Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 107 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






VŨ THỊ HUYỀN





TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC
VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS Trƣơng Quang Vinh



Hà nội – 2010

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN




Vũ Thị Huyền




3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
1
Lời cam đoan
2
Mục lục
3
Danh mục các chữ viết tắt trong luận văn
6
Danh mục các bảng
7
Danh mục các biểu đồ, đồ thị
8
MỞ ĐẦU
9
Chƣơng 1
14
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY
ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
14
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm
1999
14
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình
sự năm 1985
14

1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
20
1.2. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
23
1.2.1. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
23
1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng
25
1.2.3. Khung pháp lý về tội vi phạm các quy định về khai thác và
42

4
bảo vệ rừng
1.2.4. Phân biệt tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng với một số tội phạm khác
44
Chƣơng 2
51
THỰC TRẠNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI
THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG VIỆT NAM
51
2.1. Tình hình tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
51
2.1.1. Thực trạng của tình hình tội phạm

52
2.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm
57
2.1.3. Tính chất của tình hình tội phạm
59
2.2. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới
69
2.2.1. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng ở Việt Nam
69
2.2.2. Phòng chống tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng ở một số nước trên thế giới
75
Chƣơng 3
83
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ
83

5
BẢO VỆ RỪNG
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
83
3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng
85
3.2.1. Các yếu tố cấu thành tội phạm
85

3.2.2. Hình phạt
94
3.3. Hoàn thiện quy dịnh pháp luật có liên quan đến tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
95
3.4. Mô hình lý luận tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng
100
KẾT LUẬN
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
104







6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS
Bộ luật hình sự
MĐGTHN
Mức độ gia tăng hàng năm
TAND
Toà án nhân dân
TP
Tội phạm

VPCQDVKTVBVR
Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng












7
DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 1.1. So sánh tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng với tội buôn lậu, tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới, tội huỷ hoại rừng, tội vi phạm các quy định về bảo
vệ động vật hoang dã, quý hiếm.
44
Bảng 2.1. Số vụ và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong năm năm, từ năm 2005
đến năm 2009.
52
Bảng 2.2. Số vụ, số bị cáo phạm tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng so sánh với tội phạm nói chung của từng năm,

từ năm 2005 đến năm 2009.
53
Bảng 2.3. Số vụ vi phạm về khai thác, mua bán, vận chuyển và
chế biến lâm sản so sánh với số vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát
triển rừng nói chung cũng như số vụ/ số bị can bị xử lý về hình sự
trong ba năm, từ năm 2007 đến năm 2009.
56
Bảng 2.4. Mức độ gia tăng hàng năm của số vụ và số bị cáo phạm
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
58
Bảng 2.5. Đặc điểm nhân thân của bị cáo đã xét xử sơ thẩm trong
năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009.
65
Bảng 2.6. Đặc điểm nhân thân của 115 bị cáo thuộc 100 vụ án vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
66






8
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ

Trang
Biểu đồ 2.1. Số lượng tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng và số lượng tội phạm nói chung, từ năm 2005 đến
năm 2009.
53

Biểu đồ 2.2. Số lượng bị cáo của tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng và số bị cáo của các tội phạm nói chung, từ
năm 2005 đến năm 2009.
55
Đồ thị 2.1. Diễn biến tình hình tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng trong năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009.
59
Đồ thị 2.2. Diễn biến tình hình số bị cáo là cán bộ công chức
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong
năm năm, từ năm 2005 đến năm 2009.
68















9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
` Việt Nam là nước có diện tích rừng và đất rừng khá lớn, chiếm khoảng

30% diện tích lãnh thổ. Là nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế lớn nên rừng đã
trở thành đối tượng, mục tiêu khai thác của nhiều cá nhân, tổ chức. Do vậy,
khai thác rừng một cách bền vững cũng như bảo vệ rừng ở Việt Nam trở
thành một vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng, Nhà
nước ta đã chủ trương từng bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên
cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì những mặt tiêu cực, ảnh hưởng
không nhỏ tới quá trình cải cách cũng có xu hướng ngày càng phát triển.
Tình hình tội phạm về kinh tế nói chung, đặc biệt là tình hình tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng có chiều hướng gia
tăng. Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã gây ra
cho xã hội những hậu quả nghiêm trọng đồng thời trở thành một nguy cơ,
thách thức to lớn, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương phát triển kinh
tế mà Đảng, Nhà nước đã đề ra và đe doạ nghiêm trọng đến sự cân bằng môi
trường sinh thái.
Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12
năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01/7/2000 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung cơ bản,
toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985. Theo đó tội vi phạm quy định vể quản lý
và bảo vệ rừng quy định tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985 được tách
làm 02 tội đó là tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều
175 Bộ luật hình sự năm 1999) và tội vi phạm các quy định về quản lý rừng
(Điều 176 Bộ luật hình sự năm 1999). Bên cạnh quy định của luật hình sự đối

10
với hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng còn có các quy
định của các văn bản pháp luật thuộc ngành và lĩnh vực khác cùng điều chỉnh
các quan hệ và hành vi liên quan đến tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng
Việc nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện những vấn đề lý luận và

thực tiễn về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một mặt
góp phần nghiêm trị những hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về
khai thác và bảo vệ rừng; mặt khác cũng thấy được giới hạn cần trừng trị bằng
pháp luật hình sự đối với hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra
được mô hình lý luận của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong khoa học luật hình sự, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh
chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với loại tội này.
Chính vì lý do nêu trên, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam, làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tình hình tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng không những về số lượng
các vụ án, số lượng người thực hiện hành vi phạm tội trong mỗi vụ, mà tính
chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm này cũng ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Tuy nhiên số lượng các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
tội phạm này không nhiều. Có thể kể đến như luận văn thạc sỹ luật học của
tác giả Lê Văn Hà: Trách nhiệm hình sự đối với tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm này trên địa bàn
tỉnh Gia Lai, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2002; bài viết của tác giả

11
Đỗ Đức Hồng Hà: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng-
những tồn tại và vướng mắc cần tháo gỡ, tạp chí Toà án nhân dân số 14 năm
2005. Và gần đây nhất là luận án tiến sỹ luật học của tác giả Phạm Đình Xinh:
Hoạt động điều tra tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng của cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý và chức vụ.
Các công trình này hoặc là chỉ nghiên cứu một phần về trách nhiệm
hình sự của loại tội này cũng như đấu tranh phòng ngừa tội phạm này trên

một phạm vi hẹp; hoặc là nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong hoạt động điều tra tội phạm vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng của cơ quan cảnh sát điều tra; hoặc là chỉ dừng lại ở các bài
viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực
tiễn về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình
sự Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm các mục đích sau:
- Nghiên cứu lịch sử các quy định về tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999. Trên cơ sở đó đưa
ra khái niệm về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng;
- Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng.
- Nghiên cứu thực trạng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng và thực tiễn giải quyết các vụ án này tại Việt Nam.

12
- Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực của
những hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đối với nền
kinh tế thị trường Việt Nam cũng như đối với môi trường sinh thái.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng, đồng thời xây dựng mô hình lý luận một cách hiệu
quả, có tính khả thi cao về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự về
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng cũng như các vấn đề có
liên quan đến tội này tại Việt Nam từ trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm

1999 đến nay.
Về không gian: Nghiên cứu tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng tại Việt Nam, trong sự so sánh, liên hệ với loại tội này ở một số
nước trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để giải quyết
những nhiệm vụ mà đề tài đặt ra như phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử…
5. Điểm mới về mặt khoa học
Đề tài được thực hiện thành công và đạt các mục đích đề ra sẽ có đóng
góp mới về mặt khoa học như sau:

13
- Làm rõ về mặt lý luận cấu thành tội phạm của tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng đồng thời xây dựng mô hình lý luận về loại tội này
trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn được trình bày theo kết cấu
sau đây: Phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận.
Ba chương của bản luận văn bao gồm:
Chương 1: Một số vấn chung về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng
Chương 2: Thực trạng tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật hình sự về tội vi phạm

các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.









14
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG

1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng trƣớc khi có Bộ luật hình sự năm 1999
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985
Cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam. Cùng với việc ra đời của Nhà nước, nhân dân ta vừa phải xây dựng,
củng cố chính quyền vừa phải tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược. Đảng ta đã xác định ba nhiệm vụ lớn ngay khi giành được
độc lập là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm, trong đó giữ
vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu. Với điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội giai đoạn này không cho phép Nhà nước ban hành ngay các văn bản pháp
luật. Do vậy, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh
số 47/SL quy định tạm thời về việc sử dụng luật lệ cũ hiện hành ở Việt Nam,
trong đó có Bộ “Luật hình An Nam”, Bộ “Hoàng Việt hình luật” và Bộ “Hình

pháp tu chính”. Theo nội dung của Sắc lệnh này, thì khi xét xử, Toà án xét xử
theo luật hình cũ mà thực dân phong kiến đã đề ra nhưng với điều kiện không
được trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ
cộng hoà [26, tr.53]. Ở giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, việc xét xử các
tội phạm nói chung và tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
nói riêng chủ yếu vẫn dựa vào luật lệ hình sự cũ. Nhìn chung, thời kỳ này
chúng ta chỉ có một số ít các văn bản pháp luật quy định về các hành vi vi
phạm khai thác và bảo vệ rừng như: Sắc lệnh số 142/SL ngày 21/12/1949 quy

15
định việc lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng; Sắc lệnh số
26/SL ngày 25/02/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 267/SL
ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước,
của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế
hoạch Nhà nước.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nước ta chia thành hai miền.
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền
Nam tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Điều
kiện kinh tế, văn hoá, xã hội ở miền Bắc đã có những biến đổi căn bản so với
trước đó, do vậy toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ cũ không được phép
áp dụng nữa [26, tr.65]. Cũng trong thời kỳ này đã xuất hiện một số văn bản
pháp luật điều chỉnh các hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng có giá trị pháp lý cao như: Pháp lệnh quy định về quản lý Nhà nước đối
với công tác phòng cháy và chữa cháy (ngày 27/9/1961); Nghị định số 221-
CP ngày 29/12/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc phòng cháy và chữa
cháy rừng; Nghị định số 39-CP ngày 05/4/1963 của Hội đồng Chính phủ ban
hành điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng; Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (ngày 21/10/1970); Pháp lệnh ngày
06/9/1972 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định việc bảo vệ rừng; Nghị
quyết số 155-CP ngày 03/10/1973 của Hội đồng Chính phủ về việc thi hành

pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng…. Đặc biệt, trong thời kỳ này vấn đề
bảo vệ rừng đã được đề cập trong đạo luật cao nhất của Nhà nước ta- Hiến
pháp năm 1980. Điều 36 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Các cơ quan Nhà
nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có
nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống”. Quy định này đã

16
đặt cơ sở pháp lý quan trọng và cơ bản nhất cho sự điều chỉnh của pháp luật
đối với việc khai thác và bảo vệ rừng.
Trước hết cần phải kể đến Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970. Mặc dù Pháp lệnh này không quy định tội
khai thác và bảo vệ rừng nhưng những quy định của pháp lệnh này cũng có
thể áp dụng để trừng trị những hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ rừng;
tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép lâm sản; cố ý huỷ hoại tài nguyên
rừng; cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về bảo vệ rừng, gây
thiệt hại đến tài nguyên rừng; thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc cố ý làm cháy
rừng. Cụ thể là các tội: Tội cố ý huỷ hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ
nghĩa (Điều 6); Tội cố ý làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về
kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 12); Tội
thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa
(Điều 14); Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa
(Điều 18).
Ví dụ, Điều 14 quy định:
1. Kẻ nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản xã hội
chủ nghĩa, vì tinh thần trách nhiệm mà không chấp hành hoặc chấp hành
không đúng các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ, để mất mát, hư hỏng,
lãng phí, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù
từ sáu tháng đến bảy năm.
2. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm [23, tr.103].
Căn cứ vào quy định trên đây thì hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm,
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng đều bị xử lý theo Điều 14
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Hành vi này
một mặt xâm hại trực tiếp đến tài sản xã hội chủ nghĩa, mặt khác cũng xâm

17
hại đến chế độ bảo vệ rừng của Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong các trường hợp
này khách thể trực tiếp được bảo vệ ở đây là tài sản xã hội chủ nghĩa.
Ngày 06/9/1972, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh quy
định việc bảo vệ rừng. Theo đó tất cả các hành vi gây thiệt hại đến rừng đều
bị nghiêm cấm. Đó là: Cấm phá rừng. Những rừng tự nhiên và rừng trồng đều
phải được bảo vệ nghiêm ngặt (Điều 3); Cấm mọi hành động chặt cây rừng
trái với các điều quy định của Nhà nước (Điều 4); Chính phủ quy định những
khu rừng cấm nhằm bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ di tích lịch sử, bảo vệ sức
khoẻ, nghiên cứu khoa học hoặc các lợi ích đặc biệt khác.
Ở những khu rừng này, cấm chặt cây, trừ trường hợp để dọn rừng và tu
bổ rừng, cấm săn, bắt chim, muông, thú rừng (Điều 5); Cấm phá rừng, đốt
rừng để làm nương dẫy (Điều 6); Cấm đốt lửa ở trong rừng và ven rừng để
dọn đường, hạ cây, lấy củi, săn bắt thú rừng; cấm đốt đồi, bãi thuộc đất rừng
để nuôi cỏ non (Điều 7); Cấm ngặt việc thả rông gia súc ở những khu rừng
non, rừng mới trồng hoặc mới dặm cây non (Điều 8) v v…[26, tr.111].
Về đường lối xử lý đối với những hành vi vi phạm một trong những
điều quy định tại chương II của Pháp lệnh hoặc hành vi tàng trữ, mua bán, vận
chuyển trái phép lâm sản. Quy định hai trường hợp:
Thứ nhất: Nếu vi phạm mà không gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng
thì bị cảnh cáo hoặc bị phạt tiền từ 01 đồng đến 200 đồng. Cơ quan kiểm lâm
nhân dân huyện có quyền cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 100 đồng. Trong
trường hợp số tiền phạt quá 100 đồng thì cơ quan kiểm lâm nhân dân tỉnh xét
và xử lý (Điều 21 Pháp lệnh).

Thứ hai: Nếu vi phạm mà gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng hoặc đã
bị xử phạt mà còn vi phạm thì sẽ bị truy tố trước Toà án nhân dân và có thể bị
phạt từ 03 tháng đến 02 năm và phạt tiền từ 200 đồng đến 2.000 đồng, hoặc
một trong hai hình phạt đó. Nếu cố ý huỷ hoại tài nguyên rừng hoặc cố ý làm

18
trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về bảo vệ rừng gây thiệt hại đến tài
nguyên rừng; thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc vô ý làm cháy rừng hay là có
những hành động khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng thì bị
xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
ngày 21/10/1970.
Nếu người vi phạm cố ý phá hoại tài nguyên rừng vì mục đích phản
cách mạng thì bị xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng
ngày 30/10/1967 (Điều 22).
Ngoài ra, Điều 24 của Pháp lệnh cũng quy định: Người nào lạm dụng
chức vụ, quyền hạn ra lệnh cho người thuộc quyền mình chặt, phá rừng hoặc
làm những việc khác gây thiệt hại đến tài nguyên rừng thì cũng bị xử lý theo
các Điều 21, 22, 23 của Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng.
Có thể khẳng định, Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng năm 1972 đã
quy định tương đối cụ thể và chi tiết các hành vi xâm hại đến rừng. Không
giống với Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, các
chế tài áp dụng đối với các hành vi huỷ hoại rừng, làm cháy rừng, xâm phạm
các động, thực vật trong rừng… được quy định trong Pháp lệnh bảo vệ rừng
năm 1972 không những là chế tài nhằm bảo vệ trực tiếp tài sản xã hội chủ
nghĩa mà còn là chế tài để bảo vệ và phát triển rừng cũng như các tài nguyên
thiên nhiên khác có trong rừng.
Trên cơ sở những kinh nghiệm đã đúc kết từ thực tiễn xét xử, trong báo
cáo tổng kết công tác năm 1972 của Toà án nhân dân tối cao có nêu: “Việc xét
xử những vụ đốt phá rừng, các địa phương cần thấy rõ: Điều cơ bản để đấu
tranh phòng, chống những loại hành vi này là, đi đôi với việc củng cố các

Hợp tác xã nông nghiệp, định canh, định cư và đưa nông dân vào con đường
làm ăn tập thể, cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính sách, pháp luật
trong đồng bào các dân tộc.

19
Việc xử lý về hình sự đối với loại tội phạm về bảo vệ rừng theo Điều 22
Pháp lệnh ngày 06/9/1972 hoặc các Điều 6, 14, 18 Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa chỉ nên hạn chế trong một số trường hợp
như: Đã bị xử lý về mặt hành chính mà còn vi phạm hoặc đã gây thiệt hại
lớn… Khi xử lý, để đánh giá sự thiệt hại, nhất thiết cần có sự liên hệ chặt chẽ
với các ngành hữu quan, nhất là đối với chính quyền và cơ quan lâm nghiệp
địa phương”[26, tr.93].
Bên cạnh những văn bản kể trên, cùng thời gian này Chính phủ và các
Bộ, Ngành đã ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan về quản lý và bảo
vệ rừng như: Quyết định số 41- TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc quy
định các khu rừng cấm; Nghị định số 221/CP của Thủ tướng Chính phủ về
phòng cháy và chữa cháy rừng; Thông tư số 24-TT/75 ngày 20/9/1975 của
Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời về việc bảo vệ và khắc phục hồi
rừng v v…
Như vậy, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các văn bản
pháp luật được coi là cơ sở pháp lý để xét xử tội phạm về bảo vệ rừng mặc dù
chưa đầy đủ, nhưng ở mức độ nhất định các văn bản này đã có những quy
định khá cụ thể và chặt chẽ trong việc bảo vệ rừng. Tuy nhiên, do những hạn
chế khách quan của điều kiện kinh tế, xã hội nên trong lĩnh vực lập pháp, các
quy định về bảo vệ rừng nói chung và pháp luật hình sự trong việc bảo vệ
rừng nói riêng chưa được nhận thức đầy đủ. Việc xử lý tội phạm về bảo vệ
rừng vẫn được thực hiện theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã
hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng
ngày 30/10/1967; Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Mặc dù vậy, những quy định nằm trong các văn

bản quy phạm pháp luật thời kỳ này đã bước đầu đặt cơ sở quan trọng cho
pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.

20
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và
có hiệu lực từ ngày 01/11/1986 là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta.
Sự ra đời của bộ luật này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử
lập pháp hình sự Việt Nam. Trong bộ luật này lần đầu tiên tội vi phạm các
quy định về quản lý và bảo vệ rừng đã được quy định tại một điều độc lập.
Trên cơ cở kế thừa những quy định trước đây tại các Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970, Pháp lệnh quy định
việc bảo vệ rừng ngày 06/9/1972 và báo cáo tổng kết công tác năm 1972 của
Toà án nhân dân tối cao, tại Điều 181 chương VII- Các tội phạm về kinh tế-
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định:
1. Người nào khai thác trái phép cây rừng, săn bắn trái phép chim, thú
hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và bảo
vệ rừng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi
phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2. Pham tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai
năm đến mười năm [21, tr.78].
Như vậy, khách thể của tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ
rừng được Bộ luật hình sự năm 1985 bảo vệ đó là chế độ về quản lý và bảo vệ
rừng của Nhà nước. Hành vi khách quan của tội này được thể hiện dưới
những hành vi như khai thác trái phép cây rừng; săn, bắn trái phép chim thú
hoặc có những hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý
và bảo vệ rừng. Các hành vi nói trên gây ra những hậu quả nghiêm trọng như:
gây cháy rừng, làm suy giảm diện tích rừng, làm mất mát các giống thú, chim

và những thiệt hại khác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cân bằng sinh thái.

21
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ ai, đạt độ tuổi theo luật định và có năng
lực trách nhiệm hình sự. Mặt chủ quan của tội phạm có thể được thực hiện với
lỗi vô ý hoặc cố ý. Hình phạt được quy định với nhiều mức khác nhau, có thể
là cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến mười năm. Ngoài ra, đối với loại
tội này có thể áp dụng hình phạt bổ sung. Tại khoản 1 Điều 185 quy định:
Người nào phạm một trong các tội quy định ở các Điều 164, 177, 178 và từ
180 đến 184 thì có thể bị phạt tiền đến một triệu đồng.
Trong một thời gian dài, các quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về
tội Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng hầu như không có sự sửa
đổi, bổ sung. Điều này được minh chứng qua 04 lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật
hình sự năm 1985 vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Chỉ duy nhất vào
lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1989 tội vi phạm các quy định về
quản lý và bảo vệ rừng có sự sửa đổi về hình phạt bổ sung. Theo đó người
phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có thể bị phạt tiền
đến 50.000.000đ (nâng mức phạt tiền lên tối đa là 50.000.000đ).
Nhìn chung, quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 về tội Vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng đã góp phần đáng kể trong việc răn đe
và trừng trị tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, góp phần
nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng cũng như đấu tranh phòng, chống tội
phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Tuy nhiên, Điều 181
Bộ luật hình sự năm 1985 do những hạn chế về mặt lập pháp và do sự phát
triển nhanh chóng của điều kiện kinh tế, xã hội cũng như những đòi hỏi, yêu
cầu mới của việc bảo vệ rừng nên đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định.
Thứ nhất, tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng được quy
định trong chương các tội phạm về kinh tế. Hành vi vi phạm các quy định về
quản lý và bảo vệ rừng chủ yếu xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà
nước, do đó phải cân nhắc cả yếu tố hiệu quả về kinh tế lẫn yếu tố xã hội khi


22
áp dụng hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1985 mặc dù đã trải qua bốn lần sửa
đổi, bổ sung nhưng vẫn chỉ quy định hình phạt tiền đối với tội phạm này với
tính chất là hình phạt bổ sung. Việc quy định hình phạt tiền là hình phạt chính
của tội này là hết sức cần thiết. Điều này không những mang lại hiệu quả kinh
tế cao trong xử lý loại tội phạm về khai thác và bảo vệ rừng mà còn là biện
pháp tác động tốt về tâm lý trong quá trình cải tạo, giáo dục người phạm tội,
hạn chế những điều kiện cho việc thực hiện tội phạm, mang lại lợi ích kinh tế
cho xã hội, đồng thời giảm chi phí thi hành án phạt tù khi chưa cần thiết.
Thứ hai, hành vi vi phạm các quy định về quản lý rừng và hành vi vi
phạm các quy định về bảo vệ rừng là hai hành vi thường không gắn liền với
nhau và được thực hiện bởi những chủ thể riêng biệt. Chủ thể thực hiện hành
vi vi phạm các quy định về bảo vệ rừng có thể là bất kỳ ai, có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định nhưng chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm các quy định về quản lý rừng là chủ thể đặc biệt, tức là người phải có
chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý rừng. Do vậy, đòi hỏi cần phải tách tội
vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng thành hai tội riêng biệt để
đảm bảo việc xử lý hình sự đối với hai loại hành vi này được khách quan,
công bằng và chính xác.
Bộ luật hình sự năm 1985 qua 15 năm thi hành đã phát huy vai trò tích
cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm vi phạm
các quy định về quản lý và bảo vệ rừng nói riêng. Tuy đã qua bốn lần sửa đổi,
bổ sung nhưng do được xây dựng trong bối cảnh của cơ chế quản lý kinh tế
tập trung, quan liêu, bao cấp nên nhiều quy định của bộ luật đã không đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định của chương
các tội phạm về kinh tế cũng như các quy định của tội vi phạm các quy định

23

về quản lý và bảo vệ rừng đã không phù hợp. Do đó, đòi hỏi Bộ luật hình sự
năm 1985 cần được sửa đổi, bổ sung một cách căn bản, toàn diện.
1.2. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng
1.2.1. Khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng
Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được quy
định tại Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 1999. Điều luật quy định như sau:
Điều 175. Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù tù
ba tháng đến ba năm:
a) Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy
định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, nếu không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 189 của Bộ luật này;
b) Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy
định tại Điều 153 và Điều 154 của Bộ luật này.
2. Phạm tội trong trường hợp rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai
mươi triệu đồng [2, tr.125].
Điều luật trên quy định bốn loại hành vi khách quan của tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng đó là hành vi khai thác trái phép cây
rừng, hành vi vận chuyển gỗ trái phép, hành vi buôn bán gỗ trái phép và hành
vi khác vi phạm quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Tuy

24
nhiên, hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc hành vi khác vi phạm các

quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng chỉ bị coi là tội phạm theo
quy định tại Điều 175 BLHS năm 1999 nếu không thuộc trường hợp quy định
tại Điều 189 BLHS; hành vi vận chuyển gỗ trái phép, hành vi buôn bán gỗ trái
phép chỉ bị coi là tội phạm theo quy định tại Điều 175 BLHS nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 154 BLHS. Như vậy, Điều 175
BLHS chỉ liệt kê một loạt những hành vi và viện dẫn những điều luật tương
ứng của BLHS để xác định hành vi nào được coi là hành vi khách quan của
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng mà chưa đưa ra được
khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Theo quan điểm của chúng tôi để đưa ra được khái niệm về một tội
danh cụ thể nào đó được quy định trong Bộ luật hình sự chúng ta cần dựa trên
cơ sở quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự về khái niệm tội phạm. Điều 8
BLHS năm 1999 định nghĩa khái niệm tội phạm như sau: "Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Tội
phạm theo luật hình sự Việt Nam phải là hành vi của con người. Những gì
mới chỉ trong tư tưởng chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì không thể
là tội phạm [25, tr.87]. Khác với hành vi không phải là tội phạm hành vi bị coi
là tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình
sự và do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi,
xâm phạm tới các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tội vi phạm các

25
quy định về khai thác và bảo vệ rừng đòi hỏi phải có những dấu hiệu pháp lý
như trên, căn cứ vào Điều 175 Bộ luật hình sự và trên cơ sở Điều 8 Bộ luật

hình sự năm 1999 có thể rút ra khái niệm vệ tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng như sau:
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm những quy định của Nhà
nước về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng cũng như xâm phạm các quy định
của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh tế nói chung.
1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng
Trong BLHS năm 1985, hành vi vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng không được quy định thành một tội danh độc lập mà được quy
định chung với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng tại Điều 181 BLHS
năm 1985: Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng. BLHS năm
1999 đã tách các hành vi vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng thành
một tội danh độc lập. Điều 175: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng. Việc tách tội danh này là cần thiết nhằm thực hiện triệt để hơn
nguyên tắc cá thể hóa hành vi cũng như cá thể hóa hình phạt, đồng thời thể
hiện quan điểm xử lý của Nhà nước đối với từng loại tội phạm. Các dấu hiệu
cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được thể
hiện ở bốn yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan
* Khách thể của tội phạm
Tội phạm là hiện tượng xã hội vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính
lịch sử [17, tr.27]. Về mặt cấu trúc, tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố
(khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan). Bốn yếu tố này tồn tại
không tách rời nhau với tư cách là một bộ phận cấu thành trong một thể thống

×