Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài tập lớn hình sự việt nam 2 ( 8 điểm nhé )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.27 KB, 10 trang )

BÀI 4
Thấy chiếc máy cày của nhà ông H đang đậu trước sân, do hiếu kỳ nên A đã
leo lên, nổ máy hơi. Không ngờ máy nổ. A lúng túng gạt phải cần số làm máy cày
chuyển động. Cạnh đó có một đám trẻ con đang chơi bắn bi không để ý và có hai
em bị máy cày cán chết.
Hỏi:
1) Hãy định tội danh cho A (2 điểm)
2) Giả sử A mới 15 tuổi thì A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? (2 điểm)
3 ) Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm hãy xác định tội phạm do A
thực hiện là loại cấu thành tội phạm gì? (1 điểm)
4) Giả sử chiếc máy cày đang đậu ở ven đường làng và A có hành vi nêu trên thì
tội danh của A có thay đổi không? Tại sao? (2 điểm)

Page 1 of 10


BÀI LÀM
Trong tình huống đưa ra không hề đề cập đến độ tuổi cũng như năng lực
chịu trách nhiệm hình sự của A, vì thế ta có thể mặc nhiên hiểu là A có đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội
mà mình gây ra.
1) Hãy định tội danh cho A
Trả lời: Tội danh của A trong trường hợp này là tội vô ý làm chết người được quy
định tại Điều 98 Bộ luật hình sự mà cụ thể là tại khoản 2 điều này. Điều 98_BLHS
quy định:
“1. Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2.Phạm tội làm chết nhiều người thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”.
Căn cứ pháp lý:
Để định tội danh cho A một cách chính xác sau đây em đi vào phân tích các
dấu hiệu pháp lý của tội vô ý làm chết người được quy định tại Điều 98 BLHS như
sau:


*) Khái niệm tội vô ý làm chết người
Khi định nghĩa về tội vô ý làm chết người, phải nêu bật được những đặc
trưng của tội phạm này: về hành vi: đó là hành vi làm chết người do vi phạm quy
tắc an toàn trong điều kiện sinh hoạt thông thường; về hậu quả chết người, thứ ba
đặc trưng về lỗi vô ý… Từ đó có thể đưa ra định nghĩa như sau: Tội vô ý làm chết
người là hành vi gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật trong điều
kiện thông thường, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, thực hiện một cách vô ý.
*) Về mặt khách thể:
Khách thể của tội này là một trong những khách thể quan trọng nhất được
luật hình sự bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.
Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền sống của con người. Để xác định
một hành vi có xâm phạm quyền sống hay không chúng ta phải xác định đối tượng
tác động có phải là một con người đang sống hay không. Đối tượng tác động của
tội vô ý làm chết người là con người đang sống, được tính từ thời điểm đứa trẻ
Page 2 of 10


được người mẹ sinh ra – kết thúc quá trình sinh, cho đến khi người đó thực sự chết
– giai đoạn sinh học. Trong tình huống này hành vi của A đã trực tiếp xâm phạm
đến quyền sống, quyền bảo vệ tính mạng của hai đứa trẻ bằng hành vi vô ý lái máy
cày cán chết hai em.
*) Về mặt chủ thể của tội phạm
Khái niệm: Chủ thể của tội vô ý làm chết người không có những dấu hiệu
đặc biệt. Do vậy, khái niệm chủ thể của tội vô ý làm chết người giống với khái
niệm chủ thể của tội phạm nói chung.
Từ đó, ta có thể đưa ra khái niệm như sau: Chủ thể của tội vô ý làm chết
người là người thực hiện hành vi làm chết người trong điều kiện sinh hoạt thông
thường với lỗi vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực nhận thức được ý nghĩa xã hội của

hành vi của mình và điều khiển được hành vi theo đòi hỏi của xã hội. Người có
năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có
khả năng kiềm chế hành vi đó để lựa chọn thực hiện hành vi khác cho phù hợp với
đòi hỏi của xã hội.
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 8, 12, 98 Bộ luật
Hình sự, thì người từ đủ 16 tuổi mới có thể trở thành chủ thể của tội vô ý làm chết
người. Như vậy, trong tình huống này A đã có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như trên đã phân tích. Do đó , A thỏa mãn
dấu hiệu chủ thể của tội vô ý làm chết người.
*) Về mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội vô ý làm chết người là những biểu hiện của tội vô ý
làm chết người diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Trong đó hành
vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là những biểu hiện cơ
bản của yếu tố mặt khách quan của tội vô ý làm chết người.
Hành vi khách quan của tội phạm: Người phạm tội có hành vi vi phạm quy
tắc an toàn. Đó là những quy tắc nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe
cho con người. Những quy tắc đó thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được
Page 3 of 10


quy phạm hóa hoặc có thể chỉ là những quy tắc xử xự xã hội thông thường đã trở
thành tập quán sinh hoạt, mọi người đều biết và thừa nhận.
Hậu quả của tội phạm: Hành vi vi phạm nói trên phải đã gây ra hậu quả chết
người. Hậu quả này là dấu hiệu bắt buộc của CTTP.
Hậu quả trong tình huống này là cái chết của hai em nhỏ đang chơi bắn bi
trên sân nhà.
QHNQ giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: QHNQ giữa hành vi và hậu
quả đã xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của CTTP. Người có hành vi vi phạm chỉ phải
chịu TNHS về hậu quả chết người đã xảy ra, nếu hành vi vi phạm của họ đã gây ra

hậu quả này hay nói cách khác là giữa hành vi vi phạm của họ và hậu quả chết
người có QHNQ với nhau.
Xét trong tình huống trên ta thấy khi nhìn thấy chiếc máy cày nhà ông H, do
tính hiếu kỳ mà A đã leo lên, nổ máy hơi, máy nổ làm A lúng túng gạt phải cần số
làm máy cày chuyển động.Hành vi này của A đã vi phạm quy tắc an toàn về tính
mạng, sức khỏe của những người xung quanh, đặc biệt là A biết rõ có đám trẻ con
chơi ở cạnh đấy mà còn có hành vi như vậy. Trong tình huống này, chính vì hành vi
vi phạm của A mà dẫn đến cái chết cho hai đứa trẻ đang chơi bắn bi gần đó, nếu
như không có hành vi của A thì cũng sẽ không có hậu quả là hai đứa trẻ kia chết.
Như vậy giữa hành vi của A và cái chết của 2 đứa trẻ có mối quan hệ nhân quả với
nhau.
*) Về mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi vô ý. Có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì
cẩu thả.
Trong tình huống trên lỗi của A là lỗi vô ý vì cẩu thả, sở dĩ lỗi của A không
phải lỗi vô ý vì quá tự tin, vì ngay từ lúc đầu khi máy nổ A đã lúng túng chứng tỏ A
không biết điều khiển máy cày. Nếu A biết điều khiển máy cày, A rất tự tin là trèo
lên nổ máy điều khiển sẽ không xảy ra việc gì hoặc có xảy ra chuyện gì thì A sẽ
ứng phó được khi đó A sẽ phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin. Còn trong trường hợp
này A phạm tội với lỗi vô ý vì cẩu thả chứ không thể là lỗi vô ý vì quá tự tin được.

Page 4 of 10


Lỗi vô ý vì cẩu thả được quy định tại khoản 2 Điều 10 BLHS “Người phạm
tội không nhìn thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.
Vô ý vì cẩu thả là trường hợp do cẩu thả mà người phạm tội không thấy
trước được khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước
hoặc có thể thấy trước. Tiêu chí để xác định một người phải thấy trước hoặc có thể

thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội là căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể lúc
xảy ra sự việc một người bình thường cũng có thể nhìn thấy trước, ngoài ra còn
phải căn cứ vào độ tuổi trình độ văn hóa, tay nghề,…
Trong hoàn cảnh này, A do tính hiếu kỳ đã leo lên máy cày nổ máy, khi máy
nổ A lúng túng gạt phải cần số làm máy cày chuyển động. Hành vi lúng túng của A
gạt phải cần số làm máy cày chuyển động đều nằm ngoài ý muốn và tầm kiểm soát
của A. Như vậy A hoàn toàn không chủ định làm máy cày chuyển động mà do bị
lúng túng nên A gạt phải cần số làm máy cày chuyển động. Do đó A không thể thấy
trước hậu quả chết người mà hành vi của mình có thể gây ra.
Ở tình huống này chính lỗi vô ý vì cẩu thả của A đã khiến hành vi hiếu kỳ
của mình trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của hai em nhỏ.
Từ tất cả các dậu hiệu đã phân tích ở trên ta kết luận tội danh của A là tội
vô ý làm chết người, theo quy định tại khoản 2 Điều 98 BLHS.
2) Giả sử A mới 15 tuổi thì A có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”.
Theo khoản 3 Điều 8 BLHS: “ Tội rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là 15
năm tù”. Căn cứ khoản 2, Điều 98 BLHS ta xác định mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội này là mười năm tù nằm trong ngưỡng tội rất nghiêm trọng thuộc
khoản 3 Điều 8 BLHS nên ta xác định tội của A trong tình huống trên là loại tội
Page 5 of 10


phạm rất nghiêm trọng. Ở tình huống này A phạm tội rất nghiêm trọng nhưng xét
về mặt chủ quan A lại phạm tội với lỗi vô ý nên dù A có 15 tuổi thì cũng không
phải chịu TNHS theo khoản 2 Điều 12 được. Mặt khác, độ tuổi quy định phải chịu

TNHS ở tội vô ý làm chết người là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng
lực TNHS
Như vậy, qua phân tích ở trên ta kết luận A mới 15 tuổi sẽ không phải chịu
TNHS về tội vô ý làm chết người.
3) Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm hãy xác định tội phạm
do A thực hiện là loại cấu thành tội phạm gì?
Tội phạm do A thực hiện là loại CTTP vật chất.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể chia CTTP thành
CTTP vật chất và CTTP hình thức:
-CTTP vật chất là CTTP có dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu
quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
-CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Điểm khác nhau giữa CTTP vật chất và CTTP hình thức ở chỗ các nhà làm
luật quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc hay không phải là dấu hiệu bắt
buộc trong CTTP. Việc xác định loại tội nào có CTTP vật chất hay có CTTP hình
thức phải dựa vào quy định của luật, tránh quan niệm cho rằng có hậu quả xảy ra
thì tội phạm đang xem xét có CTTP vật chất hay ngược lại, nếu hành vi phạm tội
chưa gây ra hậu quả thì tội có CTTP hình thức. Việc xây dựng loại tội nào có
CTTP cơ bản là CTTP vật chất hay CTTP hình thức là xuất phát từ cơ sở khách
quan sau:
+ Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định thì
CTTP thường được xây dựng là CTTP hình thức.
+ Nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được hoặc chưa thể hiện
đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả
hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì CTTP thường được xây dựng là CTTP vật chất.
Page 6 of 10



Áp dụng vào khoản 2 Điều 98 BLHS “2. Phạm tội làm chết nhiều người thị
bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Như vậy, nhà làm luật quy định dấu hiệu hậu
quả “làm chết nhiều người” là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội vô ý làm chết
người khoản 2 Điều 98. Mặt khác, vì hành vi vi phạm quy tắc an toàn của A đã trực
tiếp gây ra cái chết của hai em nhỏ đang chơi bắn bi. Đây chính là mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm của A và cái chết của hai em.
Do đó tội phạm do A thực hiên là loại tội có CTTP vật chất.
4) Giả sử chiếc máy cày đang ở ven đường làng và A có hành vi nêu trên thì tội
danh của A có thay đổi không? Tại sao?
Khẳng định: Tội danh của A không thay đổi, A vẫn là tội vô ý làm chết
người theo khoản 2 Điều 98 BLHS.
Giải thích:
Thứ nhất, căn cứ luật Giao thông đường bộ năm 2008, Điều 3 các khoản 17,
18, 19, 20:
“…17. Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ.
18.Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô
tô; máy kéo; rơ moosooc hoặc sơ mo rooc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe ô tô
hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy ( kể cả xe máy điện) và các loại xe tương
tự.
19. Phương tiện thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe
đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật và các loại xe
tương tự.
20. Xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và
các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia
giao thông đường bộ”.
Theo nhưng quy định trên thì máy cày không phải phương tiện giao thông
đường bộ mà nó chỉ là xe máy chuyên dùng (cụ thể là xe máy nông nghiệp) quy
định tại điểm 20 Điều 3 Luật giao thông đường bộ.
Page 7 of 10



Thứ hai là khoản 1 Điều 202 BLHS quy định: “Người nào điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.
Có nghĩa là người điều khiển phương tiện phải vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ thì mới có thể cấu thành tội này.
Khi địa điểm là ở ven đường làng thì cũng không cấu thành tội theo Điều
202 BLHS được. Bởi vì trong trường đó máy cày đã tham gia giao thông đường
bộ, đã vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, nhưng máy cày không
phải là phương tiện giao thông đường bộ. Điều luật quy định là “Người nào điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ” chứ không phải quy định là “Người nào
điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” nên xe máy chuyên dùng
có tham gia giao thông, có vi phạm an toàn giao thông gây hậu quả chết người thì
cũng không phạm tội này. Mặt khác,trong tình huống này lỗi của A là lỗi vô ý vì
cẩu thả được quy định tại khoản 2 Điều 10 BLHS. Hành vi A lung túng gạt phải
cần số làm máy cày chuyển động đều nằm ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của A.
Điều đó cho thấy A không chủ động đều khiển làm máy cày chuyển động, mà do
trạng thái lung túng nên A gạt phải cần số làm máy cày chuyển động, mà do lúng
túng nên mới gạt phải cần số làm máy cày chuyển động.
Từ những phân tích trên, ta kết luận một lần nữa là tội danh của A không
thay đổi trong trường hợp này.

Page 8 of 10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) ................Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, tập 2, NXB Công an nhân dân

2) Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm
2009.
3) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam, đã
sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Lao động, Hà Nội năm 2013.
4) Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999, Đinh Văn Quế - Thạc sĩ luật
học – Tòa án nhân dân tối cao, NXB thành phố Hồ Chí Minh

Page 9 of 10


MỤC LỤC

Page 10 of 10



×