Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Câu 6 bài tập học kỳ hình sự 1 (8 5đ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.72 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
I.

Đặt
đề………………………………………………………………..1

vấn

II.

Giải
quyết
đề………………………………………………………...1

vấn

1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS?.....................................................................................2
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức? Tại sao?...................................................................................................3
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị
truy cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội
phạm?................................................................................................................
4 4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao?................................................................................................5
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?...................................................5
III.

Kết
luận…………………………………………………………..............5




I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta những năm gần đây, công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
bài trừ tệ nạn xã hội được đẩy mạnh; an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo, phục vụ đắc lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, tình
hình tội phạm vẫn có chiều hướng gia tăng với nhiều vụ án diễn biến phức tạp,
tính chất nguy hiểm, gây hậu quả nghiêm trọng đã và đang đặt gánh nặng không
những lên các cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn cả xã hội. Đây là hành vi đặc
biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào khách thể là quyền được sống của
con người - một quyền cơ bản, thiêng liêng được pháp luật bảo vệ. Vì vây trong
phạm vi bài luận này, em muốn đi sâu vào đề bài:
C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của K, tài sản chiếm đoạt có
giá trị 30 triệu đồng. Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều
133 BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù.
Hỏi:
1. Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS?
2. Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức? Tại sao?
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy
cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình không?
Tại sao?
5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS?

Theo khoản 3 Điều 8 BLHS quy định : “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã
hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội
phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất


của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử
hình”.
Sự phân biệt bốn nhóm tội như vậy vừa là biểu hiện cơ bản của sự phân hóa
TNHS vừa là cơ sở thống nhất cho sự phân hóa TNHS trong BLHS. Sự phân biệt
này là cơ sở thống nhất cho việc xây dựng các khung hình phạt cho các tội phạm cụ
thể cũng như cho việc xây dựng trong luật hình sự và trong các ngành luật khác có
liên quan các quy định thể hiện sự phân hóa trong đường lối đấu tranh phòng chống
các loại tội khác nhau.
Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS. Theo đó,
khoản 1 Điều 133 BLHS quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười năm”.
Kết luận : Mức cao nhất của khung hình phạt theo khoản 1 Điều 133 BLHS là mười
năm, do đó, hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản của C thuộc loại tội phạm
rất nghiêm trọng.
2.Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có CTTP vật chất hay CTTP hình
thức? Tại sao?
CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho loại tội
phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. CTTP có ý nghĩa là cơ sở pháp lý của
trách nhiệm hình sự và là căn cứ pháp lý để định tội và định khung hình phạt chính

xác.
Trước hết ta có thể khẳng định, cấu thành tội cướp tài sản theo Điều 133 BLHS
là cấu thành tội phạm hình thức.
CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy
hiểm cho xã hội.
Theo khoản 1 Điều 133 BLHS chỉ rõ tội cướp tài sản bao gồm 3 hành vi khách
quan, đó là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm


đoạt tài sản”, mà những hành vi này là yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội
phạm được quy định trong CTTP hình thức là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành
vi gây nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành vi tạo ra
khả năng gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ở đây, hành động phạm
tội của tội cướp tài sản là hành động phạm tội (làm một việc mà luật hình sự cấm
không được làm). Trong đó:
 “Dùng vũ lực” là dùng sức mạnh vật chất để tấn công người bị hại, có thể
gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của người bị hại, làm tê liệt sự phản kháng
của họ. (Ví dụ: đánh, đấm, đâm, chém, bắn người bị hại). Việc dùng vũ lực có thể
công khai, cũng có thể là bí mật, lén lút (Ví dụ: đánh công khai trước mặt người bị
hại, đánh sau lưng người bị hại để họ không biết ai đánh).
 “Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc” là đe doạ dùng ngay lập tức sức mạnh
vật chất. Việc đe doạ này nhằm làm cho người bị tấn công hoặc người thân của họ
tin và sợ sẽ bị nguy hại ngay đến sức khoẻ, tính mạng nếu không chịu khuất phục,
nhằm làm tê liệt ý chí kháng cự của họ. Thực tế, việc đe doạ dùng vũ lực ngay tức
khắc thường được kết hợp với thái độ, cử chỉ, lời nói, công cụ phương tiện có trên
tay hoặc tương quan lực lượng như đông người đe doạ một người, lợi dụng hoàn
cảnh khách quan, thời gian, tình hình xã hội nơi và lúc xảy ra hành vi để tạo nên
cảm giác lo sợ của người bị tấn công.

 “Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được” như cho người bị hại uống thuốc ngủ, thuốc mê, uống rượu để họ
ngủ, say nhằm chiếm đoạt tài sản. Người bị tấn công có thể biết sự việc xảy ra
nhưng không thể thực hiện được hành vi chống trả hoặc không nhận thức được sự
việc đang xảy ra. Mục đích của hành vi phạm tội trong trường hợp này là làm cho
người khác lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.


Tóm lại, tội cướp tài sản ở Điều 133 BLHS có cấu thành tội phạm hình thức,
và chỉ cần thực hiện một trong các hành vi nói trên nhằm chiếm đoạt tài sản là tội
phạm đã hoàn thành, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được tài sản như
mong muốn hay không.

3.Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy
cứu TNHS về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?
Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có cơ sở để xác định phạm vi
trách nhiệm hình sự của người phạm tội, luật hình sự Việt Nam phân biệt ba giai
đoạn thực hiện tội phạm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành. Vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra đối với tội cố ý trực tiếp.
Trong trường hợp này, lỗi của C là lỗi cố ý trực tiếp căn cứ vào các yếu tố lý trí và ý
chí, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về lý trí: người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi
của mình và thấy trước được hậu quả của hành vi đó. Nhận thức được tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi tức là khi thực hiện hành vi C biết được hành vi
của mình có hại cho xã hội, đi ngược lại yêu cầu và chuẩn mực xã hội. Với suy nghĩ
của một người bình thường, C hoàn toàn có thể nhận thức được hành vi dùng vũ lực
chiếm đoạt tài sản là hành vi trái pháp luật.
Thứ hai, về ý chí: C có ý định chiếm đoạt tài sản của K và đã dung vũ lực để
thực hiện hành vi đó. Kết quả là C đã chiếm đoạt tài sản giá trị 30 triệu từ K. C đã
thỏa mãn được ý muốn của mình.

Vậy lỗi của C trong trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp.
Trong trường hợp trên, hành vi của C được quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS.
Như đã kết luận ở câu 2, , tội cướp tài sản ở Điều 133 BLHS có cấu thành tội phạm
hình thức. Ta có thể khẳng định hành vi của C thuộc giai đoạn tội phạm hoàn thành
vì tội phạm hoàn thành là hoàn thành về mặt pháp lý - tức tội phạm đã thỏa mãn hết


các dấu hiệu của CTTP . Đối với tội phạm có CTTP hình thức, chỉ cần có dấu hiệu
hành vi là tội phạm đã hoàn thành. Ở trường hợp trên, dấu hiệu hành vi của C là
dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản.
Kết luận: Từ những phân tích trên đây, ta có thể khẳng định hành vi của C thuộc
giai đoạn tội phạm hoàn thành.
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu TNHS về hành vi của mình
không? Tại sao?
Trong trường hợp trên, như ở câu 1 đã kết luận, hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm
đoạt tài sản của C thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Theo khoản 2 Điều 12 BLHS quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Kết luận : C vẫn phải chịu TNHS về hành vi của mình khi mới tròn 14 tuổi.

5. Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
TNHS về hành vi của mình không? Tại sao?
Trong trường hợp trên, như ở câu 1 đã kết luận, hành vi dùng vũ lực nhằm
chiếm đoạt tài sản của C thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Theo Điều 17 BLHS quy định “Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng
hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định
thực hiện”.
Kết luận : Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C vẫn
phải chịu TNHS về hành vi của mình.


III.KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội thì dự báo tình hình tội phạm trong những
năm tới sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến rất phức tạp, trong đó có tội chiếm đoạt
tài sản của người khác. Đây cũng là loại tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng


cho xã hội, gây bức xúc cho nhân dân, do vậy đòi hỏi các cơ quan chức năng và
toàn xã hội cần chung tay có những biện pháp phòng ngừa hữu hiệu nhằm giảm
tối đa nguyên nhân, điều kiện xảy ra tội phạm, hạn chế thấp nhất những hậu quả
có thể xảy ra, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và cuộc sống bình yên của nhân
dân.
Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo về bài làm của em, em xin
chân thành cảm ơn thầy cô.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, NXB
Công an nhân dân, 2009.
2.Bộ Luật Hình Sự (Sửa đổi, bổ sung năm 2009) – NXB Tư Pháp.
3.Bình luận khoa học Bộ luật Hình Sự, phần các tội phạm tâp 3, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh.



×