Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BÀI lớn học kỳ tố TỤNG dân sự đề 1 nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.23 KB, 13 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử
của Tòa án Việt Nam.Nhằm đạt tới mục đích cao nhất là giải quyết đúng đắn các vụ án,
bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và pháp luật được thực thi trên
thực tế. Chính vì vậy cùng với việc quy định cụ thể trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2002, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong rất nhiều vănbản pháp luật của nước ta.
Hiện nay, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004 (Sửa đổi, bổ sung năm 2011).
NỘI DUNG
I. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự
1. Khái niệm cấp xét xử
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một khái niệm pháp lý chính thức về cấp xét xử. Tuy
nhiên, khái niệm cấp xét xử trong khoa học pháp lý Liên Xô được thừa nhận khá phổ
biến ở nước ta. Theo đó cấp xét xử được hiểu là : “giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án
với thẩm quyền xác định”1. Để bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết
của Toà án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, các quốc gia đều áp dụng
nguyên tắc vụ án có thể được tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để
thực hiện nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố
tụng; mà còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực hiện việc
xét xử lại vụ án. Xuất phát từ nhiều yếu tố quan trọng như vậy, pháp luật Việt Nam thực
hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Tức vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn định luật được
Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Còn các bản án, quyết định

1 Từ điểm bách khoa pháp lý – NXB Bách khoa Xô Viết 1984, Tr126.

Lù A Mùa – MSSV: 361824

1



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
của Toà án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm.
Từ sự phân tích trên em đưa ra định nghĩa sau: “Cấp xét xử là một hình thức tổ chức
tố tụng và xét xử lại các vụ án theo thẩm quyền xét xử theo các thủ tục tố tụng khác
nhau để việc xét xử các vụ án được đúng đắn, minh bạch, khách quan”
2. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Tố tụng dân
sự
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là quan điểm chung có hướng chỉ đạo
trong tổ chức tố tụng. Nguyên tắc này được tổ chức thực hiện bằng các quy định cụ thể
của thủ tục tố tụng trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia. Thủ tục tố tụng càng chính
xác thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử càng phát huy hiệu quả của nó trong
bảo đảm xét xử đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ có hiệu quả quyền lợi ích hợp
pháp của người tham gia tố tụng. Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy
định tại Điều 17 – BLTTDS (Sửa đổi bổ sung năm 2011) như sau: “1. Tòa án thực hiện
chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có
hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ
án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật; 2.
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp
luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
theo quy định của Bộ luật này”.
Hơn nữa, nguyên tắc này còn được quy định thêm về thời hạn kháng cáo và kháng
nghị tại các Điều 245, 247, 252 – BLTTDS (sửa đổi bổ sung năm 2011). Từ các quy
định của BLTTDS có thể hiểu nội dung cơ bản của nguyên tắc này như sau:
Lù A Mùa – MSSV: 361824

2



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Thứ nhất, các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của pháp luật tố tụng thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Theo đó các bản
án, quyết định của tòa án sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà
được trù liệu một thời hạn nhất định cho các đương sự kháng cáo, viện kiểm sát kháng
nghị. Hết thời hạn đó mà các chủ thể không kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật, còn nếu bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì sẽ
phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, phạm vi phúc thẩm là chỉ xét lại
những nội dung do đương sự kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị bị giới hạn bởi
phạm vi mà bản án sơ thẩm đã giải quyết. Toà phúc thẩm không thể giải quyết những
yêu cầu mới vì nếu như vậy sẽ vừa xét xử sơ thẩm vừa xét xử phúc thẩm ngay nên sẽ vi
phạm nguyên tắc hai cấp xét xử.
Thứ hai, bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và phải
được thi hành. Quy định này nhằm bảo đảm cho tính nhanh chóng của tố tụng cũng như
tránh tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu xét lại của đương sự để kéo dài vụ án, pháp
luật quy định chỉ cho phép đương sự kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị một lần.Theo
đó, những bản án, quyết định của tòa án phúc thẩm là chung thẩm và được mọi chủ thể
tuyệt đối chấp hành. Giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba mà chỉ
là một thủ tục đặc biệt để xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự nước ta, chỉ những người có thẩm quyền đứng đầu cơ quan tòa án hoặc viện
kiểm sát mới có quyền kháng cáo giám đốc thẩm hay tái thẩm mà không trao quyền đó
cho các đương sự.
3. Điều kiện đảm bảo thực hiện nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
- Phương diện lập pháp:

Lù A Mùa – MSSV: 361824


3


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Để thực hiện có hiệu quả nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, các quy định
về thủ tục tố tụng cần thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Để vụ án được xét xử một cách khách quan, toàn diện, chính xác, phải đảm bảo
đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc xét xử sơ thẩm vụ án. Cùng với đó tòa án
cấp sơ thẩm phải đảm bảo giái quyết mọi vấn đề liên quan đến vụ án.
+ Pháp luật phải đảm bảo tối đa quyền kháng cáo của các đương sự đối với bản án,
quyết định sơ thẩm. Đó là các quy định liên quan đến thời hạn kháng cáo, kháng nghị,
liên quan đến quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm.
+ Tính chất của phúc thẩm là xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với vụ án mà
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
pháp luật quy định. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm phải được tiến hành như xét xử sơ
thẩm, Tòa phúc thẩm có quyền quyết định về thực chất vụ án, nhằm thể hiện đầy đủ
rằng cấp phúc thẩm là một cấp xét xử.
+ Nhằm đảm bảo tính ổn định của phần bản án, quyết định không có kháng cáo hoặc
không bị kháng cáo, kháng nghị, cần phải xác định phạm vi xét xử phúc thẩm phải được
rõ ràng và không vượt quá những vấn đề đã được cấp sơ thẩm xét xử và kết luận, đồng
thời không vượt quá yêu cầu của kháng cáo, kháng nghị.
- Phương diện thực hiện pháp luật:
+ Một trong những điều kiện cần thiết và rất quan trọng giúp cho việc nhận thức
pháp luật được đúng đắn, việc áp dụng được thống nhất và dễ dàng là việc giải thích,
hướng dẫn áp dụng pháp luật phải nhanh chóng, kịp thời. Bởi lẽ, muốn thực hiện có
hiệu quả các quy định của pháp luật, trước tiên phải làm cho các quy phạm pháp luật trở
nên dễ hiểu, dễ áp dụng.

Lù A Mùa – MSSV: 361824


4


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
+ Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm trong việc đảm bảo quyền kháng
cáo, kháng nghị của đương sự. Đảm bảo các điều kiện thuận lợi nhất để chủ thể có
quyền kháng cáo, kháng nghị bản án quyết định sơ thẩm một cách kịp thời và đầy đủ
quyền của mình.
- Phương diện tổ chức:
+ Tổ chức hệ thống tòa án và quy định về thẩm quyền xét xử của các tòa án phải phù
hợp khả năng thực tế của từng cấp xét xử, trình độ tổ chức, khả năng chuyên môn cũng
như về điều kiện cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xét xử, đảm bảo xét xử
kịp thời, chính xác và khách quan.
+ Tổ chức tòa án theo cấp xét xử phải hạn chế được sự lệ thuộc và can thiệp vào
hoạt động xét xử nhằm đảm bảo sự độc lập trong xét xử, phù hợp với yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền.
+ Nhằm đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất với mô hình tổ chức các cơ quan tiến hành
tố tụng trong cải cách tư pháp, phù hợp với việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử,
cần phải đổi mới trong việc tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát cho phù hợp và tương ứng với tổ chức của Tòa án các cấp.
+ Trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng cần phải được nâng cao.
Cầnmột đội ngũ người tiến hành tố tụng có chuyên môn đáp ứng yêu cầu của công tác
xét xử, có đạo đức nghề nghiệp để thực sự liêm chính, chí công vô tư, thật sự khách
quan trong công tác.
+ Nhằm bảo đảm đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tiễn của công tác xét xử ở từng
cấp, cần tăng cường chất lượng hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác
xét xử.

Lù A Mùa – MSSV: 361824


5


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
4. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử
- Quy định nguyên tắc hai cấp xét được xem là một sự đảm bảo pháp lý cần thiết cho
việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn. Bởi lẽ, qua hai cấp xét xử khác
nhau, những vấn đề thuộc nội dung vụ án sẽ một lần nữa được xem xét, phân tích và
đánh giá đầy đủ, kỹ càng hơn.
- Góp phần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử sơ thẩm, giúp họ có thái độ
thận trọng và có trách nhiệm hơn trước khi đưa ra phán quyết của mình, pháp luật đã
quy định một vụ việc dân sự có thể được xét xử ở hai cấp cũng như quy định về việc
quyết định ở cấp sơ thẩm có thể bị sửa hoặc bản án có thể bị hủy, quyết định ở cấp phúc
thẩm sẽ kịp thời sửa chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã
mắc phải.
- Việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm ra nguyên nhân
dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của
Tòa án nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Từ đó tìm ra các giải pháp
thích hợp để sửa chữa, khắc phục về phương diện lập pháp cũng như vấn đề hướng dẫn
áp dụng pháp luật, tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa
án đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử.
II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Tố tụng
dân sự
Thực tế cho thấy hiện nay có rất nhiều yếu tố tác động đến hoạt động xét xử của Toà
án. Do đó mà việc áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử ở nước ta còn
nhiều hạn chế, các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này đã và đang bộc lộ
những điểm chưa hợp lý dẫn đến vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử, ảnh hưởng đến
quyền lợi của người dân và làm kéo dài quá trình tố tụng.
Lù A Mùa – MSSV: 361824


6


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Hiện nay, tình trạng một vụ án bị xét xử kéo dài nhiều năm vẫn còn khá phổ biến ở
nước ta, thậm chí có những vụ án trải qua hàng chục lần xét xử và kéo dài hàng chục
năm. Ví dụ: vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Kế
với bị đơn là bà Phùng Thị Đời. Bà Kế khởi kiện yêu cầu bà Đời phải trả bà Kế
3.087,7m2 đất rừng trên có 22 cây xoài do bà Kế trồng (số cây còn lại trên đất do bà Đời
trồng). Số cây xoài trên diện tích đất này do bà Đời đang quản lý. Tại bản án dân sự sơ
thẩm số 17/2008/DSST ngày 12/5/2008, Toà án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh
Khánh Hoàđã quyết định: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Kế; buộc bà Đời phải trả
bà Kế toàn bộ cây trái nằm trên diện tích 3.087,7m2 đất (có sơ đồ kèm theo). Giao cho
bà Kế tạm quản lý diện tích đất nêu trên cho đến khi cơ quan có thẩm quyền xem xét
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai. Bà Kế thanh
toán cho bà Đời giá trị số cây đào, bạch đàn, keo lá chàm 2.760.000đ.
Bà Đời kháng cáo. Tại bản án dân sự phúc thẩm số 12/2009/DSPT ngày
25/2/2009, Toà án nhân dân tỉnh KhánhHoà đã sửa bản án sơ thẩm: huỷ một phần bản
án dân sự sơ thẩm và đình chỉ giải quyết đối với việc tranh chấp 3.087,7m 2 đất; bác yêu
cầu của bà Kế về việc tranh chấp 22 cây xoài.(Toà án cấp phúc thẩm lại cho rằng Toà án
chỉ có thẩm quyền giải quyết phần cây trồng trên đất, còn đất (mà trên đó có cây trồng)
chưa có giấy tờ theo quy định tại khoản 1,2 và 5 Luật đất đai 2003 thì không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án để đình chỉ giải quyết đối với tranh chấp đất). Tại Quyết
định số 124/QĐKN-V5 ngày 17/8/2010, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên.Tại Quyết định giám đốc thẩm số 691/2010/DSGĐT ngày 20/10/2010, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã nhận định: diện tích đất
các bên tranh chấp tuy không có giấy tờ được quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật
đất đai, nhưng có tranh chấp 22 cây xoài trên đất; theo quy định tại khoản 1 Điều 136
Luật đất đai thì tranh chấp tài sản gắn liền với đất thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án nhân dân. Toà án nhân dân huyện Cam Lâm thụ lý giải quyết yêu cầu khởi
Lù A Mùa – MSSV: 361824


7


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
kiện là đúng thẩm quyền. Toà án cấp phúc thẩm cho rằng các bên đương sự không có
giấy tờ về sử dụng đất được quy định tại khoản 1, 2, 5 Luật đất đai năm 2003
để huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với tranh chấp quyền sử dụng
3.087,7m2 đất với lý do không thuộc thẩm quyền của Toà án là không đúng. Mặt
khác, Toà án cấp phúc thẩm đình chỉ giải quyết tranh chấp đất nhưng lại giải quyết tranh
chấp cây xoài có trên đất (thuộc tài sản gắn liền với đất) cũng là không đúng 2. Do không
nhận định đúng bản chất vụ việc nên dẫn đến vụ án dân sự không được giải quyết ngay
ở cấp sơ thẩm mà được xét đi xét lại qua hai cấp, thậm chí phải giảm đốc thẩm như ví
dụ trên.
Đồng thời có những vụ án mà xét xử qua nhiều lần mà vẫn không giải quyết được,
điển hình như: Tranh chấp đất đai giữa bà Phạm Thị Quyên kiện đòi hủy hợp đồng mua
bán đất với ông Trần Ngọc Thời. Ngày 25/9/2006, TAND huyện Đăk Mil xử phiên sơ
thẩm và ra quyết định: “Hủy bỏ giá trị pháp lý Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà Phạm Thị Quyên và ông Trần Ngọc Thời đã xác lập từ ngày 7/11/2004; buộc
ông Thời giao lại đất cho bà Quyên sử dụng; bà Quyên phải trả lại cho ông Thời
30.000.000 đồng tiền đặt cọc, cộng thêm 46.576.000 đồng tiền do ông Thời đầu tư công
sức và tiền của chăm bón cà phê (tổng cộng bà Quyên phải trả lại cho ông Thời
76.576.000 đồng)”. Ngày 25/5/2010, TAND tối cao ra Quyết định giám đốc thẩm số
220/2010/DS-GĐT. Quyết định nêu rõ: “Tòa án các cấp vi phạm thủ tục tố tụng khi thụ
lý đơn khởi kiện của bà Quyên trong khi tranh chấp giữa bà Quyên và ông Thời chưa
thông qua thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã theo quy định tại Điều 135 Luật đất
đai năm 2003 và Điều 159 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004”. Quyết định
giám đốc thẩm “Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 10/2007/DSPT ngày 4-1-2007 của
TAND tỉnh Đăk Nông và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2006/DSST ngày 14-9-2006
của TAND huyện ĐăkMil, tỉnh Đăk Nông về vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển

2. “chuyên đề 4a: Một số sai sót cần rút kinh nghiệm trong công tác
xét xử, giải quyết các vụ án dân sự” .

Lù A Mùa – MSSV: 361824

8


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Quyên với bị đơn là ông
Trần Văn Thời”. Nhận lại hồ sơ vụ án từ Tòa án nhân dân tối cao, ngày 28/3/2011,
TAND huyện Đăk Mil đã xử lại phiên sơ thẩm lần 2. Điều mới phát sinh là từ phiên xét
xử sơ thẩm này đã có thêm 2 đương sự mới là ông Trần Văn Lung và bà Lê Thị Đại
(vừa mới mua đất bà Quyên) tham gia tố tụng trong vụ án và người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan. Tiếp tục, ngày 18/11/2011, TAND tỉnh Đăk Nông xử phúc thẩm vụ
án lần 2 và đã hủy kết quả phiên tòa xử sơ thẩm; đồng thời trả lại hồ sơ cho TAND
huyện Đăk Mil. Đến ngày 27/12/2012, TAND huyện Đăk Mil xử sơ thẩm lần 3, nhưng
sau đó ngày 10/6/2013, TAND tỉnh Đăk Nông xử phúc thẩm lần 3 đã hủy bản án sơ
thẩm lần 3 của TAND huyện Đăk Mil để xem xét xử sơ thẩm lại. Vụ án tranh chấp dân
sự đơn giản cứ tưởng đưa đến cơ quan tố tụng xử lý nhẹ nhàng chóng vánh. Nhưng thực
tế, khi các cơ quan chức năng thụ lý giải quyết đã biến thành vụ án trở nên quá phức tạp
phải kéo dài hơn 8 năm với 14 lần đưa ra xét xử vẫn không xong. Đương sự tham gia tố
tụng trong phiên tòa mất nhiều thời gian và quá mệt mỏi với tâm trạng lo âu không biết
bao giờ kết thúc giải quyết vụ việc để ổn định sinh sống3.
Cơ quan tố tụng từ địa phương đến trung ương đã mất quá nhiều công sức và thời
gian, người tham gia tố tụng thì tán gia bại sản. Có thể thấy nguyên nhân của tình trạng
trên là do cách quan niệm cũng như việc áp dụng trên thực tế nguyên tắc hai cấp xét xử
ở nước ta chưa đúng với bản chất của nguyên tắc này. Cụ thể là:Một vụ án được xét xử
đi, xét xử lại nhiều lần ở các cấp tòa án khác nhau có nhiều nguyên nhân, như từ sự
phức tạp của đời sống dân sự; từ năng lực, trình độ, phẩm chất của người xét xử; từ sự

bất cập của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự. Về mặt luật pháp, có thể nói, chính các
quy định về thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm “hủy bản án sơ thẩm, hủy một
phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ
án”4, thẩm quyền của hội đồng giám đốc thẩm “hủy một phần hoặc toàn bộ bản án,
3 />4 Điều 277 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011).

Lù A Mùa – MSSV: 361824

9


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại” 5 là
nguyên nhân trực tiếp khiến rất nhiều vụ án phải xét xử đi, xét xử lại nhiều lần.
Tòa án cấp sơ thẩm hay tòa án cấp phúc thẩm làm nhiệm vụ thu thập chứng cứ hay
chứng minh những vấn đề liên quan đến vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xét lại vụ
án trên hồ sơ do tòa án cấp sơ thẩm hay phúc thẩm chuyển giao, phiên họp giám đốc
thẩm là họp kín không có sự tham gia của đương sự, người làm chứng, hơn nữa các
thẩm phán giám đốc thẩm không tham gia thu thập chứng cứ, không tham gia phiên tòa
sơ thẩm hay phúc thẩm. Do đó, việc kiểm định sự thu thập chứng cứ không đầy đủ,
không phù hợp, không đúng thủ tục có nên chăng quy định cho Hội đồng giám đốc
thẩm. Thêm vào đó, một trong những căn cứ hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét
xử phúc thẩm lại là “kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với tình tiết
khách quan của vụ án”. Thực tế đã chứng minh ở đây không có sự khác biệt rõ rệt giữa
tính chất của phúc thẩm và giám đốc thẩm, do đó giám đốc thẩm bị biến dạng thành cấp
xét xử thứ ba. Ở nước ta thẩm quyền phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm được trao
cho nhiều đơn vị xét xử, có thể là một cấp tòa án hoặc một bộ phận chuyên môn của tòa
án nhưng có thẩm quyền xét xử độc lập. Cùng với đó hệ thống tòa án lại được tổ chức
thành ba cấp nên khi kết hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử đã khiến mỗi cấp tòa án có

sự chồng chéo thẩm quyền. Ngoài tòa án cấp huyện chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
thì tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử cả sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm; TAND tối cao cũng có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Đặc biệt hơn, trong mỗi cấp tòa án lại có nhiều đơn vị xét xử và các đơn vị xét xử này
có quyền xét lại những bản án, quyết định của đơn vị xét xử khác mặc dù chúng đều
thuộc một cấp tòa án. Tình trạng này đã làm biến dạng nguyên tắc hai cấp xét xử.

5 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011).

Lù A Mùa – MSSV: 361824

10


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
III. H ướng h oàn thiện pháp luật
Thứ nhất, nhằm đảm bảo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được thực hiện
theo đúng tinh thần của pháp luật cần phải quán triệt nguyên tắc những vấn đề sự kiện
của vụ án chỉ có thể xem xét tại cấp sơ thẩm và cấp phúc. Do vậy, pháp luật cần có
những sửa đổi, bổ sung một số quy định về tính chất, phạm vi của giám đốc thẩm theo
hướng chỉ xem xét, giải quyết những vấn đề về trình tự thủ tục tố tụng chứ không thể
xem xét lại những tình tiết, sự kiện của vụ án. Theo đó, cần quy định lại tính chất của
giám đốc thẩm là chỉ xem xét những vấn đề thuộc về mặt pháp lý hoặc thủ tục tố tụng
của vụ án. Đồng thời bãi bỏ những quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm hay
cơ sở thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định để xét xử lại vụ
án được quy định tại Khoản 1 - Điều 283, Khoản 1, 2 - Điều 299 - BLTTDS về việc thu
thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận của bản án, quyết định không phù hợp tình tiết
khách quan của vụ án. Quy định kết luận của bản án, quyết định không phù hợp với tình
tiết khách quan của vụ án nên được sửa đổi là phần quyết định của bản án, quyết định
không phù hợp với những nhận định của tòa án, tức là bản án, quyết định được tuyên bố

thiếu cơ sở nên sẽ là căn cứ cho việc xét lại án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ hai, hệ thống Toà án ở nước ta, trong đó có các toà chuyên trách được tổ chức
theo đơn vị hành chính cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự độc lập trong xét xử của
Toà án. Cần hoàn thiện pháp luật về tổ chức của Toà án có thẩm quyền xét xử các vụ án.
Phải tổ chức hệ thống Tòa án nhằm thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử nhưng phải đảm
bảo cấp xét xử sơ thẩm và cấp phúc thẩm độc lập với nhau chứ không bị lệ thuộc theo
mô hình cấp trên cấp dưới của nhau. Để khắc phục hạn chế của pháp luật về tổ chức Toà
án có thẩm quyền xét xử cần có sự đổi mới một số quy định của pháp luật, về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm cơ bản vẫn tổ chức theo hành chính lãnh thổ như như hiện nay,
nhưng cần thành lập gộp một số Tòa án cấp huyện lại thành một Tòa án khu vực nhằm
hình thành đội ngũ Thẩm phán có quy mô lớn hơn trong một Toà án, chất lượng xét xử
Lù A Mùa – MSSV: 361824

11


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
cao hơn, giảm sức ép cho Toà án cấp trên, cùng với đó cũng sẽ hạn chế được sự dư
thừa, sử dụng không hiệu quả nguồn nhân lực của Toà án cấp huyện.
KẾT LUẬN
Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố
tụng dân sự. Việc thực hiện nguyên tắc này không chỉ thể hiện sự thận trọng của Tòa án
trong việc xét xử và tôn trọng quyền của đương sự mà nó còn là một trongnhững biểu
hiện của dân chủ và tiến bộ trong tố tụng dân sự nước ta.Tuy nhiên trên thực tế do
những quy định của pháp luật còn chưa thực sự hợp lý nên nguyên tắc thực hiện chế độ
hai cấp xét xử được áp dụng ở nước ta còn nhiều hạn chế. Do đó, chúng ta cần khắc
phục những hạn chế của pháp luật quy định về nguyên tắc này góp phần đảm bảo ý
nghĩa của nó trong tố tụng dân sự.

Lù A Mùa – MSSV: 361824


12


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ - TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND, Năm 2012.
2. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011).
3. Trần Văn Độ (2009), "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó
vào việc tổ chức Tòa án các cấp", luatviet.org, ngày 30/8.
4. “chuyên đề 4a: Một số sai sót
cần rút kinh nghiệm trong công tác xét xử, giải quyết các vụ án dân sự”.
5.

/>
20130718080619602.htm.

Lù A Mùa – MSSV: 361824

13



×