Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm dạy văn miêu tả của phân môn tập làm văn lớp 4 theo hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.3 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Thời đại hiện nay, trước sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển
nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, quá trình hội nhập, xu hướng toàn cầu hóa,...
học sinh không còn như chúng ta ở độ tuổi đó. Học sinh ngày càng năng động,
nhạy bén với cái mới. Cách nghĩ, cách cảm của các em cũng đã thay đổi. Người
giáo viên phải nắm bắt được điều này để có phương pháp dạy học cho phù hợp,
tránh bị tụt hậu.
Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khảng định: Phải
chuyển đổi căn bản toàn bộ nền giáo dục, từ chủ yếu nhằm trang bị kiến thức
sang phát triển phẩm chất và năng lực của người học, biết vận dụng tri thức vào
giải quyết những vấn đề của thực tiễn; chuyển nền giáo dục nặng về chữ nghĩa,
ứng thí sang một nền giáo dục thực học, thực nghiệm ( 4, tr.5).


Môn Tiếng Việt là môn học chiếm thời lượng nhiều nhất trong các môn
học ở Tiểu học. Học môn Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ
bản và tối thiểu cần thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng
sự phát triển của xã hội. Do đó có thể nói, việc học văn làm văn giúp các em bộc
lộ rõ nét nhất, trọn vẹn nhất những suy nghĩ riêng, tính sáng tạo, thể hiện chân
thực về con người mình. Vì thế việc dạy và học Tập làm văn luôn cần có sự đổi
mới. Bản thân tôi đang là giáo viên đứng lớp giảng dạy, đón nhận đưa kỹ năng
sống vào môn Tập làm văn nên cần nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của
mình với học sinh.
Năm học 2017 - 2018, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm giảng dạy lớp 4,
tôi nhận thấy một số học sinh viết câu sai ngữ pháp, dùng từ chưa phù hợp với
hoàn cảnh và đặc biệt là thiếu ý. Mặt khác, học sinh Tiểu học còn ham chơi, khả

năng tập trung chưa cao, chưa có những quan sát tinh tế, năng lực ngôn ngữ
chưa phát triển tốt, chưa thực sự biết cách diễn đạt điều muốn tả. Các em còn
khá e ngại, rụt rè, ngại phát biểu dẫn đến hiệu quả học tập chưa cao.Vì thế việc
đổi mới phương pháp dạy học tập làm văn theo hướng phát huy tích cực trong
hoạt động nhận thức của học sinh vào quá trình học tập, tự học và thực hành sẽ
giúp học sinh mạnh dạn, tự tin phát biểu trước đông người. Viiệc đổi mới
phương pháp học là hết sức cấp thiết.
Hơn nữa, đối với phân môn Tập làm văn tài liệu văn mẫu thì rất nhiều
nhưng tài liệu hướng dẫn tỉ mỉ phương pháp dạy học giúp học sinh viết tốt các
thể loại văn nói chung cũng như văn miêu tả nói riêng thì chưa có.
Chính vì vậy, dạy Tập làm văn như thế nào cho phù hợp với trình độ học
sinh lớp 4. Điều đó khiến tôi tìm tòi, suy nghĩ để tìm biện pháp giúp học sinh

học Tập làm văn tốt nhất. Tôi xin đề xuất: “Một số biện pháp giúp học sinh học
tập tốt văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 ”. Tôi hi vọng chúng ta
tìm ra được những biện pháp tốt nhất để thực hiện nâng cao chất lượng dạy học
Tập làm văn lớp 4.
1. 2. Mục đích nghiên cứu.
1. 2. 1. Giúp học sinh:
1


- Rèn kĩ năng quan sát tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, liên kết đoạn văn, diễn đạt
lưu loát, mạch lạc đoạn văn.

- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình yêu mến, gắn bó biết trân trọng những gì xung quanh các
em. Học sinh tự tìm tòi, phát hiện, chủ động chiếm lĩnh kiến thức; ứng dụng
thành thạo các tri thức đã lĩnh hội được vào trong cuộc sống; biết làm tốt một
bài văn miêu tả; có tiền đề tốt để viết văn miêu tả lớp 5.
1. 2. 2. Giúp giáo viên:
- Nhìn lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập
làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả học tập của học sinh

chưa cao.
- Nghiên cứu các biện pháp giúp học tập tốt văn miêu tả của phân môn
Tập làm văn lớp 4.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu.
*Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
Bản thân tôi đã phải tìm kiếm, xử lý và tóm tắt các nguồn tài liệu có liên
quan đến ý tưởng và sáng kiến nghiên cứu. Sáng kiến kinh nghiệm được kế thừa
từ những khung lý thuyết trước đó và được phát triển theo một hướng mới.
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
Qua thực tế lớp trực tiếp giảng dạy tôi thấy học sinh viết câu sai ngữ pháp,
dùng từ chưa phù hợp với hoàn cảnh và đặc biệt là thiếu ý nên tôi đã tiến hành
tìm hiểu, điều tra về cách viết văn miêu tả của học sinh khối 4, nghiên cứu để

tìm ra các nguyên nhân. Sau đó tôi tiến hành xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho
các em cách viết văn miêu tả lớp 4 - Theo hướng phát huy tính tích cực trong
hoạt động nhận thức của học sinh
*Phương pháp quan sát sư phạm
Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập làm văn của học sinh lớp
mình học sinh lớp khác trong khi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của
giáo viên giảng dạy, quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu
tả khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết
văn miêu tả của học sinh.
* Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
Đây là một phương pháp cơ bản của sáng kiến nghiên cứu. Phương pháp
này được áp dụng để xác định vấn đề nghiên cứu, thu thập số liệu, xử lí số liệu

và báo cáo kết quả đã nghiên cứu được.
* Phương pháp thực nghiệm
Với phạm vi nghiên cứu của sáng kiến tôi đã tiến hành thực nghiệm lớp mình
chủ nhiệm và giảng dạy ( Lớp 4Đ - Trường Tiểu học Thiệu Dương).
* Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác:
2


Phng phỏp m thoi, phng phỏp luyn tp - thc hnh,...

2. NI DUNG SNG KIN KINH NGHIM
2. 1. C s lý lun ca vic dy phõn mụn tp lm vn lp 4

Xut phỏt t mc tiờu ca dy hc vn miờu t:
a/ Yờu cu kin thc: Thể loại văn miêu tả.
- Hc sinh phi hiu th no l miờu t?
- Miêu tả đồ vật: Bit cỏch quan sỏt, tỡm ý, lp dn ý bi vn miờu t vt.
- Miêu tả cây cối: Bit cỏch quan sỏt, tỡm ý, lp dn ý bi vn miờu t cõy ci.
- Miêu tả con vật : Bit cỏch quan sỏt, tỡm ý, lp dn ý bi vn miờu t con
vt.
b/ Yờu cu k nng : Chơng trình TLV miêu tả (nhằm trang bị
cho học sinh những kĩ năng sản sinh ngôn bản), cụ thể:
- K nng nh hng hot ng giao tip
- K nng lp chng trỡnh hot ng giao tip
- K nng thc hin húa hot ng giao

Vic i mi phng phỏp dy mụn Tp lm vn, th loi vn miờu t
lp 4 cho chỳng ta thy trong vic tha k cỏi c, cỏi vn cú ũi hi phi l mt
s sỏng to. Vi cỏc phõn mụn khỏc ca Ting Vit trong vic i mi ni dung
v phng phỏp dy hc ch rừ quy trỡnh cỏc bc lờn lp rt c th rừ rng.
Cũn vi phõn mụn Tp lm vn, cỏc nh nghiờn cu ch a ra quy trỡnh chung
nht cho mi loi bi, ch yu vn l s sỏng to ca giỏo viờn khi lờn lp.
Chớnh vỡ vy dy Tp lm vn theo hng i mi Tiu hc núi chung v lp
4 núi riờng l vic lm cn thit giỳp hc sinh hc mụn Ting Vit tt hn v
cng l cng nõng cao cht lng giỏo dc trong nh trng.
Dy tp lm vn theo hng i mi nhm khớch l hc sinh tớch cc, sỏng
to, ch ng trong hc tp, bit din t suy ngh ca mỡnh thnh ngụn bn, vn
bn. Núi cỏch khỏc, cỏc phõn mụn trong mụn Ting Vit l phng tin h

tr cho vic dy tp lm vn c tt.
2. 2. Thc trng ca vn dy phõn mụn tp lm vn lp 4.
2. 2. 1. Thc trng chung v vn dy phõn mụn Tp lm vn lp 4.
n v trng Tiu hc Thiu Dng - ni tụi ang cụng tỏc cú 25 lp vi
883 hc sinh, trong ú khi 4 cú 4 lp vi 153 hc sinh. Xó Thiu Dng tuy ó
c sỏt nhp v Thnh ph nhng a s cỏc em u l con em nụng thụn, nhiu
em gia ỡnh cú hon cnh khú khn, b m i lm n xa cỏc em phi nh vi
ụng b. Bi vy, s quan tõm n vic hc hnh ca cỏc em cha sỏt sao. Kh
nng tip thu bi ca cỏc em cũn nhiu hn ch bi phõn mụn ny mang tớnh
tng hp kin thc ca tt c cỏc phõn mụn: Tp c, Chớnh t, Luyn t v cõu,
K chuyn. Cỏc phõn mụn ny u cú tỏc dng h tr ln nhau. c bit l
hc tt phõn mụn Tp lm vn cn cú s h tr tớch cc ca tt c cỏc phõn mụn

khỏc, nú ũi hi hc sinh phi cú kh nng t duy, sỏng to v kh nng din t
trc lp mi hc tt mụn hc ny ...
Mt khỏc, phõn mụn Tp lm vn lp 4 cú nhiu th loi: t vt, t cõy
ci, t con vt. Mi th loi bi l mt mch kin thc khỏc nhau m vic tip
thu bi ca hc sinh cũn hn ch, ớt ng nóo, s dng cõu cha phự hp, vn t
3


nghèo, ít đọc sách nên việc viết văn đối với học sinh là rất khó, bài viết khô
khan mang tính chất liệt kê.
2. 2. 2. Thực trạng việc giảng dạy Tập làm văn của giáo viên:
a - Thuận lợi:

- Sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục, trường, tổ chuyên
môn có vai trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn
Tập làm văn.
- Ban giám hiệu nhà trường quan tâm đến việc dạy học phân môn tập làm
văn, thường xuyên tổ chức các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo về phương
pháp dạy Tập làm văn giúp giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng
sư phạm.
- Các phương tiện thông tin đại chúng: Ti vi, đài, sách, báo... giúp giáo
viên tiếp cận với phương pháp đổi mới khi dạy Tập làm văn thường xuyên hơn.
b- Khó khăn:
Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người
giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. Đồng thời, phải có vốn sống

thực tế, người giáo viên phải biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng
dạy. Biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh. Chính vì thế
giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ.
2. 2. 3. Thực trạng việc học phân môn Tập làm văn của học sinh.
a - Thuận lợi:
- Môn tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội
dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị
dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học chương trình Tập làm văn lớp 2, lớp 3 nên các em
đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp
các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 4 - thể loại văn miêu tả đạt kết quả

cao.
b - Khó khăn:
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau
quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu
bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực
hành độc lập. Cụ thể là: Các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính
sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách
chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động. Một số học sinh
còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng
bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần lớn học sinh

dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
- Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài
miêu tả. Nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng
4


bài làm của các em còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm
xúc và nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ,
các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa….
Tóm lại: Mặc dù học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn Luyện
từ và câu nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi trên, kết
hợp với việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo nàn

nên bài văn miêu tả của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài
văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Từ thực tế trên, ngay từ đầu năm học 2017 - 2018, tôi đã tiến hành khảo sát
chất lượng môn Tập làm văn lớp 4.
Đề bài: Tuổi thơ ai cũng có những đồ chơi yêu thích đã từng gắn bó với
mình như một người bạn: Một bộ xếp hình nhiều màu sắc, một chiếc ô tô có dây
cót, một cô búp bê biết khóc.... Em hãy tả lại một trong những đồ chơi đó.
Kết quả cụ thể như sau:
Lớp

Số HS




38

Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Điểm Dưới 5


SL

TL

SL

TL

SL

TL


SL

TL

5

13,1%

14

36,9%


14

36,9%

5

13,1%

Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt, câu văn chưa có
hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, ý văn nghèo nàn, câu
văn lủng củng,... Do vậy, chất lượng bài viết của các em chưa cao. Học sinh
quan sát đồ vật khi tả không theo một trình tự hợp lý, chưa biết tìm ra những đặc

điểm riêng để phân biệt đồ vật này với đồ vật kia. Tỷ lệ học sinh đạt điểm yếu
( Chưa hoàn thành) còn nhiều. Kết quả này cũng thể hiện phương pháp giảng
dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học.
2. 3. Các biện pháp giúp học sinh học tập tốt văn miêu tả của phân môn
Tập làm văn lớp 4
Từ thực trạng việc dạy học phân môn Tập làm văn nói chung và việc dạy
học làm văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng tôi thấy cần thiết để có những biện pháp
sáng tạo trong văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu
học.
2. 3. 1. Biện pháp thứ nhất: Tạo hứng thú và động cơ học văn miêu tả ở học
sinh.
Tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá, tìm tòi

những điều mới mẻ. Học sinh Tiểu học dễ háo hức khi tìm hiểu về những vấn đề
mới, thú vị nhưng cũng dễ chán, nản lòng khi gặp nội dung khó, quá sức. Tập
làm văn là phân môn khó nhất trong môn Tiếng Việt nên học sinh cũng rất ngại
học nếu giáo viên chưa có phương pháp dạy học phù hợp với lứa tuổi các em.
Chính vì vậy, để tạo cho học sinh sự hứng thú và tự tin khi học văn, trước tiên
tôi đã phân loại học sinh để có các biện pháp dạy học phù hợp, các yêu cầu phù
hợp đối với từng đối tượng học sinh. Sau một thời gian ngắn nhận lớp, tôi đã
khảo sát và phân loại học sinh theo 3 mức: Hoàn thành tốt, hoàn thành và Chưa
hoàn thành ( Thông tư 22)
5



Đối với các em học sinh yếu (HS chưa hoàn thành), tôi cho các em trình
bày phần mở bài và kết luận. Thường thì học sinh yếu tôi gọi trong lúc này là để
các em có thể trình bày ngắn gọn các ý khi sai sót. Ngoài những nụ cười cởi mở,
giáo viên chỉ nên nhẹ nhàng sửa sai và động viên cho các em này. Ở phần thân
bài, tôi thường phân nhóm 4 cho các em thảo luận theo dàn ý:
Ví dụ: Tả về đồ vật: “Tả chiếc cặp sách”.
Yêu cầu thảo luận phần thân bài như sau:
+ HS1: Tả bao quát, hình dạng, màu sắc, chất liệu của cặp?
+ HS2: Tả chi tiết từng bộ phận của đồ vật: Các bộ phận bên ngoài của cặp? (mặt
cặp, nắp cặp, quai xách, dây đeo, khóa); Xoa lên da cặp em có cảm giác gì?
(trơn, nhẵn, ram ráp,...) .....
+ HS3: Tả bên trong cặp có mấy ngăn ? Mỗi ngăn đựng gì?

+ HS4: Chiếc cặp có ích lợi gì?
Em có thích cái cặp của em không? Tại sao?
Em dùng cặp, giữ gìn cặp như thế nào?
Sau khi thảo luận xong một nhóm học sinh trình bày:
+ HS1: Cặp hình chữ nhật, làm bằng vải giả da, màu tím, nắp màu đen. Dài hơn
hai gang tay của em, rộng khoảng một gang rưỡi. Cặp có nhiều màu rất đẹp.
+ HS2: Ở phía trên cặp có quai xách thật êm tay. Sau lưng là hai quai đeo. Hai ổ
khóa bằng sắt, mỗi khi đóng hoặc mở nghe “tách, tách” rất vui tai. Ngoài mặt
cặp có in hình chú chó đốm rất đẹp.
+ HS3: Phía bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn đựng sách, ngăn thứ hai đựng bảng
con, đồ dùng khác …, ngăn thứ ba nhỏ nhất đựng bút, thước, và các đồ dùng
như: áo đi mưa, chai nước, …

+ HS4: Chiếc cặp giúp em đựng sách vở không bị rơi rớt và không bị mưa ướt.
Em rất thích chiếc cặp vì nó là người bạn luôn đồng hành cùng e khi đến lớp.
Em giữ gìn nó rất cẩn thận và cứ cuối tuần e lại lau chùi sạch sẽ.
Mặt khác, công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn là tạo ra được động
cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết).
Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài nói hoặc viết theo kiểu bài do
chương trình quy định. Để sản sinh ra các bài văn này, học sinh phải có thêm
nhiều kĩ năng khác ngoài khả năng nghe, nói, đọc viết Tiếng Việt, kĩ năng dùng
từ đặt câu. Đó là các kĩ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kĩ năng lập dàn ý,
viết đoạn và liên kết đoạn. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc Tiểu học,
mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình
thành nhân cách cho học sinh. Trong đó, học văn miêu tả góp phần phát triển tư

duy hình tượng của trẻ được rèn luyện phát triển nhờ biện pháp so sánh, nhân
hóa... khi miêu tả.
Nhưng làm thế nào để thực hiện được những nhiệm vụ trên mà không
biến các em thành những “thợ” viết văn?
Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn. Trước hết
hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong đối tượng
miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây phượng đang ra
hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh em thấy cây hoa có đặc điểm gì mà nhà thơ
Xuân Diệu đã ví “như muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau” ?
6



Học sinh sẽ phân tích tìm đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của
cây hoa với muôn ngàn cánh bướm đậu khít nhau. Qua đây cũng rèn luyện cho
các em óc quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em
suy luận. Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những
kĩ năng sống khác. Như dạy các em biết giữ gìn đồ vật, tổ chức cho học sinh
trồng, chăm sóc và bảo vệ cây... Học sinh được trau dồi vốn sống, biết suy nghĩ,
có những cảm xúc, tình cảm. Từ đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ,
tình cảm bằng ngôn ngữ nói, viết. Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề
bài yêu cầu viết về những gì gần gũi thân thiết với học sinh, tạo ra được động cơ
nói năng, kích thích các em muốn nói,viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu.
Trong tiết kiểm tra viết (sách Tiếng Việt 4 tập 2 - trang 92) có 4 đề bài gợi ý.
Giáo viên nên dựa vào đó ra đề khác nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi

viết bài.
Ví dụ: Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Hãy tả một loài hoa mà em yêu thích.
Đề 4: Tả một vườn rau (hoa) gần nơi em ở.
Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó
trong suốt quá trình học tập và tiếp tục rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi
viết văn
2. 3. 2. Biện pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh nắm vững và thực hiện các
yêu cầu cơ bản khi viết văn miêu tả
Muốn học tốt dạng văn miêu tả thì trước hết học sinh phải nắm vững các
yêu cầu cơ bản khi viết văn miêu tả. Đây sẽ là nòng cốt giúp các em viết văn

miêu tả một cách hiệu quả. Giáo viên giúp học sinh nắm vững vàthực hiện các
yêu cầu sau:
* Đảm bảo yêu cầu quan sát đối tượng miêu tả:
- Quan sát tổng thể đối tượng, chú ý cả ở trạng thái động và tĩnh. Quan sát
bằng tất cả các giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác, cảm giác.....
- Nếu tả cảnh: cần quan sát tỉ mỉ từng phần (bộ phận) của cảnh theo trình
tự hợp lí (Ví dụ: Từ ngoài vào trong, từ bộ phận chủ yếu đến các bộ phận thứ
yếu), hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian (ví dụ: sáng, trưa, chiều, tối).
*Tả theo trình tự không gian
Từ quan sát toàn bộ đến quan sát từng bộ phận hoặc ngược lại. Tả từ xa
đến gần, từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải…hoặc ngược
lại. Trình tự này thường được vận dụng khi miêu tả loài vật, cảnh vật, đồ vật,

cây cối nói chung.
- Tả từ dưới lên trên:
Ví dụ: “ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dẽ gãy hơn cả cành
khế. Quả hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành”.
( Rừng hồi xứ Lạng, Tô Hoài )
Tác giả quan sát và tả rất tinh tế về cây hồi, rồi quả hồi và cuối cùng là
lá hồi theo trình tự dưới lên trên. Dùng lối miêu tả tĩnh với những tính từ ( thẳng,
cao, tròn xoe, giòn, dễ gãy…), dùng cách nói nhân hoá quả hồi phơi mình làm
cho sự miêu tả thêm gần gũi, sinh động.
7



- Tả từ ngoài vào trong
Ví dụ: “ Cái vành, cái áo đều làm bằng nan tre. Hai cái tai nó bằng tre già
màu nâu. Mỗi tai có một cái lỗ tròn xoe. Lúc nào, tai cùng tỉnh táo để nghe
ngóng. Cối có hai hàm răng bằng gỗ dẻ. U gọi là dăm. Răng có nhiều, ken vào
nhau”.
(Cái cối tân, Tiếng Việt 4 - Tập 1)
- Tả từ xa đến gần.
Ví dụ: “…Tôi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ vệt rừng đen, chim cất
cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ trong lòng đất chui ra, bò li ti đen
ngòm trên da trời. Càng đến gần, những đàn chim bay đen kít trời …Mỗi lúc tôi
càng nghe tiếng chim kêu náo động như tiếng xúc những rổ đồng tiền…”
(Trích Đất rừng Phương Nam, Đoàn Giỏi)

*Tả theo trình tự thời gian.
Quan sát diễn biến của thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, từ mùa
này sang mùa khác, từ tháng này sang tháng khác… Cái gì xảy ra trước (có
trước) thì miêu tả trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì tả sau. Trình tự này thường
được vận dụng trong bài văn tả cảnh vật, hiện tượng tự nhiên (tả cảnh) hay tả
cảnh sinh hoạt của người.
Ví dụ: “… Buổi chiều, xe dừng lại một thị trấn nhỏ. Nắng phố huyện vàng
hoe. Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần
áo sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị
trấn, người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt…”
( Đường đi Sa Pa, Nguyễn Phan Hách, Tiếng Việt 4 - Tập 2 )
* Tả theo trình tự tâm lý:

Thấy đặc điểm gì nổi bật, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản
thân ( buồn, vui, yêu, ghét…) thì tập trung quan sát trước, tả trước, các bộ phận
khác quan sát sau, tả sau… Trình tự này thường được vận dụng khi tả đồ vật, tả
loài vật, tả người. chỉ cần miêu tả những điểm nổi bật nhất, không nhất thiết phải
tả đầy đủ, chi tiết, như nhau tất cả các đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: “Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc biệt,
mùi thơm đậm, bay rất xa… Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm… Hoa đậu từng
chùm, màu trắng ngà… Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây
kì lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột…”.
( Sầu riêng, Mai Văn Thọ, Tiếng Việt 4 - Tập 2)
Muốn làm văn miêu tả trước hết các em phải biết có cái gì để viết, để tả.
Muốn tả đúng, tả hay phải quan sát. Giáo viên phải hướng dẫn các em tập quan

sát, cách quan sát để tìm ra cái mới cái riêng.
Ví dụ: + Quan sát ánh trăng: Khi vui em thấy trăng cười, mời gọi hay nô đùa với
em. Khi buồn, em lại thấy trăng trầm tư lặng lẽ, muốn chia sẻ.
+ Quan sát gió: Khi gió thổi nhẹ có em thấy vuốt ve, vỗ về, miên man
trên da thịt, có em lại thấy gió thầm thì trò chuyện, gió hát ru...
+ Quan sát cơn mưa mùa hạ: Có em thấy mây dày đặc hơn, quánh lại với
nhau và như hạ thấp xuống. Rồi đột nhiên: rào, rào...Mưa đổ xuống xối xả. Có
em thấy mây phía đông ùn ùn kéo đến.. Hạt mưa bắt đầu rơi, những giọt nước
8


mưa thật to lộp bộp rơi xuống mái nhà. Có em thấy mưa tuôn rào rào, xối xả trên

mái nhà mặt đường, muôn nghìn hạt mưa đổ xuống .
Trong quan sát, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát sự vật ở nhiều
thời điểm, hoàn cảnh, trạng thái, nhiều hoạt động khác nhau để tìm ra cái riêng,
cái mới trong văn miêu tả .
Ví dụ: Quan sát con vật: Quan sát con mèo ngủ, sưởi nắng, bắt chuột, rình
mồi, khi leo cây, để thấy được những nét khác nhau từ ánh mắt, bước đi, cách
vẫy đuôi, tiếng kêu...của nó, cụ thể hơn nữa bình thường con mèo kêu meo meo
nhưng khi đánh nhau, khi vồ chuột và cả khi sợ nó lại kêu ngao ... gừ... Mèo ngủ
cũng có nhiều cách ngủ, khi thì cắm đầu xuống giấu trong hai chân trước, khi lại
ngửa mặt, vênh râu lên.
2. 3. 3. Biện pháp thứ ba: Cung cấp vốn từ giúp học sinh tích lũy vốn từ và
biết học tập từ ngữ, hình ảnh hay khi làm văn.

a. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các
biện pháp nghệ thuật khi miêu tả.
Muốn tạo ra một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có
vốn từ ngữ phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù
hợp. Chính vì vậy giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập
đọc, luyện từ và câu và cả trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói
chuyện trong các tiết sinh hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các
chủ đề, chủ điểm, khi có một từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay
theo từng chủ điểm và khi làm văn có thể sử dụng một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu
cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện
pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh

hay những từ biểu lộ tình cảm.
Ví dụ: Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo chúng ta cần miêu tả
những đặc điểm sau:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng mọc.
Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn?
Học sinh có thể nhận xét: bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái
đuôi mèo như một cái măng mọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi
của chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu
nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân

thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.
Như vậy khi miêu tả về chú mèo, những câu văn sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả
khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ
cuốn hút người đọc, người nghe.
b. Giúp học sinh tích lũy vốn từ miêu tả và làm giàu trí tưởng tượng của các
em trong làm văn miêu tả.
9


Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu
văn có hình ảnh, học sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy,

giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu
tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả: Tích luỹ vốn từ:
Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc
sách, báo; xem, nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn
bè; cô giáo cung cấp;..Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng
để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như: Các từ thường dùng
trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu; xum
xuê; rực rỡ; đo đỏ;… Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật:
tròn xoe, nhỏ nhắn,… Các từ thường dùng trong miêu tả con
vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,… Các từ miêu tả đó thường là
những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh, … để miêu tả cho sinh
động. Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng: Tưởng

tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình
ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự
hình dung về đối tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ
hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta
thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm
tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối
tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay
kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong lòng người viết. Giáo viên có
thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách: Không trực tiếp
quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng. Nhắm
mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối
tượng, những ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật

xung quanh. So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng
khác tương đồng. Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối
tượng. Nhân hoá hay tự nhiên hoá một vài hình ảnh đặc sắc ở
đối tượng. Dự đoán trước khả năng và những điều tốt đẹp mà
đối tượng có thể vươn tới. Liên tưởng với những điều mình đã
biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối tượng từ trước tới nay.
Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc
đưa vào bài viết của mình. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở
bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục bài văn. Khi học sinh
thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm
cách diễn đạt ( dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ,
so sánh, nhân hoá,…).

Vì vậy, yêu cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh
động, bộc lộ được cảm xúc, bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong
từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh thể”. Các bài tập
được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngôn bản và chứa
đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (
xác định yêu cầu nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết
10


đoạn văn, liên kết đoạn văn thành bài,…). Kĩ năng viết của học
sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước
khi viết một bài văn hoàn chỉnh.

Do đó, trong quá trình thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ
năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu
cầu sau: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định nội dung
viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết.
c. Biết học tập từ ngữ, ý văn, hình ảnh hay khi làm văn:
Nói cách khác là biết học tập, “trộm” những câu văn, ý văn mà mình đọc
được của bạn bè, thầy cô, văn mẫu hay ở đâu đó rồi biến nó thành ý riêng trong
câu văn, bài văn của mình. Tôi khuyến khích các em tích cực đọc sách, báo
hoặc những bài văn hay (văn mẫu) và ghi chép lại những chi tiết, hình ảnh mình
thích vào một cuốn sổ tay. Sau đó sẽ chọn lựa một số câu và ghi ra giấy dán vào
mục “Lời hay ý đẹp” ở lớp để giới thiệu cho các bạn khác cùng tham khảo.
Chính bản thân tôi là người thường xuyên đọc những “lời hay ý đẹp” mà các

em sưu tầm được để khi gặp trường hợp có thể vận dụng, “trộm” những từ ngữ,
ý văn đó mà các em không nhớ, không biết vận dụng tôi sẽ chủ động gợi ý giúp
các em nhớ lại, tập vận dụng vào bài của mình. Hoặc khi phát hiện các em biết
học tập, bắt chước cách diễn đạt, cách dùng từ ngữ, ý văn của người khác
(không sao chép), tôi sẽ động viên, khích lệ các em tiếp tục phát huy. Ngoài ra,
tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách
dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các
bước:
+ Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, bàn bạc, suy nghĩ tìm ý hay,
cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp.
+ Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài
làm của mình.

2. 3. 4. Biện pháp thứ tư: Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài,
kết bài và nội dung bài văn
a. Xây dựng đoạn văn mở bài:
Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo cách nào để cho
các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của
từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói tới, có
thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát vào yêu
cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm ra. Giáo viên có thể cho học sinh
làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các
bạn nhận xét. Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:’’Hè vừa rồi,
mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể.Chú ta là thành viên thứ năm của

gia đình em, nay đã được bốn tháng”.
- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách mở bài nào? ( trực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:” Nhà
em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính
gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền
dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em.”
11


Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để
mở bài một cách hợp lý nhất.
b. Xây dựng đoạn văn kết bài:

Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi
đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng
miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm
phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm
kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn
người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm
phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua
những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được
những kết bài hay.
Ví dụ: Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của
dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bến đò, hoặc đi xa về, ngắm
nhìn ba cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê, là tình

quê vơi đầy.”
Văn chương không phải là sợ đúng, sai với làm văn đúng thôi chưa đủ phải
thấm đượm cảm xúc của người viết. Song tình cảm không phải thứ gò ép bắt
buộc, tình cảm ấy phải chân thực, hồn nhiên, xuất phát từ chính tâm hồn các em.
Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc
lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo
viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách
thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập
xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
c. Xây dựng nội dung bài văn (lựa chọn và sắp xếp ý để miêu tả)
Nội dung bài đầy đủ, phong phú là yêu cầu không thể thiếu được của một
bài tập làm văn tốt. Với yêu cầu này ta cần tiến hành qua các bước: tìm ý, lập

dàn bài chi tiết theo bố cục 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài), các từ ngữ nối để
liên kết câu chặt chẽ, trôi chảy.
- Khi làm bài viết, yêu cầu học sinh: Đọc kĩ, hiểu yêu cầu của đề bài.
+ Phân tích đề : Đề thuộc thể loại văn gì? Nội dung miêu tả ai? Con gì? Vật gì?
Cảnh ở đâu? Tả vào lúc nào? bộ phận nào?
- Biết dựa vào dàn ý đã xây dựng, các đoạn văn đã viết ở tiết trước để viết thành
một bài văn hoàn chỉnh.
Sau đó, học sinh bám sát yêu cầu của đề bài, huy động vốn thực tế (mà các
em đã được hướng dẫn quan sát qua khâu chuẩn bị) để lựa chọn được những nét
nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng, đầy đủ.
Ví dụ: Để giúp học sinh làm tốt bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn có
chứa câu mở đoạn như sau: Chú gà nhà em đã ra dáng một chú gà trống

đẹp) của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật (sách Tiếng Việt
lớp 4 - tập hai, trang 130), thì ở tiết học trước đó, tôi yêu cầu các em:
+ Chọn hoặc nhớ lại một con gà trống mà em đã gặp.
+ Quan sát (hoặc nhớ lại) và ghi lại các đặc điểm của từng bộ phận của
nó. Chú ý ghi thật chi tiết những bộ phận nổi bật của con gà đó.
12


a.Phần mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật)
bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
Trong bài tập làm văn phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho người
đọc. Các em có thể vào bài bằng một câu hay một đoạn nhưng cần phải bám sát

vào nội dung yêu cầu đã được xác định. Dựa vào mở bài của mỗi em mà giáo
viên góp ý, không gò bó, không áp đặt. Ví dụ: Khi tả con vật, các em có thể vào
bài: “ Đã lâu em được bố mẹ cho về quê chơi. Qua khỏi cổng làng, em bước thơ
thẩn trên con đường nhỏ dẫn tới đầm sen. ở một góc đầm trống, một đàn vịt bầu
đang lặn hụp kiếm mồi. Từ đó giúp các em viết được bài văn tốt mang tính nghệ
thuật cao.
b.Phần thân bài: Ở phần này tôi cho học sinh phát triển theo nhiều ý khác nhau.
Tả đồ vật: Ví dụ: Đề bài: “ Tả một đồ chơi mà em thích”. Tôi cho các em
làm theo các gợi ý sau:
* Muốn miêu tả đồ vật, trước hết phải quan sát đồ vật đó là đồ vật gì? (búp bê,
gấu bông, cái chong chóng,..)
* Quan sát theo một trình tự hợp lí.

+ Nhìn bao quát:
+ Quan sát từng bộ phận ( bên ngoài/ bên trong, bên trên/ bên dưới, đầu/ mình/
chân tay,..)
* Nên quan sát bằng nhiều giác quan.
- Dùng mắt để xem hình dáng, kích thước, màu sắc,...của đồ vật như thế nào.
- Dùng tay để biết đồ vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi hay thô ráp, nặng hay nhe.,...
- Dùng tai để nghe đồ vật khi được sử dụng có phát ra tiếng động không, tiếng
động ấy như thế nào.
- Cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt nó với những đồ
vật khác, nhất là những đồ vật cùng loại.
- Tả cây cối: Từ gợi ý của các bài văn mẫu, biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn
trái quen thuộc theo hai cách đẫ học: Tả lần lượt từng bộ phận của cây hoặc tả

lần lượt từng thời kì phát triển của cây.
Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ, ấn tượng về đối tượng miêu tả theo kiểu
mở rộng hoặc không mở rộng.
Có nhiều cách kết bài khác nhau cho một bài văn miêu tả nhưng đều phải
xuất phát từ nội dung chính mà các em vừa khai thác được ở phần thân bài. Để
thực hiện tốt điều này chúng ta có thể gợi mở:
Ví dụ: với đề bài"Tả một đồ chơi mà em thích", ta có thể hỏi: Em hãy nói
tình cảm của em với đồ chơi mà em thích. Giáo viên gợi mở cho học sinh nói
theo ý của mình, cảm nghĩ của mình qua bài văn miêu tả mà các em đã chuẩn bị
sau đó Giáo viên chắt lọc, sửa sai (nếu cần).
2. 3. 5. Biện pháp thứ năm: Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài học khi dạy tập
làm văn lớp 4.

Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng thiết
thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực,
phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu
học sinh, năng lực ngôn ngữ…lòng yêu nghề, niềm tin sự nhiệt tình và lòng đam
13


mê nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức
của sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được
thực hiện hoá qua bài giảng trên lớp giúp học sinh hiểu bài tốt hơn.
Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra quy trình dạy tiết Tập
làm văn lớp 4 - thể loại văn miêu tả theo hướng đổi mới thể hiện qua kế hoạch

bài học như sau:
I. Mục tiêu :
Nêu những yêu cầu cần đạt của bài học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
II. Đồ dùng dạy học :
GV chuẩn bị dồ dùng dạy học phù hợp với nội dung, yêu cầu bài học
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu :
1. Hoạt động 1 : Củng cố kiến thức đã học ở tiết trước
2. Hoạt động 2 : Giới thiệu nội dung bài dạy
3. Hoạt động 3 : ( Đối với loại bài lý thuyết ) Hình thành khái niệm
- Phân tích ngữ liệu : + Học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập
+ Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập
+ Giáo viên tổng kết ý kiến và kết luận

- Ghi nhớ kiến thức : Học sinh nêu lại phần ghi nhớ trong SGK
4. Hoạt động 4 : Hướng dẫn luyện tập.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành một số bài tập trong tiết học
nhằm củng cố kiến thức đã học.
5. Hoạt động nối tiếp.
Giáo viên chốt lại những kiến thức, nội dung bài học. Nhận xét tiết học.
* Đối với loại bài thực hành Giáo viên giới thiệu bài và hướng dẫn học sinh thực
hành; Củng cố tiết học.
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức
phát triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả
tâm hồn mình vào bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả
theo một dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận

với niềm say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng trước khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp,
đồ dùng, phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ
của học sinh. Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp
với trình độ học sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai
hoặc để làm mẫu cho học sinh. Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong
suốt quá trình dạy học.
2. 3. 6. Biện pháp thứ sáu: Giúp học sinh học tốt các phân môn của môn
Tiếng Việt.
Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân môn
thuộc môn Tiếng Việt. Vì vậy muốn dạy tốt phân môn Tập làm văn cần dạy tốt
các phân môn Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc, Kể chuyện.

Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp thức giữa các
phân môn trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và
câu, tập viết để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm
văn.
14


Ví dụ: Khi dạy phân môn Luyện từ và câu, học về câu kể Ai là gì ? học
sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu này, biết nhận ra nó trong đoạn văn và
từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì? để giới thiệu hoặc nêu nhận định về một
con người, một vật...:
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.

Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không
một phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ
viết. Vì vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho
học sinh trong các giờ Chính tả.
Nếu như Tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, Chính tả rèn kỹ năng
viết cho học sinh thì phân môn Kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là
kỹ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh.
Tóm lại: Các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung
riêng, phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà
luôn bổ sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những

phân môn khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp
của những phân môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các
phân môn còn lại.
2. 3. 7. Biện pháp thứ bảy: Tập cho học sinh kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội
dung, cách diễn đạt, cách trình bày
Đối với học sinh lớp 4 thì đây là việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện
được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và
cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ giúp các em nâng cao
khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn văn, bài văn của các em
mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt vấn đề.
Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập
cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các

em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với
yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu
văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó
thực hiện, tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là
cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên
bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp
các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù
hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý.
2. 3. 8. Biện pháp thứ tám: Chấm bài phải đảm bảo độ chính xác cao và ghi
lời nhận xét vào vở học sinh, thực hiện nghiêm túc tiết trả bài
a. Chấm bài
Chấm bài là một hoạt động lao động vất vả, phức tạp. Đây là việc làm hứng

thú: Giáo viên được tiếp xúc với sản phẩm tinh thần của HS, kiểm nghiệm thành
quả giảng dạy và giáo dục của mình. Giáo viên cần có thái độ kiên trì, nhẫn nại,
khách quan, công bằng, không thiên vị. Sự công bằng, khách quan cần thể hiện
ở lời phê, cho điểm. Giáo viên căn cứ vào từng đề bài và tình hình làm bài của
15


HS mà tiến hành chấm bài. Khi chấm cần thống kê những ưu điểm và khuyết
điểm trong bài làm của các em để khi trả bài có cơ sở nhận xét.
Khi chấm, chữa bài cho học sinh tôi luôn quan tâm đến lời nhận xét của
mình trong vở học sinh. Khi nhận xét tôi đặc biệt quan tâm động viên, khích lệ,
biểu dương, khen ngợi kịp thời đối với từng thành tích, tiến bộ giúp học sinh tự

tin vươn lên. Khi chấm bài tôi vẫn thường hay nhận xét “Con rất đáng khen” hoặc
“Con tiến bộ rất nhanh”, “Con giỏi lắm”, “ Cô khen con”, “ Con cần phát huy”,
“Bài văn có cảm xúc”, “ Bài văn giàu hình ảnh”, “ Trình tự miêu tả hợp lí”, “ Bài
viết có nhiều ý hay. Con nên chia sẻ với các bạn”, “ Biết dùng từ ngữ gợi tả tốt”, “
Câu văn chặt chẽ, đủ ý”, ... Với học sinh viết chưa đúng, chưa hay tôi cũng có
những lời phê không gây mặc cảm, nặng nề với các em, nhận xét trực tiếp bằng
lời và nêu biện pháp cho các em khắc phục.
b. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài.
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến
việc nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc lập
kế hoạch đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra
đánh giá lại những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra

đánh giá lại những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các
khâu trên, nhất là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có
thể biết được những ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh
cho những việc tiếp theo.
Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài
thường dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực
hành ấy cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc
thì mới có tác dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm
thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá
"nhằm mục đích giúp học sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và
kết quả bài viết của cả lớp để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa
lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ

đó học sinh có thể học hỏi những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích
như vậy thì tiết trả bài không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén
thời lượng.
Giáo viên cần chú trọng khâu chữa lỗi:
- Chữa lỗi về dùng từ: Tôi đưa câu văn mà học sinh dùng từ thiếu chính
xác cho học sinh đọc và phát hiện. Ví dụ qua đề bài: "Tả con vật mà em yêu
thích" có học sinh viết: "Chú gà trống vỗ cánh bạch bạch". Xét về góc độ ngữ
nghĩa, cú pháp thì câu hoàn toàn đúng. Song từ "lạch bạch" là từ tượng thanh,
chỉ cho ta nghe âm thanh khi chú gà trống vỗ cánh nhưng chưa toát lên được vẻ
oai vệ của gà trống. Vì vậy Giáo viên gợi mở để học sinh tìm từ thay thế "phành
phạch", vừa gợi tả âm thanh vừa cho thấy hình ảnh đôi cánh chú gà trống vừa
mạnh vừa khỏe. Sau đó học sinh viết lại câu.

16


- Chữa lỗi về câu: Lỗi về câu có nhiều dạng. Tôi lựa chọn từng loại sai để
sửa. Ví dụ: Khi viết bài văn tả bạn có học sinh viết: "Bạn Lan thương yêu."
Với trường hợp này tôi dùng câu hỏi gợi mở để học sinh phát hiện lỗi sai của
câu chưa đủ thông tin, chưa rõ nghĩa. Bạn Lan thương yêu ai? Sau đó hướng cho
học sinh bổ sung. Chẳng hạn: "Bạn Lan yêu thương mọi người trong gia đình."
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài
soạn đã hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ
nhàm chán. Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học
sinh theo từng loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay

đã chuẩn bị trước. Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo
luận theo nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc
cho nhau nghe các câu hoặc giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ
thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa
hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt yêu cầu.
2. 3. 9. Biện pháp thứ chín: Kết hợp với gia đình học sinh
Ở vùng nông thôn như trường tôi, học sinh lớp 4 thường tự đi học. Chính vì
thế, việc phối hợp rèn luyện cùng phụ huynh học sinh cũng có những khó khăn
riêng. Nhưng tôi vẫn thường dành thời gian để trao đổi tình hình học tập của học
sinh với phụ huynh qua gọi điện, nhật kí học tập. Đặc biệt là những học sinh cần
rèn luyện thêm ở nhà. Hoặc sử dụng sổ liên lạc điện tử: Những học sinh được
khen ngợi thì nhắn tin chung cho tất cả phụ huynh của lớp, những học sinh cần

khắc phục điểm gì thì nhắn tin riêng đến phụ huynh đó.
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2. 4. 1. Đối với hoạt động giáo dục:
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4A tôi ra
đề bài sau:
Đề bài: Tả một con vật lần đầu tiên em thấy trên hoạ báo hay trên truyền
hình phim ảnh (Tiếng Việt 4 trang 149 - Tập 2).
Kết quả thu được như sau:
Lớp

Số

HS

Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

Điểm dưới 5

SL


TL

SL

TL

SL

TL

SL


TL



38

10

26,3%

20


52,6%

8

21,1%

0

0%

Sau gần một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng
cả sự lao động nỗ lực của cô và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học

văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn
lưu loát, mạch lạc, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc,
đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, so
sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn
17


còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng
không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài làm na ná như nhau. Mặc
dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi, song trong giảng dạy Tập làm văn thì kết quả như
vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các giải pháp trên mới chỉ được áp dụng
khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn miêu tả ở

lớp 2, 3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn rất
nhiều.
2. 4. 2. Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng
của dạy phân môn Tập làm văn nói chung, dạy văn miêu tả nói riêng. Vì vậy tôi
đã vận dụng linh hoạt ngay một số giải pháp, hình thức dạy học theo hướng tích
hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học. Thông qua dạy thử
nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh
hào hứng hơn, mạnh dạn hơn khi học văn miêu tả, vốn từ của học sinh phong
phú hơn, câu văn giàu hình ảnh.
Sau khi hoàn thành sáng kiến này, tôi đã có cái nhìn tổng quát nhất trong việc
“Dạy văn miêu tả của phân môn Tập làm văn lớp 4 - Theo hướng phát huy

tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh”. Bản thân thấy rất tự
tin khi giảng dạy lớp 4, cũng như rèn viết văn cho học sinh cấp Tiểu học, đặc biệt
là viết văn miêu tả. Nội dung giải pháp trong đề tài cũng phần nào có thể xem là
tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ nhằm trao đổi cùng đồng nghiệp góp phần rèn
và nâng cao kĩ năng sư phạm cho giáo viên trong trường nói riêng và toàn Thành
phố nói chung.

3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3. 1. Kết luận.
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn bản
thân đã đúc kết được những bài học kinh nghiệm sau:
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và

nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các
đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả.
- Luôn động viên, khen ngợi kịp thời các em học sinh yếu dù là tiến bộ nhỏ
nhất. Không áp đặt, không chê bai khi học sinh viết sai, viết thiếu ý hoặc diễn
đạt câu chưa đúng.
- Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn
thuộc môn Tiếng việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải dạy
tốt các phân môn còn lại.
- Giáo viên xác định được mục tiêu dạy học theo phương pháp mới, phát
huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học. Giáo viên
đóng đúng vai trò người tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động. Luôn động
viên, khen ngợi kịp thời các em học sinh yếu dù là tiến bộ nhỏ nhất. Không áp

18


đặt, không chê bai khi học sinh viết sai, viết thiếu ý hoặc diễn đạt câu chưa
đúng.
- Xác định đúng đặc trưng bộ môn, vị trí, mục tiêu theo chuẩn kiến thức kỹ
năng.
- Hình thành phương pháp và kỹ năng quan sát gắn với từng kiểu bài để
học sinh có đủ ý. Sau đó giúp các em hình thành dàn ý chi tiết, mạch lạc, hợp lý
làm cơ sở cho học sinh viết đoạn, viết bài tốt.
- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, để khi thực hiện kế hoạch bài học
trên lớp giáo viên cần đọc cho học sinh nghe các câu văn, câu thơ có sử dụng

các biện pháp nghệ thuật, cung cấp cho các em những đoạn văn mẫu, ...
- Cần coi tiết trả bài như một khâu không thể thiếu của các hoạt động tiếp
theo. Trả bài là tiết học mà giáo viên dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học
sinh, giúp học sinh điều chỉnh những sai sót mắc phải trong bài viết.
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi
mới chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực
trong công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất
lượng dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển
giáo dục. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội
ngũ giáo viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không
ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê,
lòng nhiệt tình cho công tác thì mới có được những kết quả như mong muốn.

Với việc dạy Tập làm văn, nhất là văn miêu tả lớp 4 thì việc làm này càng cần
thiết hơn bởi việc dạy Tập làm văn là rất khó, học sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp
Tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở mức độ "tập". Văn hay không thể
có được ở những học trò lơi là đèn sách. Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm
văn vừa để nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng cao ý
thức tự rèn luyện của học sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bài
tập nghiên cứu khoa học này.
3. 2. Kiến nghị
Để giúp học sinh có thể viết văn miêu tả được tốt Giáo viên cần:
- Tích cực học tập, học hỏi để nâng cao trình độ tay nghề chịu khó sưu tầm,
nghiên cứu để tìm những hình thức tổ chức cũng như các biện pháp dạy học phù
hợp nhất với những tiết dạy.

- Kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục các em một cách tốt nhất.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học sinh
thực hành tập làm văn. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu và trình độ, kinh
nghiệm có hạn nên những vấn đề nêu trên không khỏi những sai sót. Rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Ban Giám hiệu, Hội đồng khoa
học các cấp để đề tài hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,

không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
19


Hoàng Thị Hà

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Sách giáo khoaTiếng Việt 4 - Tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học Lớp 1- Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Số 12 - Nhà xuất bản Giáo dục 2015.

5. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Số 16,17 - Nhà xuất bản Giáo dục 2017.
6. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II. Tác giả: GSTS Lê Phương
Nga - Nguyễn Trí - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2005.
7. Đề án: “ Đổi mới giáo dục và đào tạo thành phố Thanh Hóa giai đoạn 2017 2020, định hướng đến năm 2025” ( Ban hành kèm theo Quyết định số 2303/QĐ
- UBND ngày 20 tháng 3 năm 2017 của UBND thành phố Thanh Hóa.
8. Phương pháp dạy - học Tiếng Việt ( Khoa sư phạm Tiểu học - Trường ĐH
Hồng Đức - Thanh Hóa).
20


9. Thông tư số 30/2014/TT - BGDĐT ngày 28/8/2014 quy định đánh giá học
sinh Tiểu học.

10. Thông tư số 22/2016/TT - BGDĐT ngày 22/9/2016 sửa đổi, bổ sung một số
điều quy định đánh giá học sinh Tiểu học ban hành kèm theo thông tư số
30/2014/TT - BGDĐT ngày 28/8/2014.

21


22




×