Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Học kì LSNNPLPKVN chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.06 KB, 6 trang )

MỤC LỤC

A.

Phần mở đầu…………………………………………………………...2

B.

Nội dung……………………………………………………………….2
I. Chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam………..2
II. Chế độ hôn nhân không tự do…………………………………….2
1. Cơ sở pháp lí của chế độ hôn nhân không tự do………………2
2. Chế độ hôn nhân không tự do………………………………….3
a. Điều kiện kết hôn……………………………………………3
b. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng………………………4
c. Chấm dứt hôn nhân………………………………………….5

C.

Kết luận……………………………………………………………….5

Tài liệu tham khảo……………………………………………………………6

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1


Dưới thời kỳ phong kiến, nước Việt Nam ta chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư
tưởng độc tôn Nho giáo. Bên cạnh những giá trị đạo đức tốt đẹp mà nó đem lại,
Nho giáo cũng áp đặt một số tư tưởng hạn chế vào tư tưởng của nhân dân ta như
quan niệm “trọng nam khinh nữ”. Cùng với việc đề cao chữ “hiếu” trong cuộc


sống thường nhật mà những quy định về hôn nhân trong pháp luật phong kiến
có phần bất bình đẳng và không tự do. Đến bây giờ, những tư tưởng đó ít nhiều
vẫn còn ảnh hưởng tới một bộ phận dân cư nhất định. Chính vì vậy, qua quá
trình nghiên cứu, học tập, trong bài tập lớn em xin trình bày nội dung đề tài:
“Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt Nam”.

B. NỘI DUNG:
I.

Chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam:

Thời Lý – Trần thì những quy định về lĩnh vực hôn nhân gia đình còn rất ít ỏi.
Dưới thời Trần, do ảnh hưởng ngày càng tăng của Nho giáo nên đã có 1 số quy
định củng cố chế độ gia đình phụ quyền gia trưởng. Với sự độc tôn của tư tưởng
chính trị Nho Giáo, các nhà làm Luật thời Lê cũng rất chú trọng tới vấn đề này. Sự
điều chỉnh và bảo vệ quan hệ hôn nhân và gia đình cũng là một nội dung trọng yếu
của Bộ Luật Hồng Đức. Trong Bộ luật này, các quan hệ hôn nhân gia đình được
điều chỉnh khá toàn diện, mang những sắc thái riêng, đồng thời cũng phù hợp với
phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam ta. Trong thời kì nhà Lê trị vì, Nho giáo
có vị trí quan trọng, nó trở thành tư tưởng thống trị trong xã hội vì thế mà những
quan hệ hôn nhân trong thời kì này thấm đượm ảnh hưởng của tư tưởng Nho Giáo.
Mặc dù được xây dựng trên cơ sở đạo đức Nho Giáo nhưng các quan hệ hôn nhân
được điều chỉnh trong Bộ Luật Hồng Đức vẫn có những nét riêng biệt, độc đáo bởi
lẽ có sự tiếp thu, kế thừa, phát triển các phong tục tập quán, phù hợp với thực tế của
quần chúng nhân dân.
II.
Chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến Việt Nam:
1. Cơ sở pháp lí của nguyên tắc không tự do trong hôn nhân:
Trong xã hội phong kiến, hôn nhân không tự do, đa thê, bất bình đẳng, xác lập
chế độ đa thê là những nguyên tắc cơ bản, nổi bật nhất. Trong đó cơ sở pháp lí của

nguyên tắc không tự do trong hôn nhân chủ yếu là do:
Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, từ cuối thời Trần thì địa vị Nho giáo đã được
nâng cao. Sang đời Lê thì Nho giáo đã giành vị trí thống trị, trở thành hệ tư tưởng
chính trị - pháp lí chính thống của giai cấp phong kiến. Từ đó, nhà nước phong kiến
2


đã lấy Nho giáo làm chuẩn mực, làm khuôn vàng thước ngọc trong xây dựng các
thiết chế chính trị và pháp luật. Nho giáo đề cao ngũ luân, ngũ thường, chú trọng
việc tu thân, coi đạo tề gia là cơ sở cho đạo trị quốc nên đã thiết lập một trật tự gia
đình gia trưởng phong kiến, trong đó cong phải phục tùng cha, vợ phải phục tùng
chồng, vợ lẽ phải phục tùng vợ cả…
Phong tục tập quán, giá trị văn hóa tinh thần của người Việt, chuẩn mực đạo đức
của xã hội, của dân tộc ta.
Sự tồn tại và duy trì quan hệ đẳng cấp.
2. Chế độ hôn nhân không tự do:
a. Điều kiện kết hôn:
- Trong xã hội phong kiến, việc kết hôn là nhằm mục đích sinh con nối dõi tông
đường, thờ phụng tổ tiên. Mục đích của hôn nhân trước hết vì quyền lợi của gia
đình, dòng họ, chứ không phải là lợi ích của hai bên nam nữ nên sự đồng ý của cha
mẹ luôn là điều kiện bắt buộc và quan trọng nhất trong việc xác lập hôn nhân. Theo
bộ luật Hồng Đức thời Lê thì việc kết hôn phải có sự đồng ý của hai bên cha mẹ
(Điều 314). Việc kết hôn nhất thiết phải được sự đồng ý của hai bên cha mẹ, nếu
cha mẹ chết cả thì phải có sự đồng ý của bậc thân thuộc bề trên hoặc trưởng thôn,
điều kiện này loại trừ hẳn quyền kết hôn tự do của hai bên đương sự. Hôn nhân ở
đây là sự liên minh giữa hai dòng họ, liên quan đến sự bền vững, thịnh suy của gia
đình, nó thường được xây dựng tên cơ sở môn đăng hộ đối giữa các qia đình quan
lại và gia đình giàu có. Khi đó con cái có bổn phận phải tuân theo sự sắp đặt của
cha mẹ, yêu cầu đạo đức của Nho giáo về chữ “hiếu” đòi hỏi con cái phải tuyệt đối
nghe theo lời cha mẹ. Do vậy vấn đề hôn nhân đã loại trừ sự tự do cá nhân của hai

bên nam nữ. Đây cũng là điều dễ hiểu vì trong xã hội phong kiến, mục đích bảo vệ
gia đình, quyền lợi gia đình luôn được đặt trên lợi ích cá nhân.
- Ngoài ra pháp luật phong kiến còn có quy định cấm kết hôn giữa những người
trong họ hàng thân thích. Tất cả những người trong cùng một họ, cùng thờ chung
một ông tổ, dù huyết thống xa hay gần, kể cả những người ngoài phạm vi để tang,
đều không được kết hôn với nhau. Như vậy cũng là không tự do trong hôn nhân,
thể hiện quan niệm lạc hậu thời xưa.
- Cấm quan lại lấy con gái địa phương mà mình đương chức (Điều 316 – Luật
Hồng Đức) và cấm quan cưới phụ nữ bộ dân làm thê thiếp (Điều 103 – Luật Gia
3


Long). Mặc dù điều cấm này nhằm ngăn ngừa sự lạm dụng quyền thế cưỡng hôn
nhưng cũng làm hạn chế sự tự do trong hôn nhân.
- Cấm các quan, thuộc lại và con cháu các quan kết hôn với đàn bà con gái làm
nghề hát xướng, đã kết hôn thì đều phải li dị; cấm nô tì lấy dân tự do… Các điều
cấm này thể hiện rõ quan niệm đẳng cấp. Theo quan điểm Nho giáo, người phụ nữ
làm nghề hát xướng không có đủ tư cách để làm vợ, họ bị coi là không có phẩm
hạnh cần thiết để làm vợ. Quy định này bắt nguồn từ quan niệm đạo đức của xã hội
đương thời. Trong xã hội thì quan có trách nhiệm giáo hóa dân chúng, quan phải
gương mẫu, phải lựa chọn người vợ có đầy đủ tiêu chuẩn đạo đức để có đủ tư cách
làm gương cho dân chúng trong xây dựng nền tảng gia đình vững chắc. Mặc dù quy
định này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng trong hôn nhân nhưng cũng một phần nào
đó phản ánh chế độ hôn nhân không tự do trong pháp luật phong kiến nước ta.
- Cấm mệnh phụ phu nhân cải giá: Nếu mệnh phụ phu nhân (vợ quan chức) mà
chồng đã chết, tuy đã mãn tang mà tái giá thì bị phạt 80 trượng, truy thu bằng sắc
vua khen trước đây, bắt phải li dị.
b. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng:
- Người vợ trong pháp luật phong kiến phải phục tùng chồng. Đó là nghĩa vụ,
người vợ phải theo chồng, vâng lời chồng, tôn trọng mọi quyết định của chồng.

Như vậy, ta có thể hiểu như bị tước bỏ năng lực hành vi pháp lí. Sự phục tùng
chồng còn không cho phép người vợ tố cáo chồng, hành vi tố cáo chồng nằm trong
một trong mười tội ác. Theo Điều 504 Quốc Triều hình luật, hành vi tố cáo chồng
bị xử tội đi lưu châu xa và nếu là vu cáo thì xử theo tội đã vu và tăng thêm một bậc.
Trong Bộ luật Gia Long thời Nguyễn còn có quy định: chồng có thể bỏ vợ, vợ
không được tự tuyệt giao với chồng. Theo Điều 108, nếu vợ bỏ chồng mà trốn đi
phạt 100 trượng. Nếu nhân trốn mà cải giá xử 100 trượng đồ 3 năm. Quy định này
còn rằng buộc người phụ nữ chặt chẽ hơn so với thời Lê.
- Duy trì và bảo vệ chế độ đa thê, vì quyền lợi gia đình, duy trì sự thịnh vượng
nên pháp luật phong kiến đã khuyến khích chế độ đa thê. Chế độ đa thê được mặc
nhiên thừa nhận, nghĩa vụ chung thủy chỉ được đặt ra với người vợ. Người vợ phải
tuyệt đối chung thủy với chồng, nếu vi phạm thì bị coi là một trong bảy duyên cớ
để người chồng bắt buộc phải li hôn, mà còn phải chịu hình phạt nghiêm khắc.
Thậm chí người chồng còn có quyền gả bán vợ nếu vợ mắc tội thông gian (Điều
332-LGL)
4


- Không chỉ có nghĩa vụ chung thủy với chồng, mà người vợ còn có nghĩa vụ để
tang chồng trong 3 năm và phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt. Nếu vi
phạm thì người vợ bị khép vào tội thập ác trong khi Luật pháp không quy định
nghĩa vụ chồng để tang vợ.
c. Chấm dứt hôn nhân:
- Hôn nhân có thể chấm dứt khi một bên vợ hoặc chồng chết trước: nếu người
chồng chết trước, quan hệ nhân thân chưa chấm dứt ngay mà vẫn tồn tại trong thời
gian vợ để tang chồng. Trong thời gian đó, vợ không được đi lấy chồng khác, vẫn
phải ở nhà chồng để thực hiện các nghĩa vụ đối với gia đình chồng. Ngược lại, nếu
vợ chết trước thì pháp luật lại không có quy định người chồng phải để tang và quan
hệ nhân thân chấm dứt ngay khi người vợ chết.
- Li hôn: có nhóm trường hợp buộc người chồng phải li hôn vì người vợ có lỗi.

Người chồng buộc phải bỏ vợ, dù có muốn hay không khi vợ phạm phải thất xuất
(vô tử, ghen tuông, ác tật, dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp). Trong
các trường hợp này, người chồng không có quyền lựa chọn nào khác mặc dù người
chồng không muốn.

C. KẾT LUẬN:
Trong lịch sử pháp luật phong kiến Việt Nam thì dường như chỉ trong triều
đại nhà Lê và nhà Nguyễn mới có các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân một
cách khá rõ ràng, toàn diện. Theo tiến trình lịch sử, các quy định về vấn đề này
ngày càng được bổ sung đầy đủ, chặt chẽ hơn. Mặc dù phụ thuộc vào các điều kiện
lịch sử thời bấy giờ với sự chi phối của tư tưởng Nho giáo, quan hệ đẳng cấp…
nhưng có một số quy định phù hợp với chuẩn mực đạo đức, được xã hội thừa nhận,
tôn trọng, dần trở thành thói quen ứng xử của con người trong đời sống hôn nhân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


1. Giáo trình lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, nxb CAND, năm 2012.
2. Quốc triều hình luật – Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị, TS Lê Thị Sơn
(Chủ biên), nxb Khoa học xã hội, năm 2004.

6



×