Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Nhân học văn hóa là gì bảo tàng văn hóa các dân tộc việt nam đã sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu và trưng bày như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.24 KB, 7 trang )

Ngô Minh Tân

MSSV: HS33B015

LỚP: NO3- Nhóm 1
ĐỀ BÀI: Nhân học văn hóa là gì ? Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt
Nam đã sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu và trưng bày
như thế nào ?
BÀI LÀM
I, Nhân học văn hóa
1, Nhân học là gì?
Nhân học là nghành khoa học nghiên cứu về con người, từ cổ đại đến
hiện đại, về các cách thức sinh tồn của họ qua không gian và thời gian.
Nhân học được chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh nghiên cứu một khía
cạnh của cuộc sống con người. Có nhánh nghiên cứu về sự tiến hóa của
con người hiện đại từ người tiền sử (Nhân học thể chất). Nhánh khác
lạichuyên nghiên cứu về ngôn ngữ, về sự hình thành và phổ biến của
ngôn ngữ….. Trong thời đại toàn cầu hóa, con người từ các các châu lục
khác nhau, nói các ngôn ngữ khác nhau, có các giá trị văn hóa và tôn giáo
khác nhau tiếp xúc với nhau thường xuyên hơn bao giờ hết trong “ngôi
làng toàn cầu”. Nhân học trở thành một công cụ quan trọng giúp các
thành viên của cộng đồng này tìm tòi, giải thích và hiểu về sự “không
giống nhau” giữa các nhóm người và đề cao sự đa đạng văn hóa của loài
người. Bên cạnh đó, Nhân học cho chúng ta biết rẳng bất chấp sự khác
biệt về văn hóa, ngôn ngữ, màu da tất cả chúng ta đều có cùng một
nguồn gốc, bản chất và số phận chung.
2, Nhân học văn hóa
Nhân học văn hóa là một khoa học liên ngành về văn hóa. Nó chủ yếu
nghiên cứu văn hóa từ hai giác độ : nhân chủng và ngôn ngữ( thổ ngữ).
Điều đó có nghĩa là các cộng đồng có cùng cội nguồn huyết thống và
ngôn ngữ sẽ được xem là có tính đồng nhất văn hóa.




Bên cạnh đó Nhân học văn hóa còn được gọi là Nhân học xã hội, tập
trung vào mô tả, phân tích các nền văn hóa - các truyền thống văn hóa
của thời hiện tại và quá khứ. Nhân học Văn hóa có một nhánh là Dân tộc
học (tập trung vào mô tả và diễn dịch các nền văn hóa thời hiện đại. Việc
so sánh các kết quả diễn dịch và mô tả của Dân tộc học có thể đưa tới các
giả thuyết và cao hơn là thuyết về nguyên nhân của sự tương đồng cũng
như khác biệt văn hóa của quá khứ và hiện tại .Cùng với hoạt động trưng
bày thường xuyên, trưng bày mở.
Phương pháp nhân học văn hóa đã lấy hai thuộc tính cố hữu và nổi
trội mà bất kì cộng đồng văn hóa nào cũng có, đó là chủng và thổ ngữ của
chủng để phân vùng văn hóa. Đây cũng là phương pháp phổ biến về
nghiên cứu văn hóa tộc người, hoặc nghiên cứu về văn hóa dân gian
Nam tuy đa dạng song vẫn hướng tâm vào văn hóa chủ thể là văn hóa việt
.
Thứ nhất, về mặt chủng tộc người việt là sự hòa huyết của các tộc
người sinh sống tại khu vực đông nam á , đây là một khối dân cư hung
hậu bao gồm nhiều tộc người với tên gọi chung là người Bách Việt. Tiếp
đó trong suốt thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên_ còn gọi là thời kì
bắc thuộc, người việt còn hòa huyết với chủng người hán và một số
chủng khác vốn có nguồn gốc nằm sâu trong trung hoa đại lục.
Thứ hai, về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ phổ thông hiện nay là kết quả của
quá trình hòa hợp các thổ ngữ của các tộc người trong cộng đồng bách
việt và quá trình hán hóa . Về mặt lịch sử, lúc đầu ngôn ngữ của người
kinh gồm các thổ ngữ của người bách việt.Cùng với sự hòa huyết và
chung sống, và xuất phát từ nhu cầu giao tiếp, các thổ ngữ này bị biến đổi
để trở thành một thứ ngôn ngữ chung cho cả cộng đồng ; đó là ngôn ngữ
việt mường. Các yếu tố cấu thành ngôn ngữ việt mường Mông- khơ me,
Tày- thái . Qúa trình giao lưu văn hóa với hán ngữ, chủ yếu diễn ra vào

thời kì Bắc thuộc trong bối cảnh đó, ngôn ngữ việt- mường đã hấp thụ


hán ngữ để làm giàu và phát triển. Cuộc giao lưu với văn hóa phương tâytừ thời pháp thộc đến nay đã đem lại cho tiếng việt một diện mạo mới,
đánh dấu sự ra đời chữ quốc ngữ và một cấu trúc ngữ pháp cũng như vốn
từ vựng ổn định như ngày nay.
II. Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam sự dụng phương pháp
nhân học văn hóa trong nghiên cứu và trưng bày
1,Công tác nghiên cứu
là khâu quan trọng đặc biệt trong toàn bộ hoạt động của Bảo tàng,
nó gắn liền với các khâu trong công tác khác của Bảo tàng tạo thành một
thể thống nhất hoàn chỉnh nhằm bảo đảm cho Bảo tàng ra đời và phát
triển.
Nghiên sưu tầm hiện vật bảo tàng ở khía cạnh nào đó đặt tiền đề
vật chất cho toàn bộ các khâu công tác của bảo tàng. Nếu không có
nghiên cứu hiện vật gốc thì không có bảo tàng. Vì hiện vật gốc chính là
cơ sở thực tiễn cho sự nảy nở và phát triển những nhận thức về các hiện
tượng lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội. 50 năm hoạt động của công tác
nghiên cứu sưu tầm, dấu chân cán bộ Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt
Nam đã đi đến hàng trăm địa điểm, ở các vùng sâu vùng xa, vùng biên
giới hải đảo của Tổ quốc, gặp gỡ hàng ngàn nhân chứng lịch sử và bà con
đồng bào các dân tộc. Đã thu thập được trên 30.000 tài liệu hiện vật,
phim ảnh, băng hình, băng từ có giá trị lịch sử và khoa học phản ánh về
tinh thần đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc và đặc trưng văn
hoá tiêu biểu của 54 thành phần dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam. Hoạt động nghiên cứu sưu tầm của Bảo tàng Văn hoá các dân
tộc Việt Nam được chia làm 3 giai đoạn chính:
- Giai đoạn đầu: 1956 - 1963
- Giai đoạn 2: 1963 - 1975).
- Giai đoạn 3: 1976 đến nay

a. thời kỳ 1956 - 1963
Đây là thời kỳ xây dựng bảo tàng việt bắc .Cơ sở ban đầu Bảo
tàng Việt Bắc ra đời phần nhiều nhờ từ khối lượng lớn tài liệu hiện vật
quý của 2 đợt triển lãm ở thủ phủ Thái Nguyên để lại. Cuộc triển lãm đầu
tiên tổ chức vào năm 1956 Chào mừng Đại hội thành lập Khu tự trị Việt
Bắc, và cuộc triển lãm thứ 2 năm 1961 Kỷ niệm 5 năm thành lập Khu Tự
trị Việt Bắc. Các tài liệu tham gia triển lãm do công lao đóng góp của


đồng bào các dân tộc ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn. Nội dung các tài liệu hiện vật rất phong
phú về nội dung, đa dạng về chất liệu phản ánh sâu sắc tinh thần đấu
tranh cách mạng và cuộc đấu tranh 9 năm kháng chiến chông Thực dân
Pháp của nhân dân cả nước nói chung và đồng bào dân tộc Việt Bắc nói
riêng. Bên cạnh nội dung về cách mạng kháng chiến, các tài liệu hiện vật
đem về triển lãm còn phản ánh đặc trưng văn hoá các dân tộc, về thiên
giàu đẹp của vùng Việt Bắc. Để có đủ số lượng hiện vật trưng bày, Bảo
tàng Việt Bắc đã tăng cường có lúc tới 30 đồng chí làm công tác sưu tầm
hiện vật. Tổ chức nhiều đợt sưu tầm ở khắp các địa phương trong 6 tỉnh
Việt bắc cũ, đã thu thập được hàng trăm tài liệu hiện vật có giá trị lịch sử
và khoa học.
Sau khi Bảo tàng Việt Bắc khánh thành phòng trưng bày cách
mạng kháng chiến vùng Việt Bắc, kho cơ sở lại tiếp tục nhận thêm một số
tài liệu hiện vật của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam chuyển giao, làm cho số
lượng tài liệu hiện vật của Bảo tàng Việt Bắc lên tới gần 10.000 đơn vị
bảo quản.
b. Thời kỳ 1963 – 1975
Để không ngừng bổ sung hiện vật cho kho cơ sở và từng bước xây
dựng các phòng trưng bày mới. Bảo tàng Việt Bắc đã tổ chức nhiều
chuyến sưu tầm vào những năm 1963 - 1964. Nội dung sưu tầm chủ yếu

là các tài liệu hiện vật phản ánh cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân
Pháp (1946 – 1954) và văn hoá truyền thống của nhân dân các dân tộc
vùng Việt Bắc. Khối lượng tài liệu hiện vật đưa về kho ngày càng nhiều
và phong phú. Kết quả đó đã cho phép Bảo tàng Việt Bắc xây dựng tiếp
phòng trưng bày văn hoá dân tộc năm 1965.
Cuối năm 1968, sau khi Đế quốc Mỹ ngừng ném bom phá hoại
Miền Bắc Việt Nam, cán bộ Bảo tàng Việt Bắc lại đưa tài liệu hiện vật từ
các vùng sơ tán trỏ về nhà Bảo tàng để tiếp tục thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Trước mắt là khôi phục lại các phần trưng bày để mở
cửa đón khách tham quan. Thời kỳ này công tác sưu tầm tiếp tục tổ chức
nhiều đợt nghiên cứu sưu tầm tài liệu hiện vật về thiên nhiên vùng Việt
Bắc. Đây là một công việc rất mới mẻ và rất khó khăn đối với cán bộ bảo
tàng. Song với lòng nhiệt tình và say mê nghề nghiệp, cán bộ nghiên cứu
vừa làm vừa học trong thực tế, đã thu thập được khối lượng di vật lớn lấy
từ thiên nhiên phản ánh sự giàu đẹp của vùng Việt Bắc..
c, giai đoạn từ 1976 đến nay


Thực hiện chủ trương của Bộ Văn hoá – Thông tin, Bảo tàng đã
dồn công sức vào nghiên cứu sưu tầm là trọng tâm, là mũi nhọn. Nếu chỉ
tính từ năm 1981 đến nay, Bảo tàng đã tổ chức sưu tầm nghiên cứu ở 40
tỉnh thành và trên 150 điểm làng bản của 54 dân tộc trong cả nước. Địa
điểm sưu tầm thường là vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo – nơi ở xa
đường quốc lộ, đồng bào còn gìn giữ được nhiều bản sắc dân tộc. Cán bộ
Bảo tàng đã thu thập về kho cơ sở được trên 8000 tài liệu hiện vật, phim
ảnh, băng hình có giá trị khoa học, lịch sử, nghệ thuật, phản ánh về các
mặt đời sống sinh hoạt tiêu biểu của đồng bào các dân tộc như: Các
nghiên cứu tập hiện vật về lao động sản xuất, các nghề thủ công truyền
thống, nghiên cứu về trang phục dân tộc của các lứa tuổi, các tầng lớp xã
hội, nghiên cứu về các loại nhạc cụ, nghiên cứu về lễ hội và tôn giáo tín

ngưỡng, nghiên cứu về các đồ giải trí.
Với kết quả nghiên cứu to lớn đó đã cho phép Bảo tàng Văn hoá
các dân tộc Việt Nam lần lượt trưng bày các phòng theo các nhóm ngôn
ngữ khác nhau như: nhóm ngôn ngữ Việt - Mường; nhóm ngôn ngữ Tày Thái; H’mông - Dao; Kađai; Tạng miến; Môn - Khơme; và nhóm ngôn
ngữ Hán; Malayo - Polynesian tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Trong công việc, cán bộ nghiên cứu đã biết kế thừa kinh nghiệm
của các thế hệ đi trước và vận hành tốt những kiến thức đã học ở trường,
do vậy công tác nghiên cứu đạt hiệu quả cao.
Trong những năm gần đây, công tác nghiên cứu - sưu tầm vẫn luôn
được chú trọng, tập trung nghiên cứu văn hoá 54 dân tộc Việt Nam để bổ
sung cho các nội dung chuyên sâu theo chuyên đề của từng dân tộc. Công
tác nghiên cứu sưu tầm được lập kế hoạch ngay từ đầu năm. Các chuyến
đi khảo sát cũng được tăng cường và số hiện vật được sưu tầm về bảo
tàng tăng lên đáng kể. Đặc biệt, năm 2006 -2007, phòng Nghiên cứu- Sưu
tầm triển khai chương trình khảo sát, nghiên cứu sưu tập hiện vật quý
hiếm, tiêu biểu các dân tộc Việt Nam.
Năm 2007, phòng đã tổ chức 22 đoàn đi nghiên cứu sưu tầm tại
các địa bàn trên phạm vi cả nước nhưng tập trung nghiên cứu di sản văn
hoá dân tộc Ngái, La Ha, Xinh Mun, Co, Chứt, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm,
Chơ Ro, đặc biệt chú trọng đến việc nghiên cứu di sản văn hoá Chăm Pa
và Tây Nguyên. Hoàn thành dự án “Sưu tập hiện vật tiêu biểu quý hiếm
và hiện vật văn hoá truyền thống các dân tộc Việt Nam”.
Năm 2008 đã tổ chức được 6 đợt khảo sát tại các địa bàn trên phạm
vi cả nước như: Sóc trăng, Trà Vinh, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Bình
Thuận, Ninh Thuận, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bình


Phước, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Hà Nội, Hà
Tây…Tập trung nghiên cứu các dân tộc Chăm, Việt, Khơ Me, Co, Hrê,
Tày, Nùng, Dao. Phát hiện trên 800 hiện vật, đã được hội đồng cấp cơ sở

nghiệm thu với số lượng 608 hiện vật đã nhập kho cơ sở.
Năm 2009 phòng triển khai dự án nghiên cứu sưu tầm hiện vật
truyền thống các dân tộc Việt Nam. Đã tổ chức được 10 đợt khảo sát tại
các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Kon
Tum, Gia rai, Đắc Lắc…lập danh mục trên 1000 hiện vật, được Hội đồng
khoa học cấp cơ sở, cấp Bộ lựa chọn 903 tài liệu hiện vật của các dân tộc
Chăm, Khơ Me, Cơ Tu, Raglai, Chu Ru, Mạ, Mnông, Ê Đê, Việt, Tày,
Nùng, Cao Lan, Dao. Công tác nghiên cứu khảo sát hiện vật thuộc gói 11
(mua sắm hiện vật) phục vụ dự án trưng bày ngoài trời đã tổ chức được
12 đoàn nghiên cứu khảo sát 2 đợt tại 15 tỉnh trong cả nước với 6 vùng
văn hoá. Kết quả: Đã khảo sát được 2.330 tài liệu hiện vật được Hội đồng
cấp cơ sở, Hội đồng cấp Bộ nghiệm thu, đánh giá tố. Hiện nay, hầu hết
các hiện vật đã tập kết tại bảo tàng chuẩn bị cho không gian trưng bày
ngoài trời.
b, công tác trưng bày
Công tác trưng bày cố định luôn được đặt lên hàng đầu vì trưng
bày là bộ mặt của Bảo tàng.
Khác với những cơ sở văn hoá khác, mọi hoạt động của Bảo tàng
đều xoay quanh hiện vật gốc, lấy hiện vật gốc làm trọng tâm, cho nên
trưng bày đã tạo cho Bảo tàng có tiếng nói riêng biệt, phản ánh đúng tính
đồng nhất văn hóa.
Hệ thống trưng trong nhà gồm 1 gian long trọng và 5 phòng trưng
bày được xây dựng trên cơ sở các nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn hoá
vùng, giới thiệu bản sắc văn hoá 54 tộc người gắn với cảnh quan môi sinh
từng vùng cư trú.
Phòng số 1: Với diện tích 250m2, phòng trưng bày giới thiệu các
yếu tố văn hoá chung và riêng của 4 tộc người nhóm ngôn ngữ Việt Mường( Việt - Mường - Thổ - Chứt)
Phòng số 2: Trưng bày và giới thiệu về văn hoá 8 tộc người nhóm
ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Lào, Nùng , Lự, Bố Y, Sán Chay, Giáy)

Phòng số 3: Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc 3
nhóm ngôn ngữ H’mông - Dao , Ka Đai và Tạng Miến.
Phòng số 4: Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm
ngôn ngữ Môn – Khơ Me (Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ


Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H’rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh
Mun, Mnông, ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà ôi, Xơ Đăng, Xtiêng).
Phòng số 5: Trưng bày và giới thiệu văn hoá 8 tộc người thuộc 2
nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, ê Đê, Raglai, Chu Ru) và
ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu).
Để xác định một cách đúng đắn nội dung trưng bày của từng
phòng. Bảo tàng đã trải qua một quá trình chuẩn bị một cách công phu.
Từ xây dựng đề cương chính trị, đề cương trưng bày, giải pháp mỹ thuật,
ma két trưng bày tổng thể…. Mỗi công việc đều đưa ra Hội đồng khoa
học cùng bàn bạc, thống nhất, sau đó tổ chức hội thảo xin ý kiến của các
nhà khoa học đóng góp cho nội dung trưng bày, duyệt giải pháp mỹ thuật
tổng thể , ma két trưng bày…
III KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, bảo tàng dân tộc học Việt Nam đã vận dụng rất chính
xác phương pháp nhân học văn hóa vào quá trình nghiên cứu và trưng
bày trong bảo tàng . dựa vào sự phân bố chủng người và thổ ngữ mà đã
có những nghiên cứu sâu sắc về vấn đề này cùng với đó là làm hợp lý hơn
tạo điều kiên cho khách tham quan có thể hiêu được rõ hơn văn hóa Việt
Nam khi vào bảo tàng tham quan và tìm hiểu .



×