Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

hình sự 1 học kì (bài được 8 điểm) c có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của a, tài sản chiếm đoạt có giá trị 30 triệu đồng hành vi phạm tội củ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.03 KB, 9 trang )

A-

TÌNH HUỐNG

Luật hình sự Việt Nam là ngành luật có vị trí, vai trò to lớn trong hệ thống
pháp luật nên luật hình sự luôn được Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Thông qua
việc điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh do việc thực hiện tội phạm, luật hình sự
Việt Nam tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ phát triển,
tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm. Ngày nay, tình hình tội phạm diễn biến ngày
càng phức tạp với ngày càng nhiều loại tội và tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội ngày càng cao. Một trong những tội phạm diễn ra khá phổ biến gần đây là tội
cướp tài sản, xâm hại trực tiếp đến hai khách thể là quan hệ nhân thân và quan hệ
sở hữu. Để hiểu rõ hơn về loại tội phạm này, em xin chọn giải quyết tình huống sau
đây:
“ C có hành vi dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của A, tài sản chiếm đoạt có
giá trị 30 triệu đồng. Hành vi phạm tội của C được quy định tại khoản 1 Điều 133
BLHS. C bị đưa ra xét xử và bị tuyên phạt 7 năm tù. Anh (chị ) hãy xác định:
1.Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS? (1 điểm)
2.Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu
thành tội phạm hình thức? Tại sao? (1 điểm)
3.Nếu C mới dùng vũ lực nhưng C không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực hiện tội phạm?
(2 điểm)
4.Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của
mình không? Tại sao? (1.5 điểm)
5.Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi vủa mình không? Tại sao? (1.5 điểm).”

B-GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1.



Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì theo sự phân loại tội phạm tại
khoản 3 Điều 8 BLHS?
- Trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
1


Để xác định trường hợp phạm tội của C thuộc loại tội gì thì cần dựa vào căn cứ
pháp lý sau:
• Khoản 3 Điều 8 BLHS
• Khoản 1 Điều 133
Cụ thể:
Thứ nhất, dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, khoản 3 Điều 8
BLHS đã chia tội phạm thành 4 loại như sau:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy
hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Như vậy, căn cứ để phân loại tội phạm đối với một tội là dựa vào mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy.
Thứ hai, theo đề bài, trường hợp phạm tội của C thuộc khoản 1 Điều 133. Cụ
thể khoản 1 Điều 133 BLHS quy định như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.”


Như vậy, theo khoản 1 Điều 133, có thể thấy hành vi cướp
tài sản được mô tả ở đây phải chịu khung hình phạt là “phạt tù
từ ba năm đến mười năm”. Như vậy mức cao nhất của khung
hình phạt ở đây là mười năm tù giam nên căn cứ theo khoản 3
Điều 8 thì tội cướp tài sản do C thực hiện trong trường hợp
2.

trên thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là tội có cấu thành tội phạm vật chất hay

cấu thành tội phạm hình thức? Tại sao?
- Tội cướp tài sản (Điều 133BLHS) là tội có cấu thành tội phạm hình thức.
2


Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho
loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt
khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Việc xây dựng loại tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức là xuất phát từ cơ
sở khách quan sau:
Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định thì
cấu thành tội phạm thường được xây dựng là cấu thành tội phạm hình thức.

Cụ thể đối với Tội cướp tài sản tại Điều 133 BLHS là tội có
cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một
dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tức là chỉ riêng hành vi phạm tội đã thể hiện rõ mức độ nguy
hiểm cho xã hội mà không cần phải xét đến hậu quả đã xảy ra

trên thực tế hay chưa để định tội.
Khoản 1 điều 133 BLHS quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ
lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười năm.”
+) Tội cướp tài sản ở đây do chỉ cần dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm. Do hành vi đó vi phạm đến
nhiều khách thể là quan hệ nhân thân (dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, có hành vi
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được,..) và quan
hệ sở hữu (nhằm chiếm đoạt tài sản). Do đó, dù chưa xác định rõ được hậu quả
cũng thấy được mức độ nguy hiểm của hành vi.
+) Có thể thấy ở đây, điều luật mô tả rõ hành vi trong miêu tả cấu thành tội
phạm tội này chỉ cần có hành vi nguy hiểm cho xã hội, đó là “người nào dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác, làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, nhằm chiếm đoạt tài sản”, trong
3


tội này chỉ chú trọng đến miêu tả hành vi nguy hiểm thể hiện như thế nào mà
không nhắc đến hậu quả trong miêu tả cấu thành tội phạm, không quy định hậu quả
phải là dấu hiệu bắt buộc, không cần phải có hậu quả là người phạm tội đã chiếm
đoạt được tài sản hay chưa mà chỉ cần có hành vi dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài
sản thì đã đủ cấu thành tội cướp tài sản quy định tại Điều 133.
Qua những lập luận trên thì có thể kết luận tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) là
tội có cấu thành tội phạm hình thức.
3. Nếu C mới dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C có bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản không? Giai đoạn thực
hiện tội phạm?
- Nếu C dùng vũ lực nhưng không chiếm đoạt được tài sản thì C vẫn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.

Khoản 1 Điều 133 BLHS quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười năm.”
Điều luật mô tả người phạm tội chỉ cần có hành vi dùng vũ lực hay đe doạ dùng
vũ lực... nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản chứ không quy định đã chiếm đoạt
được tài sản hay chưa. Như vậy, trong trường hợp này ta thấy chỉ cần C dùng vũ
lực và nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi của C đã thể hiện được đầy đủ tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, kể cả việc C không chiếm đoạt thành công được tài
sản đi chăng nữa thì cũng đã cấu thành tội cướp tài sản tại Đ133 BLHS. Chính vì
vậy, đương nhiên trong trường hợp trên, C phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
cướp tài sản.
- Giai đoạn thực hiện tội phạm ở đây là tội phạm hoàn thành.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu
hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.

4


Điều đó có nghĩa: Khi tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã có đủ các
dấu hiệu phản ánh đầy đủ các tính chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội đó. Thời
điểm tội phạm hoàn thành không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được
mục đích của mình hay chưa. Khái niệm tội phạm hoàn thành không dùng để chỉ
thời điểm người phạm tội đạt được mục đích của mình, khi tội phạm hoàn thành thì
cũng có thể người phạm tội đã đạt được mục đích của mình nhưng cũng có thể
chưa đạt được mục đích đó. Trong thực tiễn áp dụng, khi xác định trường hợp
phạm tội cố ý cụ thể là đã hoàn thành hay chưa, chỉ cần kiểm tra hành vi phạm tội
đó đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay chưa.
Căn cứ vào định nghĩa chung về tội phạm hoàn thành và dựa vào đặc điểm cấu
trúc của các loại cấu thành tội phạm, có thể rút ra kết luận về thời điểm hình thành

của các loại tội có cấu thành tội phạm hình thức như sau:
Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức hoàn thành ngay khi người phạm
tội đã thực hiện được hành vi phạm tội. Ở những loại tội này, dấu hiệu hành vi có
thể là chỉ một hành vi nhưng cũng có thể bao gồm nhiều hành vi khác nhau. Trong
trường hợp dấu hiệu hành vi bao gồm nhiều hành vi khác nhau, tội phạm hoàn
thành khi các hành vi đó đều xảy ra.
 Đối với trường hợp trên, giả sử C mới sử dụng vũ lực nhưng
không chiếm đoạt được tài sản thì giai đoạn thực hiện tội
phạm của C là tội phạm hoàn thành.
+) Khái niệm tội phạm hoàn thành không dùng để chỉ thời điểm người phạm
tội đạt được mục đích của mình hay chưa mà nói tội phạm hoàn thành là hoàn
thành về mặt pháp lí- tức tội phạm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm. Do đó, mặc dù C chưa gây ra hậu quả và chưa đạt được mục đích là chiếm
đoạt được tài sản nhưng hành vi mà C thực hiện ở đây đã thỏa mãn hết các dấu
hiệu trong cấu thành tội phạm tội cướp tài sản (C đã dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt
tài sản), có nghĩa là đã được coi là hoàn thành về mặt pháp lý.
+)Tội cướp tài sản có cấu thành tội phạm hình thức (như đã phân tích ở ý
(2)) mà tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức hoàn thành ngay khi người phạm
5


tội đã thực hiện hành vi phạm tội (chỉ cần có dấu hiệu hành vi khách quan của
người phạm tội), ở tội cướp tài sản thì dấu hiệu hành vi chỉ là một hành vi (dùng vũ
lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực…) nên C chỉ thực hiện hành vi đó thì đã coi là tội
phạm hoàn thành.
Với những phân tích trên, trong trường hợp C mới dùng vũ lực nhưng không
chiếm đoạt được tài sản thì đã bị coi là tội phạm hoàn thành.
4. Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
của mình không? Tại sao?
- Nếu C mới tròn 14 tuổi thì C vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành

vi của mình. Có thể khẳng định như vậy là do:
Thứ nhất, căn cứ vào Điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Trong trường hợp này, C đủ 14 tuổi nên sẽ áp dụng theo khoản 2 Điều 12 về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định này, thì người tử đủ 14 đến dưới 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, theo phân tích ở ý (1) theo khoản 1 Điều 133, có thể thấy hành vi
cướp tài sản được mô tả ở đây phải chịu khung hình phạt là “phạt tù từ ba năm đến
mười năm”. Như vậy mức cao nhất của khung hình phạt ở đây là mười năm tù giam
nên căn cứ theo khoản 3 Điều 8 thì tội cướp tài sản do C thực hiện trong trường hợp
trên thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng. Mặt khác, đối với tội cướp tài sản thì lỗi
của người phạm tội luôn là lỗi cố ý. Do đó, tội phạm mà C thực hiện là loại tội phạm
rất nghiêm trọng với lỗi cố ý.


Như vậy, C đủ 14 tuổi và tội phạm mà C thực hiện trong
trường hợp trên thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng với lỗi
6


cố ý nên C phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình
hay nói cách khác, trong trường hợp này thì dù C mới tròn 14
tuổi thì C vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
5.


của mình.
Nếu C mới chuẩn bị phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C có phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi của mình không? Tại sao?
- Nếu C chỉ mới ở giai đoạn phạm tội cướp tài sản thì bị bắt giữ thì C vẫn

phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Vì:
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra
những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực
hiện tội phạm đó.
Như vậy, tất cả những hành vi chuẩn bị phạm tội đều chưa trực tiếp làm biến
đổi tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội là khách thể của loại tội định thực hiện. Nhưng với tính chất là hành vi tạo
ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, hành vi chuẩn bị phạm
tội hợp thành thể thống nhất với hành vi thực hiện tội phạm là hành vi trực tiếp làm
biến đổi tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm và qua đó gây thiệt hại cho
khách thể. Sự gây thiệt hại cho khách thể xảy ra hay không và xảy ra như thế nào
rõ ràng phụ thuộc nhất định vào hành vi chuẩn bị. Chính vì vậy, hành vi chuẩn bị
phạm tội cũng được coi là một trong những quá trình thực hiện tội phạm, mặc dù
bản thân chưa phải là hành vi thực hiện tội phạm.
Theo luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
* Như vậy, theo giả sử thì C mới đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội cướp tài
sản tức là C đã “tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều
kiện khác để thực hiện tội phạm” đối với tội cướp tài sản. Để xác định xem C có
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình khi đang ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội hay không, cần căn cứ vào:

7



Thứ nhất, theo Điều 17 BLHS quy định về chịu trách nhiệm hình sự của
người chuẩn bị phạm tội:
“Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện”.
Có nghĩa là nếu như C mới chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì chỉ
khi tội phạm mà C thực hiện thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng thì C mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm.
Thứ hai, mà theo phân tích ở ý (1) thì loại tội mà C định thực hiện thuộc loại
tội phạm rất nghiêm trọng.

Như vậy, do tội phạm mà C định thực hiện trong tình
huống trên thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng nên dù C mới
chỉ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội cướp tài sản như ở trên thì bị
bắt giữ, thì C vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
của mình.

C-KẾT BÀI
Trong những năm gần đây, tội cướp tài sản diễn ra ngày càng phổ biến, diễn
biến phức tạp với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn. Chính vì vậy
đã và đang đặt ra tình trạng báo động đối với toàn xã hội. Đấu tranh phòng chống
tội phạm là nhiệm vụ không chỉ của các cơ quan chức năng mà đặt ra với tất cả
mọi người.
Trên đây là cách giải quyết của em đối với tình huống nói trên. Do kiến thức và
kĩ năng thực tế còn hạn chế nên bài làm của em còn nhiều sai sót. Mong nhận được
sự nhận xét và góp ý từ phía các thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

8



1. Luật hình sự Việt Nam 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
2. Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập 1), Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND, Hà Nội, 2009.

9



×