- Nội dung câu chuyện
- Câu chuyện có nhân vật nào tiêu biểu?
- Em yêu nhân vật, hành động, việc làm nào? Vì sao?
- Em căm ghét, không thích… nhân vật, hành động nào, việc làm nào vì
sao?
- Đoạn văn nào em thích?
- Cảm nghĩ của em về câu chuyện, nhân vật, hành động đó…
Tuy nhiên, để học sinh thoải mái, tôi chỉ hướng dẫn học sinh lựa chọn 1
số gợi ý trên để ghi chứ không bắt buộc các em phải ghi tất cả.
Trên cơ sở đó, tôi chỉ đạo các trường tổ chức hoạt động cho học sinh
Giao lưu Kể chuyện, hoặc viết bài nêu cảm nghĩ của em về một câu chuyện,
nhân vật, hành động nào đó, gây ấn tượng cho học sinh. Trong các buổi sinh
hoạt giáo viên có thể lông ghép cho học sinh được trao đổi, thể hiện.
c. Biết cách sử dụng vốn từ:
Sau khi học sinh đã có một vốn từ nhất định, giáo viên giúp học sinh các
cách sử dụng vốn từ trong miêu tả như: sử dụng từ láy, gợi tả,…. sử dụng các
biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ...).
Ví dụ :
- Gió thổi - gió thổi vi vu.
13


- Trông xa, đồng lúa như tấm thảm xanh mướt khổng lồ
- Giọt nước cam vàng như mật ong
- Dòng sông…., bao bọc lấy lấy làng xóm quê em. (hiền hoà, mềm mại…)


6. Biện pháp 6. Hướng dẫn Lập và hoàn thiện dàn ý
Để làm một bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn,
đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... không chỉ yêu
cầu học sinh phải có vốn kiến thức về từ ngữ, câu mà còn phải hiểu được cách
xây dựng văn bản bằng cách lập dàn ý.
Mục đích xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu
của từng phần: mở bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả
để tránh tình trạng học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
Sau khi lập dàn ý giáo viên giúp học sinh hoàn thiện dàn ý. Đây là bước
quan trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất. Khi làm bài
vào vở, học sinh cần chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả. Khi làm bài
xong học sinh biết cách kiểm tra lại bài viết của mình.
Thực tế, có nhiều em không thực hiện được, bởi có em không biết lập dàn
ý.
Để giúp các em dễ dàng hơn trong việc tự lập dàn ý cho bài văn, khi dạy học
các bài Cấu tạo của bài văn miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối và tả loài vật), tôi chủ
động giúp các em dựa vào nội dung phần Ghi nhớ trong sách giáo khoa, cùng xây
dựng một dàn bài chung cho loại bài văn miêu tả đang học. Dàn bài chung này tôi
sẽ ghi cố định ở một bảng phụ để làm cơ sở cho học sinh xây dựng dàn ý riêng cho
mỗi bài văn miêu tả sau này.
Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (sách giáo khoa
lớp Bốn, tập hai, trang 112), giáo viên bám vào nội dung phần ghi nhớ, dùng
câu hỏi gợi ý, dẫn dắt cho các em xây dựng dàn bài chung cho bài văn miêu tả
con vật:
Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
- Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con
vật, nơi nó ở, lí do em thích nó,…)
Thân bài:
a) Tả hình dáng.

- Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi, miệng
(mõm, mỏ), tai, …; mình: thân, lưng, bụng, ngực,…; chi: móng vuốt, cựa,…;
đuôi, cánh, ...), ...
b) Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
- Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn, …)
- Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt chuột;
con chó: giữ nhà, mừng chủ; …)
Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
14


+ Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu
vắng khi đi đâu về mà không trông thấy nó, …); Em làm gì để thể hiện tình cảm
của em đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ, …)

7. Biện pháp 7. Chỉ đạo giáo viên chấm bài và trả bài viết
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả
người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Tôi nhận thấy rằng có
chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Chấm bài:
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi hướng dẫn giáo viên
đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem
thử học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Giáo
viên ghi ra sổ chấm bài những chỗ hay, chưa hay hoặc sai những lỗi gì...của từng
HS.
Khi chấm điểm xong cho cả lớp, giáo viên đánh giá chung kết quả bài làm
của học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa
chữa bổ sung để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới…..
b. Trả bài viết:
Nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5,

theo sách giáo khoa xác định có 3 hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và
rút kinh nghiệm (TV5- T1- T53).
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên thực hiện các hoạt động trả bài
một cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp
theo các bước sau:
Bước 1. Nhận xét chung về bài làm của lớp
- Đánh giá việc thực hiện các yêu cầu của đề bài (cho học sinh nhắc lại
yêu cầu của đề, thể loại, nội dung và trọng tâm). Đánh giá tình hình làm bài của
lớp, biểu dương cá nhân, cả lớp...
- Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của kiểu
bài tả cảnh, ( tả người, vật )… Đọc một vài đoạn văn đã chọn sẵn cho học sinh
nghe và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá chung về nội dung đoạn văn đó.
Bước 2: Nhận xét, chữa lỗi
- Nhận xét về dàn bài của học sinh được thể hiện qua 3 phần: mở bài, thân
bai, kết bài
- Nhận xét, sửa lỗi về dùng từ , đặt câu:
Giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét, sửa chữa kịp thời, uốn
nắn kĩ năng diễn đạt cho cá nhân và lớp.
Cụ thể:
15


+ Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là luyện từ -câu
và thực trạng viết câu.
+ Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời

khen, chê của cô giáo. (Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết câu,
lỗi chính tả…)
+ Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.
Bước 3: Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số
em cho cả lớp nghe để học tập và rút kinh nghiệm.
Việc đọc này gây hứng thú cho học sinh vì các em được nghe bài của bạn
và so sánh với mình. Nhất là đcượ trao đổi góp ý để nhận thấy bài văn nào hay,
có ý nghĩa để các em học tập lẫn nhau.
8. Biện pháp 8. Chỉ đạo Dự giờ, thao giảng, sinh hoạt tổ, khối chuyên
môn ở các nhà trường
Để giúp giáo viên có thể học hỏi, giao lưu, trao đổi, rút kinh nghiệm thì
việc sinh hoạt tổ, khối chuyên môn một tác nhân rất quan trọng để người thầy “
tôi luyện”. Như Bác Hồ đã nhấn mạnh: “Gian nan rèn luyện mới thành
công”. Qua nhiều lần Tập huấn, hội thảo, truyền “ đam mê” tìm tòi, khám
phá,thấm đẫm mồ hôi, công sức, trí tuệ nhiều giáo viên mới tạo cho mình một “
bản lĩnh, kỹ năng khi dạy phân môn Tập làm văn một các hiệu quả. Đương
nhiên việc sinh hoạt này phải xây dựng thành Kế hoạch, phân công thực hiện và
một cách bài bản với vai trò quản lý đắc lực của Ban giám hiệu nhà trường.
* Các biện pháp tổ chức thực hiện: Chỉ đạo nghiên cứu và tổng kết
rút kinh nghiệm cho từng tổ khối , nhà trường và toàn huyện. (dùng cho
nhiều năm học)
1. Căn cứ vào kết quả báo cáo và khảo sát thực tiễn từ các trường tiến
hành thử nghiệm, tôi hướng dẫn các nhà trường triển khai như sau :
- Tháng 8/2017: Cấp huyện: Tập huấn, giải đáp thắc mắc, dự giờ rút kinh
nghiệm. Ở trường tổ chức khảo sát và thống kê chất lượng, phân loại đối tượng
học sinh.
- Tháng 9-10/2017: Tổ chức dạy học giúp HS khắc phục theo các biện
pháp nêu trên. Tổ chức cho học sinh đọc sách, nêu cảm nghĩ. Khảo sát lần 2,
đánh giá kết quả, mức độ đạt được của từng học sinh.
- Tháng 11-12/2017: Tiếp tục bồi dưỡng, theo dõi, theo đối tượng học

sinh;
- Tháng 1/2018: Tổ chức kiểm tra, khảo sát lần 3. Họp sơ kết, rút kinh
nghiệm.
- Tháng 2-3/2018: Tiếp tục bồi dưỡng, theo dõi, giúp đỡ HS. Cuối tháng
3, tổ chức Giao lưu kể chuyện, sưu tầm những đoạn thơ văn hay…cấp trường .
16


- Tháng 4/2018: Bồi dưỡng, khảo sát, đánh giá chất lượng lần 4.
- Tháng 5/2018: Bồi dưỡng, củng cố chất lượng phân môn Tập làm văn.
Bàn giao nghiệm thu chất lượng.
Trao đổi, xếp loại việc thực hiện của GV qua kết quả kiểm tra, đánh giá.
Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm sau 1 năm học thực hiện.
* Ghi chú: Đây chỉ là kiểm tra, khảo sát của nhà trường nhằm nghiệm thu,
kết quả dạy học của GV. Trong quá trình dạy học GV thường xuyên hướng dẫn,
kiểm tra HS thông qua các bài cụ thể.
2. Hướng dẫn nghiệm thu kết quả và tổ chức tổng kết và đề xuất các
phương án có tính khả thi để rút kinh nghiệm tốt hơn cho những năm học tiếp
theo. Đặc biệt tập trung nhấn mạnh nội dung tổng kết kinh nghiệm :
+ Về cách dạy của GV,
+ Các biện pháp của GV trong quá trình giúp HS;
+ Những vướng mắc hiện nay trong quá trình dạy học phân môn Tập làm
văn
+ Những đề xuất của cán bộ quản lý, giáo viên trực tiếp dạy học, cả ý kiến
đóng góp của phụ huynh hoặc của nhân dân nói chung.
3. Sau khi tổng kết, Phòng GD- ĐT tổ chức các chuyên đề về việc dạy học
phân môn Tập làm văn miêu tả trong dịp hè và triển khai kế hoạch cho năm học
mới.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ

TRƯỜNG
Với những biện pháp như đã trình bày thông qua cá ở trên đã giúp cho
quản lý và giáo viên tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn
miêu tả). Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn.
Việc vận dụng các biện pháp trên yêu cầu giáo viên phải chủ động, tích
cực, và tiến hành đồng bộ, có vậy mới đạt hiệu quả cao mà qua thực nghiệm
tôi đã rút ra.
Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc
viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết
miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn
đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả,
gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý
văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa.
Qua những biện pháp và giải pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến cuối
học kì II năm học 2017 - 2018 các em đã nắm được một số vốn kiến thức nhất
định để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Các em đều thích môn học,
không sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa, tự tin khi học tiết
Tập làm văn.
17


Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn sau khi áp dụng đề tài này
thật đáng phấn khởi, đây là kết quả của một quá trình phấn đấu. Chất lượng
phân môn Tập làm văn đi lên rõ rệt đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao
chất lượng môn Tiếng Việt của lớp và của tổ chuyên môn
Kết quả khảo sát cuối năm học 2017-2018 phân môn Tập làm văn đã có
những thay đổi sau:
Nội dung

Số

HS

Khối/Lớp
4
5
Cộng

116
121
237

Bài viết đủ bố cục
ba phần. Sắp xếp
được các ý, nêu
được các nội dung
cần tả, cảm xúc cá
nhân. Câu văn
viết rõ ràng, ít sai
lỗi ngữ pháp,
chính tả.

Bài viết đủ bố cục
ba phần. Sắp xếp
được các ý, nội
dung tả còn sơ
lược, cảm xúc cá
nhân mờ nhạt. Câu
văn viết chưa rõ
ràng, sai một số lỗi
ngữ pháp, chính tả.


Hoàn thành tốt
SL
TL
51
44.0
55
45.5
106
44.7

Hoàn thành
SL
TL
60
51.7
62
51.2
122
51.4

Bài viết thiếu bố
cục hoặc không có
bố cục rõ ràng.
Sắp xếp chưa rõ ý,
nội dung tả lan
man, thiếu cảm
xúc. Câu văn lủng
củng, sai nhiều lỗi
ngữ pháp, chính tả.

Lạc đề
Chưa hoàn thành
SL
TL
5
4.3
4
3.3
9
3.8

Sau một thời gian chỉ đạo, thông qua văn bản hướng dẫn, qua việc tổ chức
chuyên đề cụm, qua trao đổi trực tiếp, qua kiểm tra, dự giờ, qua báo cáo rút kinh
nghiệm ở một số nhà trường áp dụng biện pháp trên, tôi thu được kết quả sau:
Đa số giáo viên có thói quen chủ động hơn trong việc xây dựng mục tiêu
bài học và hoàn thành được kế hoạch dạy học và có phương pháp dạy học phù
hợp sáng tạo đạt kết quả.
Đa số sự đánh giá của quản lý cũng đi cùng với giáo viên không có sự
đánh giá khác biệt làm cản trở sự sáng tạo của giáo viên.
Đa số giáo viên chú ý rèn được cả hai đối tượng học sinh: hoàn thành tốt
và chưa hoàn thành.
Qua 1 năm thực hiện đến nay (năm học 2017-2018), tôi thấy chất lượng
phân môn Tập làm văn miêu tả đạt kết quả đáng mừng.
Tôi tin rằng, với các biện pháp này được thực hiện thường xuyên và dần
được triển khai đều khắp trong các trường TH của huyện, thì chất lượng phân
môn Tập làm văn sẽ được cải thiện rất nhiều, góp phần tốt hơn trong công tác
chỉ đạo dạy và học Tiếng Việt hiện nay, khắc phục và hạn chế việc học yếu phân
môn Tập làm văn.
18



C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Tập làm văn là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Mỗi bài
văn của học sinh là một “tác phẩm văn học nhỏ” của các em mà người thầy phải
tôn trọng, giúp đỡ để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn, viết hay hơn.
Những biện pháp mà tôi áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cần có sự
vận dụng khéo léo, sáng tạo của giáo viên, từ sự chuẩn bị, đầu tư chu đáo, đồ
dùng trực quan, phương pháp lên lớp…để tổ chức giờ học, khơi dạy niềm say
mê, hứng thú của học sinh đối với phân môn Tập làm văn, giáo viên thực sự
phải yêu nghề, tâm huyết với học sinh. Đó cũng chính là điểm mấu chốt để thầy,
cô dạy học hiệu quả hơn. Từ đó giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, yêu quý
Tiếng Việt, xây dựng nhân cách sống cao đẹp; biết ứng xử, biết tự lập, tự học, tự
khẳng định…
Hy vọng rằng sẽ còn nhiều biện pháp hay và thiết thực sẽ tiếp tục được
bổ sung trong quá trình dạy học phân môn Tập làm văn nói riêng và dạy học
môn Tiếng Việt nói chung ở bậc tiểu học.
2. Kiến nghị:
a. Với giáo viên:
Ngay từ đầu năm học, GV tiến hành khảo sát bài làm Tập làm văn của
học sinh để xác định, phân loại đối tượng học sinh, từ đó có biện pháp cụ thể
giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn.
Dạy học là nghệ thuật, thầy, cô cần sức tinh tế, nhạy bén, biết lắng nghe,
kịp thời đưa ra các biện pháp để giúp học sinh rèn tư duy, kỹ năng viết, tạo cho
học sinh niềm say mê, yêu thích với phân môn Tập làm văn.
Giáo viên phải có sự kiên nhẫn, bền bỉ, cần phải thường xuyên lâu dài, kết
hợp lồng ghép trong cả các phân môn, môn học khác.
b.Với nhà trường:
- Cần tăng cường thêm tài liệu tham khảo, bổ sung thêm trang thiết bị, đồ
dùng dạy học.

- Khen thưởng, biểu dương kịp thời cho những em tiến bộ trong học tập.
- Xây dựng thư viện nhà trường đạt chuẩn, tăng cường các đầu sách, báo
về lĩnh vực thiếu niên, nhi đồng. Bố trí thêm các máy tính nối mạng internet để
cả Gv và HS có thể tranh thủ nghiên cứu, học tập thêm.
- Tổ chức giao lưu các Câu lạc bộ Văn học, Em yêu Tiếng Việt, Kể
chuyện, Cùng em đọc sách…
- Phát huy vai trò của cốt cán trong từng đơn vị, tổ khối chuyên môn, xây
dựng kế hoạch, tổ chức triển khai thực hiện, đánh giá nghiệm thu đồng bộ kết
quả, rút kinh nghiệm từ dạy học thực tiễn.

19


c. Với phụ huynh:
Tăng cường trao đổi với giáo viên, nhà trường để cùng giúp đỡ học sinh
học tập, quan tâm đến việc học của con em mình khi ở nhà.
3. Phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT:
- Tổ chức chuyên đề về dạy học Tập làm văn, mở các chuyên mục, hội
thảo, diễn đàn trao đổi về biện pháp dạy học phân môn Tập làm văn.
- Cần tăng cường về chuyên đề, hội thảo, phát huy tính tích cực hơn nữa
các chuyên đề cụm, thi giáo viên giỏi….
- Tăng cường cơ sở vật chất- thiết bị dạy học.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Hoá, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung người khác
Người thực hiện


Lê Văn Thanh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên sách

Tác giả

Chương trình tiểu học năm
2000
Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 5 tháng 5 năm
2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
Dạy kĩ năng đọc trong Chương
trình tiểu học năm 2000
Tài liệu Bồi dưỡng thường
xuyên cho giáo viên Tiểu học
chu kì III (2003-2007), tập 2.
Một số vấn đề đổi mới đánh
giá kết quả học tập môn Tiếng
Việt ở Tiểu học
Dạy học đọc hiểu ở Tiểu học
Phương pháp dạy học Tiếng
Việt

TS.Nguyễn Thị Hạnh

Lê A, Bùi Minh Toán,
Nguyễn Quang Ninh

8

SGV Tiếng Việt lớp 1,2,3,4,5

Nguyễn Minh Thuyết

9

SGK Tiếng Việt lớp 1,2,3,4,5

Nguyễn Minh Thuyết

10

Giải đáp 88 câu hỏi về giảng
dạy Tiếng Việt ở tiểu học

Lê Hữu Tĩnh, Trần
Mạnh Hưởng

1

2

3

4


5
6
7

Nhà xuất bản
Bộ GD&ĐT
11/2000

Nghiên cứu GD

TS.Nguyễn Thị Hạnh

NXBGD- Hà Nội
NXBGD- Hà Nội
NXBGD Hà Nội
Nhà xuất bản
Giáo dục
Nhà xuất bản
Giáo dục
Nhà xuất bản
Giáo dục

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:
Lê Văn Thanh
Chức vụ và đơn vị công tác: Chuyên viên Phòng GD&ĐT Hoằng Hóa
TT

1

2

3

Tên đề tài SKKN
Dẫn luận về nhân vật
trung tâm trong truyện
thần thoại và cách dạy
một truyện Thần thoại
ở bậc THCS
Một số biện pháp nâng
cao hiệu quả một giờ
Tập đọc
Biện pháp chỉ đạo dạy
học phân môn viết
chính tả ở bậc tiểu học

Cấp đánh giá
xếp loại (Phòng,
Sở, Tỉnh...)

Kết quả đánh giá
xếp loại (A, B,

hoặc C)

Phòng GD&ĐT
Sở GD&ĐT

-Loại A
-Loại B

Phòng GD&ĐT
Sở GD&ĐT

-Loại A

Phòng GD&ĐT

(10/9/1997)

1995-1996

1996-1997

-Loại B (6/8/1998)
-Loại A (số: 145
ngày 22/6/2011)

Sở GD&ĐT

Năm học
đánh giá
xếp loại


- Loại A (539

2010-2011

ngày 18/10/2011)

4

5

Biện pháp chỉ đạo dạy
học phân môn viết
chính tả
Một số biện pháp góp
phần nâng cao chất
lượng phân môn tập
đọc

Hội đồng khoa Loại A (số 3078
học tỉnh
ngày 3/9/2013).

2012-2013

Phòng GD&ĐT -Loại A (số: 208
ngày 22/6/2016

Sở GD&ĐT


-Loại B (số: 972

2015-2016

ngày 24/11/2016)

22



×