Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

bài tập học kỳ thương mại 2 (8 5 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.93 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình hội nhập, giao lưu thương mại, việc phát sinh tranh chấp thương
mại là điều không thể tránh khỏi. Do đó, giải quyết tranh chấp là vấn đề cần thiết đang
được đặt ra. Các bên trong quan hệ tranh chấp có quyền lựa chọn phương thức để giải
quyết tranh chấp tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Và một giải pháp ưu việt đó
chính là giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Trong phương thức giải quyết
tranh chấp này, yếu tố thỏa thuận đóng vai trị chủ đạo, là yếu tố quyết định sự tồn tại
của trọng tài. Khi phát sinh tranh chấp, khơng phải tự thân cơ quan trọng tài có thẩm
quyền giải quyết mà nó phát sinh từ sự thỏa thuận lựa chọn của các bên – thỏa thuận
trọng tài. Vậy thỏa thuận trọng tài được quy định như thế nào trong pháp luật hiện
hành? Để hiểu rõ hơn vẫn đề này, em xin chọn đề tài: “Bình luận quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài thương mại”.
NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về thỏa thuận trọng tài thương mại
1. Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
Khái niệm thỏa thuận trọng tài được Điều II Công ước New York 1958 về công
nhận và thi hành các quyết định của trọng tài nước ngồi quy định:
“1. Mỗi quốc gia thành viên sẽ cơng nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó
các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa
các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên
quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài.
2. Thuật ngữ “thỏa thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài trong
một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài được các bên ký kết hoặc được ghi trong
thư tín trao đổi”.
Điều 7.1 Luật mẫu của UNCITRAL cũng có quy định một cách tương tự: “Thỏa
thuận trọng tài là thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp
nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định,
dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận trọng tài có
thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa
thuận riêng”.
Khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Thỏa thuận


trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có
thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.
Như vậy có thể thấy quy định của pháp luật nước ta về thỏa thuận trọng tài khá
tương đồng với các văn bản pháp luật quốc tế. Theo đó, có thể hiểu: thỏa thuận trọng
tài là một thỏa thuận bằng văn bản, theo đó các bên ký kết nhất trí đưa một phần hoặc
tồn bộ tranh chấp đã hoặc sẽ có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng
được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài.
1


Theo quy định của pháp luật hiện hành, thỏa thuận trọng tài có những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan trong
việc giải quyết tranh chấp. Theo đó các bên cam kết và đồng thuận với nhau về việc sử
dụng phương thức trọng tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra, đồng thời thỏa
thuận cụ thể về cách thức, trình tự giải quyết và các vấn đề khác có liên quan.
Thứ hai, thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hình thức văn bản. Pháp luật
Việt Nam cũng như các nước đều thống nhất hình thức của thỏa thuận trọng tài phải
bằng văn bản. Điều này đảm bảo cho thỏa thuận trọng tài có giá trị như một chứng cứ
xác định ý chí của các bên muốn giải quyết tranh chấp trọng tài. Đây là một trong
những điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
Thứ ba, thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập trước hoặc sau khi tranh chấp
xảy ra.
Một là, các bên dự đoán trước và thỏa thuận ngay từ khi bắt đầu quan hệ thương
mại việc sẽ đưa ra trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh trong tương lai. Sự thỏa
thuận này thường được thể hiện thành một điều khoản trọng tài trong hợp đồng xác lập
quan hệ thương mại giữa hai bên.
Hai là, sau khi tranh chấp phát sinh, các bên mới thỏa thuận đưa tranh chấp ra
giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản thỏa
thuận riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính hay cịn gọi là thỏa thuận đưa

các tranh chấp hiện thời ra giải quyết theo phương thức trọng tài, do đó thỏa thuận
trọng tài này thường biên soạn đẩy đủ, có tính khả thi cao. Tuy nhiên, trên thực tế hình
thức thỏa thuận trọng tài này thường ít được sử dụng vì sau khi đã xảy ra tranh chấp,
việc các bên ngồi lại với nhau thỏa thuận cách thức giải quyết tranh chấp là điều khơng
dễ dàng, trong trường hợp đó, vụ việc được giải quyết thơng qua Tịa án.
Thứ tư, nội dung của thỏa thuận trọng tài. Nội dung của thỏa thuận trọng tài
chính là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các
bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan
đến hợp đồng chính. Việc xác lập nội dung các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài
đều phụ thuộc vào sự tự nguyện thỏa thuận của các bên mà không chịu sự can thiệp
của pháp luật. Tuy nhiên, để tránh những rắc rối mà các bên có thể gặp phải và nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong q trình giải quyết tranh chấp,
pháp luật có quy định một số điều khoản mang tính cơ bản trong thỏa thuận trọng tài
như phạm vi tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, tổ chức trọng tài, ngôn ngữ
trọng tài, luật áp dụng, địa điểm trọng tài, chi phí trọng tài, cam kết thi hành quyết định
trọng tài. Ngồi ra các bên có thể thỏa thuận lựa chọn thêm các điều khoản khác nhằm
tạo điều kiện cho việc giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất.

2


Thứ năm, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng, trong cả trường
hợp thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng. Dù thỏa thuận trọng tài được
thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức
văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất là một hợp
đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính. Như vậy, ngay
cả khi hợp đồng bị thay đổi, hủy bỏ, bị hết hiệu lực thì thỏa thuận trọng tài vẫn có giá
trị.
2. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại
- Thỏa thuận trọng tài là nguồn gốc phát sinh hoạt động của trọng tài. Khi tranh

chấp xảy ra, không phải tự thân trọng tài có khả năng giải quyết hay có thể áp đặt thẩm
quyền của mình lên các bên. Thẩm quyền đó chỉ phát sinh dựa trên sự thỏa thuận của
các bên khi quyết định lựa chọn đưa tranh chấp ra giải quyết bằng hình thức trọng tài.
Việc lựa chọn các yếu tố liên quan đến quá trình giải quyết bằng trọng tài cũng dựa
trên sự tự nguyện giữa các bên và không bị áp đặt bởi trọng tài.
- Thỏa thuận trọng tài có tác dụng ràng buộc các bên, bởi nó được xác lập trên
cơ sở ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các bên. Một khi đã xác lập thỏa thuận
trọng tài thì khơng bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Ngay cả khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng và hợp đồng đã chấm
dứt hoặc vơ hiệu thì điều khoản trọng tài vẫn có thể tồn tại, vẫn có hiệu lực. Đây là sự
độc lập giữa điều khoản trọng tài với hợp đồng. Qua đó cũng giúp các bên nâng cao ý
thức trong việc thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết, là một biện pháp tích cực để
phịng ngừa các tranh chấp.
- Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên hàng đầu từ
khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho đến khi phán quyết cuối cùng được đưa
ra. Việc xác định thẩm quyền, phạm vi thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc
giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào các giới hạn đặt ra trong thỏa thuận trọng tài. Đặc
biệt, với những tranh chấp có yếu tố nước ngồi, thỏa thuận trọng tài cịn cho phép lựa
chọn nơi tiến hành tố tụng trọng tài, luật áp dụng và ngôn ngữ trọng tài trong điều kiện
phù hợp nhất. Thỏa thuận trọng tài với nội dung chính là quyền lựa chọn của các bên
về các yếu tố của luật tố tụng trọng tài sao cho phù hợp nhất với mình nên sẽ giúp hình
thành những điều kiện tốt nhất để tiến hành trọng tài và thi hành quyết định trọng tài.
- Thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh chấp.
Tuy nhiên, điều này không loại trừ sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động giải quyết
tranh chấp trọng tài khi: có khiếu nại liên quan đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu, yêu
cầu các bên áp dụng biện pháp khẩn cấp, tạm thời, chỉ định trọng tài viên (trọng tài vụ
việc), triệu tập người làm chứng, yêu cầu cơ quan tổ chức thu thập chứng cứ và khi có
căn cứ pháp luật đề nghị Tịa án hủy phán quyết trọng tài, đăng ký phán quyết trọng tài
vụ việc.
3



- Thỏa thuận trọng tài trao cho các trọng tài viên thẩm quyền giải quyết tranh
chấp có thể xảy ra giữa các bên. Đồng thời, với việc loại trừ thẩm quyền của Tòa án
quốc gia, thỏa thuận trọng tài trao cho các trọng tài viên thẩm quyền giải quyết tranh
chấp và đây chính là cơ sở pháp lý cho các trọng tài viên thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
II. Bình luận các quy định về thỏa thuận trọng tài thương mại trong Luật trọng
tài thương mại năm 2010
1. Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Điều 16 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “1. Thỏa thuận trọng tài
có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới
hình thức thỏa thuận riêng.
2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa
thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư
điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại
bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng
tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả
thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”.
Thỏa thuận trọng tài tồn tại dưới hai dạng, có thể là một điều khoản trong hợp
đồng hoặc là một thỏa thuận riêng biệt. Dù tồn tại ở bất kỳ dạng nào, thỏa thuận trọng
tài đều phải tuân thủ đúng hình thức do pháp luật quy định – văn bản. Hình thức là sự
thể hiện ra bên ngồi của thỏa thuận trọng tài, hay nói cách khác, đó chính là sự thể
hiện ra bên ngồi ý chí của các bên. Hình thức của thỏa thuận trọng tài có chức năng
khẳng định sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài trên thực tế. Chính vì vậy, hình thức của

thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài.
Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng
tài so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh trọng
tài thương mại quy định: “Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thỏa
thuận trọng tài thông qua thư, thư báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản
khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là
thỏa thuận trọng tài bằng văn bản”. Ở đây, Pháp lệnh đã không quy định rõ thế nào là
các “hình thức văn bản khác”. Điều này sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trên

4


thực tế, gây khó khăn đối với trọng tài viên và các bên khi xác định hình thức nào được
coi là văn bản, hình thức nào khơng được coi là văn bản.
Pháp luật các nước mà tiêu biểu là pháp luật Anh có cách tiếp cận thế nào là
hình thức văn bản rất rộng. Điều 5 Luật trọng tài Anh quy định:
“1. Có một thỏa thuận bằng văn bản khi:
a) Thỏa thuận được lập bằng văn bản (cho dù nó có được các bên ký hay khơng);
b) Thỏa thuận được lập bằng việc trao đổi các thông tin bằng văn bản;
c) Thỏa thuận được chứng minh là văn bản”.
Hay khoản 2 Điều 7 Luật mẫu của UNCITRAL cũng quy định: “Thỏa thuận trọng
tài phải được lập thành văn bản. Thỏa thuận là văn bản nếu nó nằm trong một văn
bản được các bên ký kết hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, telex, điện tín hoặc hình
thức trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do
một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. Việc dẫn chiếu trong hợp đồng tới một văn
bản ghi nhận điều khoản trọng tài lập nên thỏa thuận trọng tài với điều kiện hợp đồng
này phải là văn bản và sự dẫn chiếu đó là một bộ phận của hợp đồng này”.
Như vậy, quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 về hình thức
của trọng tài thương mại chưa tương thích với Luật mẫu quốc tế và pháp luật trọng tài

của các nước. Sự khơng tương thích này có thể dẫn đến việc cùng một vụ việc, cùng
một thỏa thuận trọng tài nhưng trọng tài nước ngồi có thể giải quyết tranh chấp trong
khi đó trọng tài nước ta lại không thể giải quyết. Điều này làm cho quá trình hội nhập
của nước ta về kinh tế và pháp lý gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc sửa đổi của Luật
trọng tài thương mại năm 2010 về hình thức trọng tài thương mại bằng việc liệt kê như
hiện nay dù không phải lúc nào cũng bao quát được hết các nội dung nhưng trong
trường hợp này là vô cùng cần thiết vì nó sẽ giúp Trung tâm trọng tài hay Hội đồng
trọng tài dễ dàng tiếp nhận các vụ tranh chấp mà khơng phải dè dặt suy đốn với một
vài khác biệt về hình thức của thỏa thuận trọng tài đồng thời tạo nên sự tương đồng của
pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam với Luật mẫu của UNCITRAL và Luật trọng
tài của nhiều nước trên thế giới.
2. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
2.1. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng chính
Với việc quy định thỏa thuận trọng tài độc lập với hợp đồng chính tại Điều 19
Luật trọng tài thương mại năm 2010: “Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp
đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực
hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài” đã đưa ra một nguyên tắc
rất quan trọng, đảm bảo mọi tranh chấp phát sinh đều được giải quyết kể cả khi hợp
đồng vô hiệu. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Luật mẫu của UNCITRAL và các
quy định trong pháp luật trọng tài của nhiều quốc gia. Khoản 1 Điều 16 Luật mẫu của
UNCITRAL quy định: “Hội đồng trọng tài có thể quyết định về thẩm quyền xét xử của
5


chính mình, kể cả những ý kiến phản hồi về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thỏa
thuận trọng tài. Vì mục đích này, điều khoản trọng tài trở thành bộ phận của hợp đồng
sẽ được coi à thỏa thuận độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định
của Hội đồng trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị
vô hiệu theo”. Sở dĩ phải quy định như vậy là vì ngun nhân làm cho hợp đồng chính
vơ hiệu hoặc hết hiệu lực không phải bao giờ cũng trùng với nguyên nhân làm cho điều

khoản trọng tài vô hiệu. Có thể khái quát các trường hợp mà trong đó hợp đồng chính
vơ hiệu hoặc hết hiệu lực nhưng thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực như sau:
- Trong trường hợp bất khả kháng kéo dài khiến hợp đồng không thể thực hiện
được, các bên phải chấm dứt hợp đồng nhưng điều khoản trọng tài vẫn phát huy hiệu
lực để giải quyết vấn đề chấm dứt hợp đồng.
- Trong trường hợp hợp đồng đã được các bên thực hiện xong nhưng điều khoản
trọng tài vẫn còn hiệu lực để có thể thành lập tổ chức trọng tài xem xét hậu quả pháp lý
và nghĩa vụ của các bên.
- Trường hợp hợp đồng bị vơ hiệu vì đối tượng của hợp đồng vi phạm điều cấm
của pháp luật nhưng điều khoản trọng tài thì vẫn có hiệu lực bởi đối tượng của thỏa
thuận trọng tài là hoàn toàn hợp pháp.
- Trường hợp hợp đồng bị vô hiệu từng phần nhưng phần hợp đồng bị vô hiệu
không tự động kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự vô hiệu của hợp đồng chính sẽ làm cho
điều khoản trọng tài cũng trở nên vô hiệu, nhất là trong trường hợp nguyên nhân làm
cho hợp đồng chính vơ hiệu trùng với ngun nhân làm cho điều khoản trọng tài vô
hiệu như trường hợp thỏa thuận trọng tài nằm trong một hợp đồng được ký kết bởi một
trong các chủ thể khơng có thẩm quyền và năng lực ký kết hợp đồng hoặc vi phạm
nguyên tắc tự nguyện ký kết hợp đồng.
Tuy nhiên trong quá trình áp dụng lại phát sinh một số vấn đề liên quan đến tính
độc lập về tính hiệu lực của thỏa thuận trọng tài so với tính hiệu lực của hợp đồng như:
trường hợp thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận cách thức giải quyết tranh chấp với một
hợp đồng cụ thể, hợp đồng đó về bản chất là vô hiệu nhưng thỏa thuận trọng tài không
vô hiệu. Vấn đề đặt ra là các bên tranh chấp có hay khơng có quyền được u cầu
trọng tài giải quyết các vẫn đề liên quan đến hợp đồng vô hiệu. Nếu trọng tài khơng có
thẩm quyền xem xét vấn đề này khi các bên yêu cầu thì việc khẳng định sự tồn tại độc
lập của thỏa thuận trọng tài với hiệu lực của hợp đồng đi kèm nó khơng có nhiều ý
nghĩa. Tuy nhiên, nếu các bên không được quyền yêu cầu trọng tài giải quyết mà vẫn
giữ nguyên tình hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài có thể sẽ là
nguyên nhân cản trở các bên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc. Như vậy, pháp luật

trọng tài cần có một giải pháp cụ thể để giải quyết vấn đề đặt ra trong trường hợp trên.

6


2.2. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các chủ thể có liên quan
Thứ nhất, đối với cơ quan trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp.
Thông qua việc chỉ định các trọng tài viên, thỏa thuận trọng tài các bên trao cho
Hội đồng trọng tài quyền hạn để giải quyết tranh chấp và thẩm quyền của họ trong
phạm vi được ủy quyền đó. Pháp luật trọng tài quốc tế coi đây là “nguyên tắc thẩm
quyền của thẩm quyền”. Nguyên tắc này được hiểu là Hội đồng trọng tài có quyền xem
xét, xác định thẩm quyền của chính mình khi có khiếu nại của các bên về thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài. Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 43 của Luật trọng tài
thương mại năm 2010: “Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài
phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện
được hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp
theo quy định của Luật này. Trường hợp khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của mình,
thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận trọng tài khơng thể thực hiện
được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thơng báo ngay cho
các bên biết”. Mục đích của nguyên tắc này chính là bảo đảm các tranh chấp đều được
xem xét và giải quyết. Thẩm quyền của Hội đồng trọng tài vẫn giữ ngun mặc dù hợp
đồng có thể khơng tồn tại hoặc vô hiệu. Quy định trọng tài xem xét thẩm quyền của
chính mình khơng có nghĩa là khơng có cơ chế giám sát từ phía cơ quan nhà nước. Nhà
nước giám sát thông qua quy định cho phép các bên khiếu nại về thẩm quyền của trọng
tài trước Tịa án hay thơng qua việc cơng nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài.
Tuy nhiên, nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền” cũng giống như thỏa thuận
trọng tài tạo ra cả hậu quả tích cực và khơng tích cực. Hậu quả tích cực của nguyên tắc
này là việc cho phép trọng tài quyết định về chính thẩm quyền của họ. Cịn hậu quả
khơng tích cực là ở việc không duy nhất trao cho trọng tài quyền quyết định về thẩm

quyền của họ mà chỉ trao cho trọng tài quyền là những người đầu tiên quyết định về
thẩm quyền của mình. Nói cách khác, nó cho phép trọng tài viên đưa ra quyết định về
thẩm quyền của mình trước khi đưa ra Tịa án và qua đó giới hạn vai trò của Tòa án
trong việc xem xét các phán quyết. Vì vậy, nguyên tắc này bắt buộc bất kỳ Tòa án nào
khi xét xử các khiếu nại liên quan đến thẩm quyền của Hội đồng trọng tài phải cố gắng
không xét xử tranh cãi về thẩm quyền của các trọng tài viên cho đến khi các trọng tài
viên đã tự mình xem xét thẩm quyền của mình.
Thứ hai, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với Tòa án quốc gia.
Việc Tịa án quốc gia khơng có thẩm quyền đối với các tranh chấp đã có thỏa
thuận trọng tài đã trở thành một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trong các công
ước quốc tế cũng như pháp luật quốc gia. Điều 6 Luật trọng tài thương mại năm 2010
của Việt Nam quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng
tài mà một bên khởi kiện tại Tồ án thì Tồ án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả
7


thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Quy định
này thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với thỏa thuận trọng tài và là một đảm bảo
mạnh mẽ từ phía Nhà nước để thỏa thuận trọng tài được các bên tôn trọng. Luật quy
định Tịa án khơng được thụ lý vụ kiện tranh chấp khi các bên đã có thỏa thuận trọng
tài là để khẳng định thẩm quyền của trọng tài, ngoại lệ được Luật quy định là trường
hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc không thể thực hiện được. Đồng thời quy định
này cũng thể hiện sự tiến bộ so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 khi Pháp
lệnh chỉ quy định một ngoại lệ duy nhất là “thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Điều này đã
gây ra khó khăn trong thực tiễn hoạt động tư pháp Việt Nam.
Thứ ba, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đối với các bên tham gia thỏa thuận
trọng tài.
Khi ta đã thỏa thuận các bên phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận
này và không bên nào được đơn phương thay đổi hoặc vi phạm nghĩa vụ trọng tài. Đây
là nguyên tắc bắt buộc, là một trong những nền tảng của pháp luật quốc tế về hợp

đồng. Vì vậy, khơng có sự khác biệt nào trong pháp luật quốc tế hay pháp luật quốc gia
hay án lệ nào đi ngược lại nguyên tắc này. Nếu một bên vi phạm nguyên tắc này, bên
kia có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ hoặc
nếu khơng Tịa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật để cho thỏa thuận trọng tài
được thực hiện.
2.3. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài khi có sự thay đổi của một bên
Khoản 2 và khoản 3 Điều 5 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định:
“2. Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng
lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại
diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”.
3. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt
động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ
chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ
của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”.
Trong thực tế đã xảy ra trường hợp sau khi xác lập thỏa thuận trọng tài, một bên
thay đổi tên, trụ sở nên bị khởi kiện, họ cho rằng hợp đồng cũng như thỏa thuận trọng
tài có trong hợp đồng đã ký khơng ràng buộc họ. Lập luận này không thể chấp nhận
được vì những thay đổi về tên hay trụ sở của pháp nhân không ảnh hưởng tới hợp đồng
cũng như thỏa thuận trọng tài có trong hợp đồng; chủ thể được thay đổi tên và địa chỉ
vẫn chịu sự ràng buộc cũng như viện dẫn hợp đồng và thỏa thuận trọng tài có trong
hợp đồng.
3. Thỏa thuận trọng tài vơ hiệu
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên thỏa thuận về việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thuận đó khơng được cơng nhận hiệu lực.
8


Điều 18 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định các trường hợp thỏa
thuận trọng tài vô hiệu như sau:
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài

quy định tại Điều 2 của Luật này.
Pháp luật luôn tôn trọng sự tự do thỏa thuận giữa các bên về việc đưa tranh chấp
ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, dù giữa các bên có tồn tại thỏa thuận trọng tài
xuất phát từ sự tự do thỏa thuận nhưng tranh chấp giữa họ phát sinh trong các lĩnh vực
không thuộc thẩm quyền của trọng tài thì thỏa thuận trọng tài cũng vơ hiệu. Theo Điều
2 của Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì phạm vi thẩm quyền của trọng tài được
mở rộng, không chỉ bao gồm tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại hiểu theo
nghĩa rộng như quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại. Như vậy, phạm vi xác
định thỏa thuận trọng tài vô hiệu do không thuộc thẩm quyền của trọng tài được thu
hẹp.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
Thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí giữa các bên nhằm đưa ra một hoặc
tất cả tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ ra giải quyết bằng trọng tài. Chính vì
vậy, khi một bên ký thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền ký kết thì thỏa thuận
trọng tài bị vơ hiệu, bởi ý chí thể hiện trong thỏa thuận trọng tài có thể khơng phải là ý
chí thật của bên ký sai thẩm quyền.
- Người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của BLDS.
Theo quy định của BLDS 2005 thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Người khơng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Để chứng
minh người ký thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải
có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm
quyền hoặc quyết định của Tịa án tun bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Hình thức của thỏa thuận trọng tài khơng phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật này.
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định thỏa thuận trọng

tài phải được thể hiện bằng văn bản, nghĩa là thỏa thuận trọng tài có giá trị chứng cứ
xác định ý chí của các bên khi muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Các hình
thức khác của thỏa thuận trọng tài như lời nói hay hành vi đều dẫn tới hậu quả pháp lý
là thỏa thuận trọng tài vô hiệu.

9


- Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vơ hiệu.
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các bên dựa trên
nguyên tắc tự do, bình đẳng. Sự thống nhất ý chí ấy khơng thể bị ràng buộc, tác động
hay áp đặt bởi pháp luật hay bất kỳ một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào. Chính vì thế, sự
lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép giữa các bên tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài là
những hành động đi ngược lại với nguyên tắc tự do thỏa thuận và hệ quả tất yếu sẽ dẫn
tới thỏa thuận trọng tài vơ hiệu. Bên bị lừa dối, đe dọa có thể gửi yêu cầu tuyên bố thỏa
thuận trọng tài vô hiệu bất cứ khi nào họ cho là cần thiết mà không bị ràng buộc bởi
thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là 6 tháng kể từ ngày ký kết
thỏa thuận trọng tài ở khoản 6 Điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
- Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật
Đối với nội dung của thỏa thuận trọng tài, pháp luật chỉ quy định thỏa thuận
trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật thì bị vơ hiệu cịn Luật không buộc các bên
phải quy định rõ đối tượng tranh chấp hay phải chỉ rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp như Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
* Hậu quả pháp lý của thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Tùy thuộc vào từng giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp mà việc thỏa
thuận trọng tài bị vơ hiệu có thể dẫn tới những hậu quả pháp lý khác nhau, cụ thể:
- Khi xem xét thụ lý đơn kiện, nếu có cơ sở khẳng định thỏa thuận trọng tài vơ
hiệu thì tổ chức trọng tài từ chối thụ lý vụ việc. Trường hợp các bên không xác lập
được môt thỏa thuận trọng tài mới có hiệu lực thì một bên tranh chấp có thể khởi kiện

vụ việc ra Tịa án.
- Trong q trình Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp mà phát hiện thỏa
thuận trọng tài vô hiệu và các bên tranh chấp khơng đạt được thỏa thuận trọng tài mới
có hiệu lực thì Hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc.
Trong trường hợp này một bên tranh chấp có thể khởi kiện vụ việc ra Tịa án có thẩm
quyền.
- Khi Hội đồng trọng tài đã ra quyết định cuối cùng mà có một bên yêu cầu Tịa
án xem xét hủy phán quyết trọng tài thì trong quá trình xem xét đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài, nếu Tòa án phát hiện thỏa thuận trọng tài bị vơ hiệu thì Tịa án ra quyết
định hủy phán quyết trọng tài. Trong trường hợp này, các bên tranh chấp có thể thỏa
thuận với nhau để đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết. Nếu các bên tranh chấp khơng
đạt được thỏa thuận trọng tài mới thì một bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra Tịa án
giải quyết.
4. Thỏa thuận trọng tài không thực hiện được
Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được là một điểm mới của Luật trọng
tài thương mại năm 2010 và được hiểu là những thỏa thuận trọng tài thỏa mãn tất cả
10


các điều kiện về nội dung, chủ thể ký kết, hình thức, phạm vi tranh chấp thuộc thẩm
quyền của trọng tài nhưng không thể tiến hành giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
được. Nguyên nhân có thể là do thỏa thuận có sự mâu thuẫn giữa tổ chức trọng tài và
quy tắc tố tụng được chọn, các bên không thừa nhận tính chung thẩm của thỏa thuận
trọng tài hoặc trọng tài được chọn lại từ chối thụ lý giải quyết tranh chấp…Do các văn
bản hướng dẫn thi hành không đề cập đến vấn đề này nên các cơ quan tố tụng lung
túng trong q trình giải quyết. Do đó, nhiều tranh chấp đã không được giải quyết hoặc
giải quyết rồi nhưng bị hủy. Điều 6 Luật trọng tài thương mại năm 2010 quy định:
“Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi
kiện tại Tồ án thì Tồ án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô
hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.

Quy định này là phù
hợp với luật pháp quốc tế về trọng tài thương mại. Khoản 1 Điều 8 Luật mẫu của
UNCITRAL quy đinh: “Tịa án nơi có khiếu kiện về vấn đề đối tượng của thỏa thuận
được đưa ra, nếu một bên yêu cầu trước khi nộp bản giải trình đầu tiên của mình về
nội dung tranh chấp, sẽ được chuyển tranh chấp ra trọng tài trừ khi thấy rằng thỏa
thuận trọng tài vơ hiệu, khơng có hiệu lực hoặc khơng thể thực hiện được”. Điều II
Công ước New York quy định: “Tòa án của một quốc gia thành viên, khi nhận được
một đơn kiện về một vấn đề mà vấn đề đó các bên đã có thỏa thuận theo nội dung của
điều này, sẽ theo yêu cầu của một bên đưa các bên ra trọng tài, trừ khi Tòa án thấy
rằng thỏa thuận nói trên khơng có hiệu lực hoặc không thể thực hiện được”. Luật
trọng tài các nước đều có quy định tương tự về vấn đề này.
Luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng quy định cụ thể về cách giải quyết đối
với trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được tại khoản 6 Điều 44:
“Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Nếu khơng có thỏa
thuận khác, các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Tịa án”.
5. Thỏa thuận trọng tài được ký kết giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và
người tiêu dùng
Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã quy định về quyền lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng tại Điều 17: “Đối với các tranh chấp
giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài
đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà
cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn
Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ
được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”. Đây là một
điểm mới nổi bật của Luật trọng tài thương mại so với pháp lệnh trọng tài thương mại
năm 2003, hướng đến việc quan tâm và bảo vệ người tiêu dùng. Lần đầu tiên, pháp luật
về trọng tài có quy định tranh chấp có liên quan đến một bên là người tiêu dùng. Quy
định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng luôn bị đặt ở một vị thế
11



có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản in sẵn của người bán
hàng hoặc người cung cấp dịch vụ. Do vậy cần có quy định bảo vệ người tiêu dùng
trong các tình huống cần thiết. Tuy nhiên, trong trường hợp người tiêu dùng khởi kiện,
họ không cần sự chấp nhận từ nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, mặc dù có
thỏa thuận trọng tài hợp pháp nhưng luật vẫn ưu tiên người tiêu dùng được quyền lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
III. Một số hạn chế và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thỏa thuận trọng tài thương mại
Luật trọng tài thương mại năm 2010 ra đời đã kế thừa được những thành tựu và
khắc phục được những thiếu sót cơ bản của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
Nhìn chung, những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài
thương mại khá tương đồng với hệ thống các văn bản pháp luật trong nước và phù hợp
với pháp luật trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, nó vẫn cịn tồn tại một số hạn chế sau:
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 2 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì trọng tài
thương mại được giải quyết các loại việc sau: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt
động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng Trọng tài. Với quy định này, việc xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại
sẽ gặp khó khăn ở hai vấn đề: Một là, tranh chấp phát sinh từ “hoạt động thương mại”
được hiểu theo quy định nào? Nhiều ý kiến tiếp nhận khái niệm “hoạt động thương
mại” theo quy định của Luật thương mại năm 2005: “là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Cách hiểu này rất hợp lý song vướng
mắc ở chỗ khái niệm “hoạt động thương mại” trên đây chỉ được hiểu trong khuôn khổ
của Luật thương mại 2005. Hai là, “tranh chấp khác” mà Luật trọng tài thương mại
quy định giải quyết theo thủ tục trọng tài rất khó xác định trong pháp luật Việt Nam
hiện hành.
Thứ hai, Điều 6 Luật trọng tài thương mại năm 2010 chỉ đưa ra thuật ngữ “thỏa
thuận trọng tài không thực hiện được” mà khơng có một định nghĩa hay khái niệm cụ

thể thế nào là “không thực hiện được”. Sự thiếu sót này gây cản trở các bên trong việc
áp dụng pháp luật để xác định trường hợp nào thỏa thuận trọng tài không thực hiện
được để họ cân nhắc trước khi xây dựng thỏa thuận trọng tài. Vì vậy, cần có quy định
làm rõ khái niệm thế nào là “thỏa thuận trọng tài không thực hiện được” để các bên
tranh chấp cũng như trọng tài viên dễ dàng áp dụng và đối chiếu giải quyết tranh chấp.
Ví dụ như trường hợp các bên thỏa thuận trung tâm trọng tài cụ thể nhưng lĩnh vực
tranh chấp đó khơng thuộc phạm vi giải quyết quy định trong quy chế của trung tâm
trọng tài đó; thỏa thuận trọng tài chỉ định trung tâm trọng tài nhưng lại chọn quy tắc tố
tụng của trung tâm trọng tài khác mà trung tâm trọng tài được chỉ định từ chối áp dụng
12


giải quyết; các bên chọn cách thức giải quyết bằng cả trọng tài lẫn Tòa án hoặc chỉ rõ
nhiều trung tâm trọng tài và cách thức giải quyết trọng tài trong cùng một thỏa thuận
trọng tài…
Thứ ba, so với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Luật trọng tài thương
mại năm 2010 cịn có quy định mới là thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “vi phạm điều
cấm của pháp luật” (khoản 6 Điều 18). Tuy nhiên, Luật lại khơng cho biết điều cấm
của pháp luật là gì. BLDS 2005 có quy định về điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cịn
rất chung chung. Trong tương lai, đây có thể là một quy định sẽ được khai thác nhiều,
nhất là đối với những thỏa thuận trọng tài liên quan tới pháp luật cạnh tranh, phá sản vì
đây là những vấn đề mà nhiều ý kiến cho rằng không được giải quyết bằng trọng tài.
Từ những tồn tại, hạn chế trên, Chính phủ cần ban hành một số văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành để hướng dẫn cụ thể hơn những vấn đề ở trên. Từ
đó nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Có thể nói, Luật trọng tài thương mại năm 2010 ra đời đã bổ sung những quy
định mới nhằm hồn thiện pháp luật về trọng tài nói chung và thỏa thuận trọng tài nói
riêng ở Việt Nam. Nó đã xây dựng một hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh, thực sự đã
làm thay đổi diện mạo phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ở

Việt Nam, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng phương thức này, đồng thời
đưa pháp luật trọng tài Việt Nam tiếp cận gần hơn với pháp luật của các quốc gia trên
thế giới.

13


1.
2.

3.

4.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật trọng tài thương mại năm 2010.
Trần Thanh Huyền, Khóa luận tốt nghiệp, Một số vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa
thuận trọng tài theo Luật trọng tài thương mại 2010, Người hướng dẫn, ThS.
Nguyễn Thị Vân Anh, Hà Nội, 2012.
Phạm Thị Xuyến, Khóa luận tốt nghiệp, Một số vấn đề pháp lý về thỏa thuận
trọng tài theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, Người hướng dẫn, ThS.
Nguyễn Thị Yến, Hà Nội, 2008.
Vũ Quỳnh Anh, Khóa luận tốt nghiệp, Những vấn đề pháp lý cơ bản về thỏa
thuận trọng tài ở Việt Nam, Người hướng dẫn, TS, Nguyễn Viết Tý, Hà Nội,
2008.

14




×