Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Phân tích tác động của luật quốc tế tới quá trình hoàn thiện các văn bản luật của việt nam trong lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em (8đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.45 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mở bài

2

Nội dung

2

I. Định nghĩa về trẻ em và quyền trẻ em

2

1. Định nghĩa trẻ em

2

2. Định nghĩa Quyền trẻ em

2

II. Quyền trẻ em trong Luật Quốc tế

3

III. Tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định

4

của hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em


1. Quyền trẻ em được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội

4

chủ nghĩa Việt Nam
2. Ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em

5

3. Sửa đổi, bổ sung pháp luật quốc gia liên quan đến Quyền trẻ em

6

IV. Những hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật Việt Nam về

7

quyền trẻ em và một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề này.
1. Hạn chế

7

2. Giải pháp hoàn thiện.

8

Kết bài

8


Danh mục tài liệu tham khảo.

9

1


MỞ BÀI
Quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ngày nay trở thành vấn
đề quan tâm của cộng đồng quốc tế. Trẻ em ở tất cả các nước trên thế giới vẫn còn sống
trong những điều kiện khó khăn và chúng cần được quan tâm đặc biệt. Do đó, sự hợp tác
quốc tế đối với việc cải thiện điều kiện của trẻ em ở mọi nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển là yêu cầu bức thiết. Cộng đồng quốc tế mà trung tâm là Liên hợp quốc đã có
nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản pháp lí quốc tế nhằm xác lập các quyền cơ
bản của trẻ em cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm của các quốc gia đối với trẻ em. Trên cơ sở
các quy định chung của Luật quốc tế, Hệ thống pháp luật Việt Nam đang có những bước
hoàn thiện nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển và đảm bảo cho
tương lai của trẻ.

NỘI DUNG
I. Định nghĩa về trẻ em, quyền trẻ em
1. Định nghĩa trẻ em.
- Dưới góc độ xã hội học, trẻ em là một bộ phận của cơ cấu xã hội.
- Dưới góc độ tâm lý học, xác định trẻ em căn cứ vào độ tuổi và yếu tố tâm lý trong giai
đoạn phát triển (đa số các quốc gia trên thế giới đều lấy độ tuổi từ 0 – 18 tuổi).
- Dưới khía cạnh lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, trẻ em là một chủ thể pháp luật.
Cũng như các chủ thể pháp luật khác (như cá nhân công dân Việt Nam, người nước ngoài,
người không có quốc tịch…) “trẻ em có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ
pháp luật, có được hưởng những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm
pháp luật”

2. Định nghĩa Quyền trẻ em
- Xét về bản chất, quyền trẻ em chính là quyền con người được cụ thể hóa cho phù hợp với
nhu cầu, đặc trưng phát triển và tính chất cuộc sống của trẻ em.
- Xét về nội dung, việc xem xét quyền trẻ em gắn liền với bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội
và văn hóa của từng quốc gia.

2


Như vậy, xuất phát từ bản chất và nội dung, quyền trẻ em có thể định nghĩa là
những điều mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện, nhằm bảo đảm
sự sống còn, bảo vệ, phát triển và tham gia của trẻ.

II. Quyền trẻ em trong Luật Quốc tế.
Ngày 10/2/1948 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua và tuyên bố NQ số
217A về Quyền con người. Tại điều 25, Liên hợp quốc đã thông báo rằng: “Trẻ em có
quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ em trong hay ngoài giá thú đều được
hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau”.
Tháng 4/1952 Hội nghị bảo vệ thiếu nhi thế giới có 64 nước tham gia họp ở Viên
- Áo đã nhất trí lấy ngày 1/6 chính thức là ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi. Điều đó khẳng
định trẻ em là Đối tượng được nhân loại toàn thế giới luôn quan tâm.
Vì vậy ngày 20/11/1989 Liên hợp quốc đã thông qua và phê chuẩn “Công ước về
quyền trẻ em” bao gồm 54 điều khoản có hiệu lực từ ngày 20/11/1990. Trong lời mở đầu,
công ước đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần
được lớn lên trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và
cảm thông… trẻ em cần được chuẩn bị đầy đủ để sống cuộc sống cá nhân trong xã hội và
cần được nuôi dưỡng theo tinh thần các lý tưởng được nêu ra trong hiến chương Liên hợp
quốc, đặc biệt trong tinh thần hòa bình, phẩm giá, khoan dung, tự do, bình đẳng và đoàn
kết”. Công ước cũng định nghĩa trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi (trừ trường hợp
luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn).

Có thể nói Công ước về quyền trẻ em là một công ước đầy sự tiến bộ xã hội, với tinh thần
nhân đạo sâu sắc. Công ước đã chỉ ra tất cả những quyền lợi mà trẻ em ở bất kỳ nơi nào
trên thế giới đều được hưởng thụ để trưởng thành đúng nghĩa một con người. Có thể điểm
qua những quyền trẻ em rất cơ bản của công ước như: “ Không phân biệt đối xử” - điều 2,
công ước quan tâm đến “lợi ích tốt nhất của trẻ em” - điều 3, quyền “sống còn và phát
triển” - điều 6; đoàn tụ gia đình - điều 10; Công ước còn quan tâm đến “mức sống” của
trẻ em - điều 27; “Bảo vệ trẻ em không gia đình: - điều 20; “Lao động trẻ em” – điều 22;
“Lạm dụng ma túy’ - điều 23; “Chống buôn bán và bắt cóc” - điều 35… Điểm qua như
vậy, chúng ta có thể thấy rất rõ tinh thần cao đẹp, tiến bộ, cũng như sự cần thiết của công
3


ước, nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Công ước nhắc nhở tất cả chúng ta hãy vì một tương
lai tốt đẹp của trẻ em, cũng chính vì một tương lai tốt đẹp của đất nước, của dân tộc, của
nhân loại mà hành động cho đúng đắn, hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em.
Việt Nam là quốc gia phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990 .

III. Tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định
của hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em.
Ngày 26/1/1990 Việt Nam đã kí Công ước về quyền trẻ em và phê chuẩn ngày
20/2/1990 (không có bảo lưu nào). Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia
thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước (ngày 20/12/2001 Việt Nam phê chuẩn 2 nghị
định thư bổ sung Công ước, đó là: Nghị định thư (không bắt buộc) về buôn bán trẻ em, mại
dâm trẻ em và văn hóa khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư (không bắt buộc) về sử dụng trẻ
em trong xung đột vũ trang).
Như vậy, việc Việt Nam phê chuẩn Công ước quyền trẻ em 1989 đã tạo cơ sở pháp lí quốc
tế cho việc bảo vệ quyền trẻ em ở Việt Nam bằng việc xây dựng luật và chính sách quốc
gia để hài hoà với các điều khoản của Công ước, cụ thể là:
- Quyền trẻ em được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi);
- Ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (1991); Luật phổ cập giáo dục tiểu

học (1991);
- Sửa đổi, bổ sung pháp luật quốc gia (Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản pháp luật
khác);
1. Quyền trẻ em được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Bản Hiến pháp đầu tiên Nhà nước Việt Nam kiểu mới, Hiến pháp năm 1946 quy
định về quyền được giáo dục, học tập, được chăm sóc về mặt giáo dưỡng. Không những
thế, Nhà nước còn có chính sách trợ giúp đối với học trò nghèo. Chỉ với 2 điều ít ỏi, Hiến
pháp 1946 đã đặt cơ sở cho pháp lý đầu tiên khằng định các quyền cơ bản và thiêng liêng
của trẻ em, bao gồm quyền được học tập và chăm sóc. Các quyền cơ bản này, cùng với sự
quan tâm của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích của trẻ em được tiếp tục thể hiện, phát
triển và bổ sung ở những bản Hiến pháp tiếp theo. Hiến pháp năm 1959 đã rất đúng đắn khi
4


gắn quyền lợi của trẻ em với những quyền của phụ nữ - người mẹ sinh thành, nuôi nấng,
dạy dỗ trẻ em ngay từ khi mới chào đời. Đến Hiến pháp năm 1980, ngoài việc kế thừa các
bản Hiến pháp trước còn quy định thêm rằng Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều
kiện cho công tác chăm sóc sức khỏa, cho hoạt động học tập, giáo dục, sinh hoạt văn hóa
tinh thần của trẻ em. Cho tới Hiến pháp năm 1992, sau khi Việt Nam phê chuẩn công ước
quốc tế về quyền trẻ em, trên cơ sở ghi nhân những quyền cơ bản của trẻ em tại Công ước,
quyền trẻ em trong Hiến pháp 1992 trở thành một chế định hoàn chỉnh chứ không còn là
những quy định riêng lẻ như những bản Hiến pháp trước. Quy định về quyền trẻ em được
gói gọn trong khoảng hơn 10 Điều, với nội dung toàn diện hơn, đáp ứng như cầu nguyện
vọng chung của xã hội, phù hợp với công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền và
phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
Đây là những tiền đề và cơ sở pháp lý quan trọng để quyền trẻ em được quy định cụ thể
hơn tại các văn bản luật và dưới luật có tính chất chung hoặc riêng một cách đầy đủ và toàn
diện nhất.
2. Ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Ngay sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em, quốc hội Việt Nam
đã ban hành luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em năm 1991 sửa đổi bổ sung năm 2004.
Luật này đã thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng về quyền trẻ em đồng thời chuyển
hóa các quy định của công ước vào pháp luật Việt Nam. Có thể nói, đạo luật này đã quy
định quyền của trẻ em gắn với bổn phận của trẻ em là sự phát triển độc đáo giá trị văn hóa
tinh thần Việt Nam trong việc thực hiện công ước về quyền trẻ em. Đây là sự sáng tạo
trong việc cụ thể hóa các điều ước quốc tế vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc gắn
quyền với bổn phận của trẻ em là phù hợp với văn hóa Việt Nam, một mặt mang tính giáo
dục các em biết trách nhiệm của bản thân mình với gia đình, xã hội và chính bản thân
mình. Mặt khác, việc tiếp cận quan hệ giữa quyền và bổn phận khiến xã hội dễ chấp nhận
vì nền văn hóa của Việt Nam vẫn công nhận rằng ngoài việc trẻ em có quyền thì chúng
cũng cần phải giáo duc, rèn luyện.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã cụ thể hóa Hiến pháp về các quyên
cơ bản của công dân nói chung và trẻ em nói riêng. Ý nghĩa cơ bản của văn này ở chỗ, đây
5


là đạo luật đầu tiên đề cập một cách toàn diện hàng loạt vấn đề liên quan đến quyền trẻ em.
Đặc biệt luật này đã đề cập đến các điều kiện bảo đảm thi hành Luật trong cuộc sống , nhân
mạnh sự cần thiết phải huy động các nguồn tài liệu, nhân lực vào việc tổ chức giáo dục,
phát triển trí tuệ và thể chất của trẻ em.
3. Sửa đổi, bổ sung pháp luật quốc gia liên quan đến quyền trẻ em.
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em đã tạo thành một hệ thống
quy định khá đầy đủ và toàn diện. Chúng được xây dựng và ban hành trong những thời
gian khác nhau, sửa đổi, bổ sung và từng bước trở nên hoàn chỉnh, phù hợp với điều kiện
kinh tế, xã hội của đất nước, có tính đến xu hướng chung của các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Cũng với việc ra đời của Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, Việt Nam đã
ban hành rất nhiều các văn bản luật khác, như Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật hình sự năm
1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật

hôn nhân và gia đình năm 2000, pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính…Các văn bản này
đã tạo nên một hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, bao gồm các văn bản chuyên ngành,
không chuyên ngành, đến các văn bản luật và văn bản dưới luật góp phần quan trọng vào
thành tựu trong việc thực hiện quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam. Hệ thống các văn
bản luật liên quan của Việt Nam tập trung vào các nguyên tắc bảo vệ quyền và phúc lợi của
trẻ em với quan điểm ưu tiên, bình đẳng và không phân biệt đối xử. Đề cao các quyền được
bảo vệ, phát triển. Chú trọng trong việc quản lý vấn đề xử lí người chưa thành niên vi
phạm nói riêng và tội phạm nói chung, chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Ví dụ: Luật Lao động
(2002) quy định độ tuổi tối thiểu trong việc sử dụng lao động, nghiêm cấm lao động trẻ
em; Luật bình đẳng giới (2006) quy định nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới; Luật tố
tụng hình sự (2003) quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt dối với người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên; Luật tố tụng dân sự (2005) quy định trình
tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự,
trong đó có những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và trẻ em….
6


Có thể nói các văn bản pháp luật kể trên đã khái quát được các khía cạnh của quyền
trẻ em, đồng thời đánh dấu được bước phát triển đáng kể cho việc hình thành hệ thống
pháp luật về người chưa thành niên ở Việt Nam.

IV. Những hạn chế còn tồn tại trong quy định của pháp luật Việt Nam về
quyền trẻ em và một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề này.
1. Hạn chế.
- Thứ nhất, có thể thấy trong khoa học pháp lý Việt Nam, hầu như chưa có một định nghĩa
nào về trẻ em cũng như về sự điều chỉnh pháp luật đối với trẻ em. Thông thường, chỉ thấy
một số ngành luật nhắc đến các khái niệm trẻ em, người chưa thành niên và các quy định
này không thống nhất giữa tất cả các ngành luật. Cụ thể như:
Theo quy định tại Điều 1, Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm 1991: “trẻ em là

công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Còn luật hôn nhân gia đình năm 2000 xác định tuổi nuôi
con nuôi là 15 tuổi trở xuống (điều 34). Trong khi đó, bộ luật hình sự 1999 lại quy định
người chưa thành niên phạm tội là người đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bộ luật lao động năm
1994 lại quy định người lao động chưa thành nhiên là người lao động dưới 18 tuổi (điều
119) còn khái nhiệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi (điều 120). Bên cạnh đó,
pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989 lại quy định tuổi chịu trách nhiệm hành chính
“là người từ đủ 14 tuổi trể lên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính”. Điều này cũng gây
khó khăn cho việc áp dụng, giải quyết các vấn đề pháp luật liên quan đến trẻ em.
- Thứ hai, Hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này trong nhiều trường hợp còn chưa
đồng bộ và đầy đủ. Ngoài các hình thức xử lý chính thức (xử lý hành chính và xử lý hình
sự) chúng ta chưa xác lập được khung pháp lý riêng cho các hình thức xử lý thay thế mang
tính giáo dục phòng ngừa xã hội cao, không mang tính quyền lực nhà nước đối với người
chưa thành niên vi phạm.
- Thứ ba, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng có những điều khoản quy định về thủ tục đối
với người chưa thành niên từ điều 301 đến 310. Chương XXXII. Tuy nhiên, phạm vi áp
dụng chỉ bao gồm người chưa thành nhiên bị bắt giữa, tạm giữ, bị can, bị cáo mà chưa có
điều khoản nào quy định về người bị hại, người làm chứng là trẻ em. Bộ Luật tố tụng hình
sự 2003 mới chỉ đề cập đến thủ tục đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
7


Trương tự, Bộ luật dân sự cũng chưa có điều khoản cụ thể quy định về thủ tục đối với
người bị hại, người làm chứng là trẻ em.
2. Giải pháp hoàn thiện.
- Một là, kiện toàn các cơ quan điều phối chính sách liên quan đến trẻ em và giám sát việc
thực hiện Công ước về quyền trẻ em.
- Hai là, khẩn trương hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng tăng cường chuyển
hướng và tư pháp phục hồi đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam
đề phù hợp với chuẩn mực quốc tế và xu hướng hội nhập
- Ba là, củng cố hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính và thúc đẩy việc tăng cường

áp dụng các biện pháp xử lý không chính thức tại cộng đồng mang tính phục hồi đối với
người chưa thành niên vi phạm pháp luật hành chính.
- Bốn là, phổ biến các nguyên tắc và điều khoản của Công ước cho người lớn và trẻ em
thông qua các tài liệu, sách báo; các hội nghị, hội thảo của cơ quan nhà nước như: Bộ y tế,
Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ lao động, thương binh và xã hội…; thông qua các chuyên mục
của các phương tiện thông tin đại chúng cũng như các hình thức văn học nghệ thuật…
- Năm là, vận động toàn xã hội tham gia thực hiện Công ước thông qua các phong trào,
Các tổ chức phi chính phủ. Những hoạt động này trước hết làm thay đổi thái độ và khuyến
khích người lớn phải có trách nhiệm hơn đối với trẻ em đồng thời thông qua đó huy động
các nguồn nhân lực và vật lực cho công tác trẻ em.

KẾT BÀI.
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” là câu nói bao hàm đầy đủ ý nghĩa về Trẻ
Em. Đấy là tương lai của nhân loại, của thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi họ
tộc và mỗi gia đình…
Cho tới nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đang có những bước phát triển, hoàn thiện nhất
định nhằm hướng tới việc đảm bảo các quyền của trẻ em theo đúng với chuẩn mực quốc tế.
Mong rằng trong một tương lại không xa, không chỉ có trẻ em Việt Nam mà tất cả trẻ em
trên thế giới đều được tôn trọng, được bảo vệ, được chăm sóc và được hưởng trọn vẹn
những quyền và lợi ích của mình.
8


DANH MỤC TÀI LIÊU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
2. Ths. Nguyễn Thị Kim Ngân – Ths. Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), giáo trình luật
quốc tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010.
3. Chu Mạnh Hùng, Cơ chế pháp lý bảo vệ Quyền trẻ em ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Đại học Luật HN, Hà Nội, 2004.
4. Nguyễn Thị Thúy Anh QT32T, Bảo vệ quyền trẻ em trong hoạt động tư pháp lý luận và

thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2011.
5. Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em.
6. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
7. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991.
8. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991.
9. Bộ luật hình sự năm 1999.
10. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
11.Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003.
12. Bộ Luật dân sự năm 2005
13.Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính.
14. Một số website:
-
-
- />
9



×