Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

BT lớn kinh doanh xuất nhập khẩu 9 điểm đề 07 phân tích sự hình thành và phát triển của pháp luật việt nam quy định về thủ tục hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.17 KB, 10 trang )

A.Đặt vấn đề:
Giao lưu hàng hóa giữa các quốc gia là một xu hướng mang tính tất yếu khách quan do tác
động của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Các thủ tục Hải quan rất cần
được nghiên cứu và phát triển nhằm đảm bảo sự kiểm soát chặt chẽ mà bên cạnh đó vẫn tạo ra được
những tác động tích cực từ phía Hải quan đối với các hoạt động thương mại quốc tế. Để nghiên cứu
chi tiết hơn các quy định của pháp luật thủ tục hải quan em xin chọn đề bài tập lớn số 07: “Phân tích
sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về thủ tục hải quan”.

B. Giải quyết vấn đề:
I. Khái quát chung về hải quan và thủ tục hải quan:
1. Về hải quan:
Hải quan là cụm từ được phiên dịch từ chữ Hán, theo khái niệm này Hải quan là cơ quan nhà
nước phụ trách việc kiểm tra, giám sát kiểm soát hàng hóa, vật phẩm và phương tiện vận tải được
phép đưa vào, đưa ra khỏi lãnh thổ quốc gia và thu thuế quan các loại động sản này.
Xét về lịch sử phát triển, từ Hải quan có nguồn gốc từ từ “Douane” của người Ai Cập ngay từ
khi nhà nước quốc gia này hình thành, từ này cũng có nghĩa là “thu quốc gia”. Sau đó từ này được La
tinh hóa, rồi Pháp cũng sử dụng từ này. Còn Hi Lạp và Đức gọi là Zull cũng có nghĩa là “thu quốc
gia”. Ban đầu hải quan được thành lập với chức năng cơ bản là thu thuế đối với hàng hóa, phương tiện
và hành khách di chuyển qua biên giới quốc gia1.
Tùy theo tình hình chính trị, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội mà mối quan hệ quốc
tế mỗi nước, mỗi khu vực trong từng thời kỳ mà chức năng nhiệm vụ, hình thức tổ chức, tên gọi,
phạm vi địa bàn hoạt động, vị trí trong hệ thống bộ máy nhà nước có thể khác nhau nhưng xét về tính
chất cơ bản thì Hải quan các nước đều có vai trò quan trọng như nay: Đó là binh chủng đặc biệt gác
cửa đất nước về kinh tế, gắn liền với hoạt động đối ngoại, kinh tế đối ngoại và an ninh quốc gia.
2. Về thủ tục hải quan:
Thủ tục hải quan là một bộ phận của hành chính Hải quan, chịu sự chi phối của các bộ phận
thuộc hành chính Hải quan, cụ thể là: hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh trực tiếp và có liên quan,
hệ thống cơ cấu tổ chức bộ máy Hải quan và đội ngủ nhân sự Hải quan.
Luật Hải quan năm 2001 Điều 4, mục 6 nêu rõ: “Thủ tục hải quan là các công việc mà người
khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo quy định của Luật này đối với hàng hóa,
phương tiện vận tải.”


Thủ tục hải quan là một bộ phận của nghiệp vụ Hải quan nhằm thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về Hải quan. Thủ tục Hải quan cụ thể hóa, chi tiết hóa những yêu cầu đề ra cho các đối
tượng chịu sự quản lý nhà nước về Hải quan. Các đối tượng đó chỉ được thông quan khi đã hoàn
thành thủ tục hải quan. Thể lệ thủ tục Hải quan được đặt ra vừa có tính chất hướng dẫn, vừa có tính
chất bắt buộc phải thi hành đối với các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu2.
Do thủ tục Hải quan là một bộ phận của hành chính Hải quan, chịu sự chi phối của các quy
phạm pháp luật Hải quan và được thực hiện vởi hệ thống nhân sự Hải quan tổ chức theo cơ cấu nhất
Nguyến Thùy Linh – Khóa luận tốt nghiệp: “Cải cách thủ tục hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế
của Việt Nam hiện nay”
2
Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động hải quan ở Việt
Nam hiện nay” của Trần Văn Dũng năm 2001
1


định do nhà nước đặt ra, nên việc thực hiện chức năng quản lý Hải quan thông qua thủ tục Hải quan
phụ thuộc vào ba yếu tố: hệ thống văn bản pháp luật quy định, điều chỉnh và có liên quan đến thủ tục
Hải quan, cơ cấu tổ chức bộ máy Hải quan và đội ngũ nhân sự Hải quan.
II. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về thủ tục hải quan
Quá trình phát triển của pháp luật quy định về thủ tục hải quan đã trải qua một chặng đường
khá dài hơn 60 năm. Tùy theo hoàn cảnh lịch sử, xu thế phát triển kinh tế - xã hội, pháp luật quy định
về thủ tục hải quan lại có những sự thay đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm có thể tạo ra một khung
pháp lý phù hợp hơn.
1. Giai đoạn 1945 – 1960:
Ngày 10 tháng 9 năm 1945, thay mặt Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp
đã ký Sắc lệnh số 27/SL thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu, tên gọi đầu tiên của Hải quan Việt
Nam ngày nay, với nhiệm vụ "đảm bảo công việc của Sở Tổng Thanh tra độc quyền muối và thuốc
phiện và các Sở Thương chính Bắc, Trung và Nam Bộ"3.
Sau đó, Nghị định số 63/NĐ ngày 17/7/1951 của Bộ Tài chính về ấn định hệ thống tổ chức Sở
thuế thuộc Bộ Tài chính gọi là ngành “Thuế xuất nhập khẩu”, rồi đổi thành Sở Hải quan (Nghị định

508/TTg ngày 6/4/1955 của chính phủ).
Sau khi Chiến dịch Điện Biên phủ năm 1954 thành công rực rỡ, Miền Bắc bước vào thời kì
độc lập, tự do, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Điều lệ hải quan bằng Nghị định
số 03/CP ngày 27/2/1960. Nghị định số 03/CP chủ yếu quy định chức năng, nhiệm vụ của hải quan và
tập trung quy định về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất, nhập cảnh.
Nhìn chung giai đoạn này, pháp luật quy định về thủ tủ tục hải quan còn mang tính
“sơ khai”, chung chung, nhiều vấn đề còn chưa đưa vào các văn bản quy phạm pháp luật. Có
thể nói, giai đoạn này là giai đoạn có ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển của Hải quan Việt
Nam sau này.
2. Giai đoạn 1961 – 1991:
Năm 1962, Sở Hải quan được đổi tên thành Cục Hải quan Trung ương thuộc Bộ ngoại thương
theo quyết định số 490/Ntg-QĐ/TCCB ngày 17/6/1962 của Bộ Ngoại thương.
Ngày 20/10/1984 theo Nghị định 139/HĐBT, Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng bộ
trưởng được thành lập.
Ngày 20/02/1990 Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh hải quan thay thế Nghị định số
03/CP. Pháp lệnh hải quan đã thể chế hóa đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong
lĩnh vực hải quan. Pháp lệnh hải quan xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy hải quan và
tập trung quy định thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan. Pháp lệnh hải quan đã dành 2
chương 33 điều (từ Điều 12 đến Điều 45 trong tổng số 51 Điều) quy định về thủ tục hải quan, chế độ
kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa, hành lí xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất,
nhập cảnh. Đề thi hành Pháp lệnh, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số
171/HĐBT ngày 27/5/1991 kèm theo bản quy định về thủ tục hải quan và lệ phí hải quan. (Sau một
thời gian thực hiện Nghị định số 171 không còn phù hợp với thực tế, ngày 27/03/1999 Chính phủ ban
hành Nghị định số 16/1999/NĐ-CP quy định về thủ tục hải quan, giám sát hải quan và lệ phí hải
quan thay thế Nghị định 171/HĐBT).
Giai đoạn này, pháp luật quy định về thủ tục hải quan đã có những chuyển biến rõ rệt,
với nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ ràng và chi tiết hơn các vấn đề liên quan tới
thủ tục hải quan. Tuy nhiên, giai đoạn này nhiều văn bản đó vẫn bộc lộ một số hạn chế: quy
trình thủ tục, kiểm tra giám sát hải quan chưa đầy đủ, chặt chẽ, nên tình trạng gian lận thương

mại vẫn diễn tra phổ biến.
3. Giai đoạn 1992 đến nay:
a. Pháp luật quốc gia:
3

Chính Phủ (1945), Ngày 10 tháng 9 năm 1945, (tên gọi đầu tiên của Hải quan Việt Nam ngày nay) được
thành lập bởi Sắc lệnh số 27/SL ngày 10/9 về việc thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu, Hà Nội


Pháp lệnh hải quan năm 1990 là cơ sở pháp lí quan trọng trong công tác quản lí nhà nước về
hải quan. Sau 10 năm thực hiện, Pháp lệnh đã phát huy vai trò tích cực trong việc bảo hộ và phát triển
sản xuất trong nước, tăng thu cho ngân sách nhà nước, góp phần tác động tích cực trên lĩnh vực kinh
tế đối ngoại, bảo vệ lợi tích, chủ quyền và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, do Pháp lệnh được xây dựng
trước khi ban hành Hiến pháp năm 1992, chủ yếu dựa trên cơ sở kinh nghiệm quản lý nhà nước về hải
quan từ những năm 1985 trở về trước, chưa thể chế hóa kịp thời các quan điển, chính sách về phát
triển kinh tế đội ngoại liên quan đến yêu cầu quản lý nhà nước về hải quan hiện nay 4. Đặc biệt về quy
trình thủ tục hải quan, Pháp lệnh chưa quy định đầy đủ, chặt chẽ quy trình thủ tục, kiểm tra, giám sát
hải quan tại các nơi có hoạt động xuất, nhập khẩu trong nội địa như khu công nghiệp, khu thương mại,
các địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu... để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất,
nhất là sản xuất xuất khẩu và gia công xuất khẩu, chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế có
hiệu quả. Mặt khác những yêu cầu thực hiện nghĩa vụ pháp lí trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam
kí kết hoặc tham gia về đơn giản hóa thủ tục hải quan... đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống
pháp luật hải quan. Trước yêu cầu đó, Quốc hội khóa X họp kì thứ 9 đã thông qua luật hải quan ngày
29/6/2001 và luật này có hiệu lực từ ngày 1/1/2002.
Sau 4 năm thực hiện, Luật hải quan đã bộc lộ một số hạn chế và một số quy định không còn
phù hợp với thực tế. Ngày 19/5/2005 Quốc hội khóa XI kì họp thứ 7 đã thông qua luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật hải quan. Luật này đã sửa đổi, bổ sung 24 điều của Luật hải quan hiện
hành. Luật đã được Quốc hội thông qua với 74,49% số phiếu thuận và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006.
Luật hải quan (sửa đổi, bổ sung) năm 2005 lần đầu tiên quy định về lãnh thổ hải quan. Theo đó, lãnh
thổ hải quan bao gồm những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hôi chủ nghĩa Việt Nam, các

khu vực trong trùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nơi Luật hải quan được áp dụng.
Để thi hành Luật hải quan, Chính phủ ban hành Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 quy
định chi tiết một số điều của Luật hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan.
Bộ tài chính ban hành một số thông tư, quyết định như:
Thông tư số 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn về thủ tục hải quan, kiểm tra,
giám sát hải quan (gọi tắt là thông tư số 112/2005/TT-BTC).
Thông tư số 33/2004/TT-BTC ngày 16/4/2003 hướng dẫn thủ tục hải quan đối với bưu
phẩm, bưu kiện, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ bưu chính và vật phẩm, hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh. Ngày 9/7/2010, Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư số 99/2010/TT-BTC quy định thủ tục hải quan đối với bưu phẩm, bưu kiện, hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu gửi qua dịch vụ bưu chính, thay thế cho thông tư số 33/2004/TT-BTC.
Quyết định số 50/2005/QĐ-BTC ngày 19/7/2005 về việc ban hành quy định quy trình thực
hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Thông tư số
222/2009/TT-BTC ngày 25/11/2009 hướng dẫn thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử cho các tổ
chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thực hiện thủ tục hải quan điện tử; hướng dẫn cho cơ
quan hải quan, công chức hải quan và các tổ chức tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp các thông
tin liên quan thuộc phạm vi áp dụng của thủ tục hải quan điện tử thực hiện, thay thế Quyết định số
52/2007/QĐ-BTC ngày 20 tháng 06 năm 2007 của Bộ Tài chính.
Thông tư số 15/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành mẫu tờ khai hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu.
Tổng cục hải quan ban hành một số văn bản sau:
Quyết định số 874/2006/QĐ-TCHQ ngày 15/5/2006 quy định về quy trình thủ tục hải quan
đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, nhập khẩu thương mại. Quyết định này thay thế Quyết định số
195/2005/QĐ-TCHQ ngày 19/12/2005 của tổng cục trưởng Tổng cục hải quan.

Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan ở Việt
Nam hiện nay” của Bùi Văn Thịnh, năm 2003
4



Quyết định số 927/QĐ-TCHQ ngày 25/5/2006 về quy trình thủ tục hải quan đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu chuyển cửa khẩu. Quyết định này thay thế Quyết định số 53/2003/QĐ-BTC
ngày 16/4/2002 của Bộ tài chính.
Quyết định số 928/QĐ-TCHQ ngày 25/5/2006 về quy trình thủ tục hải quan đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ. Quyết định này thay thế các bước thủ tục hải quan tại Quyết định
153/2002/QĐ-BTC. Nội dung cơ bản của quy trình theo Quyết định số 928/QĐ-TCHQ vẫn như các
bước thủ tục hải quan theo Quyết định số 153 nhưng quy trình này đã điều chỉnh một số điểm và bố
cục lại các bước cho khoa học hơn.
Quyết định số 2394/QĐ-TCHQ ngày 03/11/2011 của Tổng cục Hải quan về việc thành lập
Tổ xây dựng và lập dự án ứng dụng công nghệ thông tin đối với dự án xây dựng phân hệ tiếp nhận
bản khai hàng hóa, các chứng từ có liên quan và thông quan điện tử đối với tàu biển nhập cảnh, xuất
cảnh phục vụ mở rộng thủ tục Hải quan điện tử .
b. Hệ thống pháp luật quốc tế
Thủ tục hải quan đối với hàng hóa kinh doanh xuất nhập khẩu, ngoài việc được quy định ở pháp luật
trong nước còn được quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể như sau:

Nội dung

Điều ước
quốc tế đa
phương

Tên Điều ước
Công ước về thành lập
Hội đồng hợp tác hải
quan

1/7/1993

Công ước Kyoto


4/10/1997

Công ước quốc tế về hệ
thống điều hòa trong mô
tả và mã hóa hàng hóa
Hiệp định định giá hải
quan
Hiệp định hải quan
ASEAN

Điều ước
quốc tế
song
phương

Ngày gia
nhập

Hiệp định về thương mại
giữa Việt Nam và Trung
quốc
Hiệp định về mua bán
hàng hoá ở vùng biên
giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc

6/3/1998
29/12/2003


1/3/1997

7/11/1991
19/10/1998.

Nội dung
Bảo đảm một mức độ hài hòa và đồng
bộ cao nhất về hệ thống xem xét các vấn
đề mang tính cố hữu trong sự phát triển
và cải thiện các thủ tục hải quan và cùng
với đó là nền pháp lí hải quan
Đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải
quan nhằm từng bước giảm nhẹ các thủ
tục hải quan, tạo ra sự thống nhất tương
đối về thủ tục hải quan của các nước, từ
đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển thương mại
Hệ thống HS áp dụng cho công tác hải
quan, thương mại, thuế...vv
Xác định trị giá hải quan
Đơn giản và hài hòa hóa trị giá hải quan,
danh mục biểu thuế và thủ tục hải quan;
Đảm bảo áp dụng nhất quán, rõ ràng và
công bằng; Đảm bảo quản lí có hiệu quả
và thông quan nhanh chóng; ...vv
Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
mậu dịch và thương mại chung, thúc đẩy
cư dân 2 nước mua bán, trao đổi hàng
hoá, cho phép hàng hoá được quá cảnh
lãnh thổ trừ những hàng hoá cấm xuất

khẩu, cấm nhập khẩu theo quy định của
pháp luật mỗi quốc gia


Tạo thuận lợi về trình tự, thủ tục qua lại
biên giới, chống buôn lậu và đấu tranh
chống gian lận thương mại, chống buôn
26/11/1993 lậu và mua bán trái phép chất ma tuý qua
biên giới, tạo điều kiện cho thương mại,
vận chuyển hàng hoá qua biên giới hai
nước.
Ngoài ra còn có một số điều ước quốc tế song phương khác như: Hiệp định giữa
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc về hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong
lĩnh vực hải quan,...vv
Có thể nói, đây là thời kì phát triển đỉnh cao nhất của pháp luật quy định về thủ tục
hải quan của Việt Nam. Với rất nhiều các văn bản pháp luật được ban hành tiêu biểu là Luật
Hải quan năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2005; các thông tư, quyết định của Bộ Tài chính; các
quyết định của Tổng cục Hải quan và đặc biệt giai đoạn này Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước
quốc tế đa phương và song phương quan trọng, mở ra một thời kì phát triển mạnh mẽ của
ngành Hải quan nước nhà. Từ khi tiến hành “hội nhập hải quan quốc tế” hệ thống pháp luật
Hải quan Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực, với những điều chỉnh cụ thể, thiết thực
nhằm thực hiện một cách đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước ta đã tham gia.
4. Nhận xét về sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về thủ
tục hải quan và việc tuân thủ pháp luật Hải quan trong thực tế:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế chung của cả nước, ngành Hải quan đã chủ động và tích cực
phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan xác định rõ vai trò trách nhiệm của ngành đối với sư phát triển
chung của nền kinh tế đất nước. Là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
Hải quan, trực tiếp làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn
lậu và gian lận thương mại, thu thuế xuất nhập khẩu. Trên định hướng đó, hoạt động của ngành Hải
quan đã và đang có nhiều chuyển biến tích cực đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Để đảm bảo triển khai đồng bộ Luật hải quan, Tổng cục Hải quan đã chủ động phối hợp với
các Bộ, ngành hữu quan xây dựng, chỉnh lý các dự thảo Nghị định hướng dẫn để trình Chính phủ ký
ban hành như Nghị định về tổ chức và hoạt động của hải quan; Nghị định quy định thi hành một số
điều của Luật Hải quan, các chế độ kiểm tra, giám sát Hải quan; Nghị định về địa bàn hoạt động Hải
quan và quan hệ Hải quan với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Nghị định về việc phân loại hàng
hóa XNK. Cho đến nay, Chính phủ đã ban hành hầu hết các Nghị định trên và có tác động to lớn đối
với sự phát triển của ngành Hải quan nói riêng và thúc đẩy nền kinh tế đất nước nói chung5.
Như vậy, quá trình lịch sử và phát triển của pháp luật Việt Nam quy định về thủ tục hải quan đã
trải quá một thời gian khá dài hơn 60 năm, nhìn một cách tổng thể chung về sự đổi mới các quy định
của pháp luật và ý thức thực hiện pháp luật liên quan đến thủ tục hải quan còn rất nhiều vấn đề phải
nghiên cứu, cụ thể:
a. Các mặt tích cực:
Cải cách thể chế và cải cách thủ tục hành chính:
○Về xây dựng văn bản thi hành Luật Hải quan: Luật Hải quan và những văn bản hướng dẫn
thi hành Luật Hải quan quy định rõ ràng về quy định các chế độ kiểm tra, giám sát Hải quan, phạm vi
tổ chức và hoạt động của Hải quan; về địa bàn hoạt động hải quan với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thi hành Luật Hải quan. Công tác quản lý nhà nước về Hải quan đã có hành lang pháp lý rõ
ràng hơn, minh bạch, mô hình tổ chức bộ máy, bố trí nhân sự tại các cục Hải quan tỉnh, thành phố cơ
bản đáp ứng yêu cầu của quy trình thủ tục hải quan quản lý các loại hình xuất nhập khẩu theo nội
dung quy định của Luật hải quan. Luật Hải quan quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa
Thoả thuận về hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau giữa
TCHQ Việt Nam- Trung
quốc; thoả thuận giữa
Việt Nam-Trung quốc về
chống buôn lậu.

Luận án Tiến sĩ luật học: “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan trong điều kiện hiện nay ở nước ta”
của Vũ Ngọc Anh, năm 1999
5



phương, mối quan hệ với các cấp, các ngành và Luật Hải quan cũng quy định rõ quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm của người khai hải quan trong quá trình làm thủ tục hải quan.
○Công tác cải cách thủ tục hành chính: Cải cách về nghiệp vụ, tổ chức lại quy trình thủ tục Hải
quan đối với hàng hóa XNK thành các dây chuyền thủ tục hoàn chỉnh, vận động một chiều, không chia
cắt, chỉ huy thống nhất, bỏ được các khâu trung gian, giảm cửa từ chỗ một lô hàng phải qua tay 17 công
chức Hải quan giảm xuống tối đa 7-8 công chức đối với lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra thực tế, giải tỏa
được các nút ách tắc như việc đối chiếu nợ thuế và kiểm tra tính thuế, trả hồ sơ. Các thủ tục hải quan đã
đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phù hợp mục tiêu cải cách hành chính, so với trước đây đã rút ngắn được
thời gian tiến hành thủ tục, giảm bớt các giấy tờ phải nộp, hàng hóa được thông quan nhanh chóng, tạo
niềm tin cho các nhà đầu tư tham gia hoạt động sản xuất, nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam.
Đồng thời, đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Hải quan, giải tỏa được sự tắc
nghẽn tại khâu đối chiếu nợ thuế, và xây dựng được hệ thống cung cấp thông tin về quá trình chấp
hành pháp luật của doanh nghiệp, để phục vụ việc quyết định hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa của
Chi cục trưởng, xây dựng trung tâm dữ liệu và tăng cường trang thiết bị cơ sở vật chất, máy móc cho
trung tâm quản lý dữ liệu tại Tổng cục Hải quan, với 8 trung tâm dữ liệu tại một số cục Hải quan trọng
điểm như: Hà Nội, Hải Phòng, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Ninh, ... Một số văn bản pháp luật
liên quan đến thực hiện thủ tục hải quan điện tử cũng đã được ban hành hướng dẫn chi tiết như: Quyết
định số 50/2005/QĐ-BTC ngày 19/7/2005 của Bộ tài chính về việc ban hành Quy định quy trình thực
hiện thí điểm thủ tục hải quan điện từ, Thông tư số 222/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn
thí điểm thủ tục hải quan điện tử ngày 25/11/2009.
Tham gia vào các Công ước quốc tế và tổ chức quốc tế, khu vực về hải quan: Là thành viên
của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), Hải quan Việt Nam đã năm bắt thông tin, trao đổi các vấn đề
nghiệp vụ, khai thác kinh nghiệm của Hải quan các nước và quốc tế để chuyển hóa vào quy trình
nghiệp vụ theo hướng dẫn đơn giản hóa, hài hòa hóa và phù hợp với các quy trình thủ tục Hải quan
thế giới và khu vực. Việc Việt Nam tham gia Công ước Kyoto, Công ước HS, Hiệp định trị giá
GATT/WTO đã góp phần tạo nên sự hoàn thiện cho hệ thống pháp luật quy định về thủ tục hải quan,
tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, tạo dựng lòng tin cho các doanh nghiệp và các cơ quan
trong nước cũng như nước ngoài.

Thực hiện dân chủ hóa công khai hóa thủ tục hải quan:
Thứ nhất, tổ chức hội nghị chủ hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư, gia công. Qua các hội
nghị này, ngành Hải quan cũng nhận được những ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực
hiện những cải cách, và ngày càng tranh thủ được lòng tin của các doanh nghiệp đối với Hải quan.
Thứ hai, thực hiện công khai hóa thủ tục hải quan bằng những biện pháp rất cụ thể sinh động,
nhằm thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dâm kiểm tra”. Nhờ đó, đã góp phần làm cho việc
tiến hành thủ tục Hải quan trong thời gian qua được nhanh chóng, thuận tiện và đúng quy định hạn
chế được nhiều sau sót của cả phía doanh nghiệp và phía Hải quan.
Mặt khác, pháp luật hải quan ngày càng thoàn thiện và quá trình thực hiện thủ tục hải quan
cũng được quán triệt theo phương châm “tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp”, “đơn giản hóa công
khai hóa và từng bước hiện đại hóa” và phải giảm sự phiền hà về giấy tờ, đơn giản về các khâu trong
thủ tục, chống tiêu cực gây phiền hà, ách tắc, giảm bớt các chi phí không cần thiết, nhưng phải đảm
bảo đúng pháp luật, phòng chống, ngăn ngừa, hạn chế được buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế
trong các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh phương tiện vận tải.
Đổi mới trong tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ
○Về tổ chức bộ máy: Sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo quy định của Luật hải quan đối với Cục
Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố; các phòng chức năng giúp việc Cục trưởng; các Chi cục hải quan
qua cửa khấu, Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu, Đội kiểm soát Hải quan. Đồng thời đã sắp xếp lại tổ


chức bộ máy bên trong theo quy trình nghiệp vụ thủ tục Hải quan mới và theo yêu cầu thực hiện Luật
Hải quan đối với các Chi cục Hải quan cửa khẩu, Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu,...
○Về xây dựng mới và điều chỉnh, bổ sung một số chức năng, nhiệm vụ:
Pháp luật quy định về thủ tục Hải quan đã điều chỉnh một số nhiệm vụ của các tổ chức tại Cục
Hải quan tỉnh, thành phố, các phòng tham mưu giúp việc Cục trưởng; chuyển nhiệm vụ làm thủ tục Hải
quan của các phòng nghiệp vụ cho các Chi cục Hải quan cửa khẩu, Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu.
Đồng thời xây dựng chức năng, nhiệm vụ mới cho một số cục, Vụ, đơn vị thuộc cơ quan Tổng
cục, các phòng thuộc các Cục, Vụ, đơn vị thuộc cơ quan Tổng cục như viện nghiên cứu Hải quan,
Cục công nghệ thông tin thống kê Hải quan, thanh tra...,
Việc rà soát và sắp xếp lại cơ cấu tổ chức theo hướng đơn giản hóa, xây dựng ngành Hải quan

thành lực lượng chính quy chuyên nghiệp, hoạt động minh bạch liêm chính và hiệu quả, đồng thời
điều chỉnh bộ máy của các cơ quan Hải quan để xây dựng mô hình tổ chức, bố trí lực lượng theo dây
chuyền nghiệp vụ tinh gọn, hiệu quả.
Xây dựng qui hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ công chức theo hướng chuyên sâu, từng bước tiêu
chuẩn hóa cán bộ. Trong quá trình sắp xếp lại tổ chức, đối với cán bộ không đủ điều kiện hoặc không
còn nhu cầu đảm đương cương vị lãnh đạo, quản lý thì giải quyết theo Nghị quyết 16/2000/NQ-CP
ngày 18/10/2000 của Chính phủ về việc tinh giảm biên chế trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp.
Sự hoàn thiện pháp luật quy định về thủ tục hải quan và việc tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa còn có những tác động to lớn hạn chế được những vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan về thủ tục hải quan6. Cụ thể:
Năm
2002
2003
2004
2005

Tờ khai làm thủ tục hải quan
cho xuất nhập khẩu
1.125.819
1.235.212
1.455.382
1.942.371

Biên bản xử lý vi phạm
5.020
4.627
4.352
3.979
[7]


b. Một số hạn chế:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật quy định về hải quan quá nhiều, dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ,
chồng chéo từ trên xuống dưới dẫn đến mâu thuẫn giữa các văn bản với nhau gây khó khăn lớn cho
hoạt động Hải quan.
Ví dụ: Quy định về quyền khám người, khám phương tiện vận tải, nơi cất giấu hàng hóa, tạm
giữ người, phương tiện vận tải, hàng hóa được quy định không thống nhất giữa Luật Hải quan năm
2001 và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002:
Khoản 1 Điều 66 Luật Hải quan quy định: “Chi cục trưởng hải quan cửa khẩu, Chi cục
trưởng hải quan địa điểm làm hải quan ngoài cửa khẩu, Đội trưởng đội kiểm soát hải quan được
quyết định khám người, khám phương tiện vận tải, nơi cất giấu hàng hóa, tạm giữ người, phương tiện
vận tải, hàng hóa theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính”8.
Trong khi đó, Điều 45, 46, 47, 48, 49 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy
định thẩm quyền thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành chính trên đây gồm: “Chi cục trưởng hải
quan, Đội trưởng đội kiểm soát thuộc hải quan, Đội trưởng đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội
trưởng hải đội kiểm soát trên biển thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan”9. Đối với
trường hợp tạm giữ người theo thủ tục hành chính nếu cấp trưởng vắng mặt thì cấp phó được ủy
quyền có quyền ra quyết định tạm giữ người; thủ trưởng nhân viên hải quan có thẩm quyền quyết
Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính
ở nước ta hiện nay” của Đặng Thanh Sơn năm 2003
7
Tổng cục Hải quan (2001-2005), Báo cáo tổng kết Hải quan năm 2001-2005
8
Luật Hải quan năm 2001 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
9
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội
6


định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm nếu có căn cứ cho rằng không tạm giữ ngay thì tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán tiêu hủy.

Hoặc như quy định về xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về khai hải quan khi xuất
khẩu, nhập khẩu hành ký tại khoản 1, 2 Điều 11 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan không phù hợp với khoản 2 Điều 44 Luật Hải quan.
Thứ hai, một số Nghị định của Chính phủ ban hành chậm gây lúng túng cho việc tổ chức triển
khai thi hành Luật Hải quan. Công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị quyết của
Quốc hội về sửa đổi, bổ sung, một số điều của Hiến pháp, Tổng cục Hải quan không được ban hành
văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực Hải quan theo quy
định của Luật Hải quan. Đây là vấn đề khó khăn lớn cho Ngành trong việc tổ chức triển khai thực
hiện các Nghị định của chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Hải quan.
Ví dụ: Hệ thống văn bản quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh năm 2002 có hiệu lực từ
1/10/2002 nhưng các văn bản quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh được ban hành chậm (ngày
14/11/2003 Chính phủ mới ban hành Nghị định số 34/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, ngày 17/6/2004 Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định
về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan mới được ban hành).
Thứ ba, thực hiện Luật Hải quan đòi hỏi phải kiên quyết xóa bỏ những quy định cũ không còn
phù hợp, song một bộ phận công chức Hải quan trình độ chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và nội dung
cải cách của ngành Hải quan trong tổ chức thực hiện Luật Hải quan. Còn nhiều biểu hiện bảo thủ, trì
trệ, chưa dứt khoát trong tư tưởng với cách làm cũ. Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức Hải
quan chưa tích cực học tập, nghiên cứu nội dung Luật Hải quan và những quyết định ban hành các
quy trình quản lý thủ tục Hải quan, dẫn đến tình trạng cửa quyền, sách nhiễu.
Thứ tư, nhiều quy định trong Luật Hải quan còn chưa được bảo vệ bằng các chế tài hành chính
(chưa được quy định tại Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan) như: điểm a, khoản 1 Điều 16 quy định “nộp, xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải
quan”; khoản 2 Điều 20 quy định “phải khai đầy đủ, chính xác, rõ ràng theo nội dung trên tờ khai”,
khoản 1 Điều 34 quy định “hàng hóa là quà biếu, quà tặng phải được làm thủ tục hải quan” và còn nhiều
quy định khác nữa.
Thứ năm, công tác kiểm tra sau thông quan còn nhiều hạn chế. Một mặt do cơ sở pháp lý, nhất
là văn bản hướng dẫn cụ thể chưa đầy đủ, mặt khác cơ sở vật chất, hệ thống thông tin và ứng dụng
công nghệ thông tin phục vụ còn khoảng cách xa so với yêu cầu.
Thứ sáu, việc phối hợp giữa các cơ quan Hải quan với bộ, ngành liên quan, cấp ủy, chính

quyền địa phương chưa được thống nhất, dẫn đến tình trạng bị động, lúng túng trong việc tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiểm soát Hải quan10.
c. Các phương hướng khắc phục:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về thủ tục hải quan theo hướng đồng bộ, tránh tình
trạng quy định chung chung, chưa rõ ràng, còn chồng chéo, đồng thời phải phù hợp với chính sách
của Đảng, Nhà nước và Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Giải quyết một số vướng mắc của các cục Hải quan tỉnh, thành phố:
Thứ nhất, giải quyết các vấn đề liên quan đến giám sát quản lý trong các vấn đề như: quản lý
biên bản giao hàng hóa XNK, chuyển khẩu; quản lý Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất
nhập cảnh tại cảng chuyên dùng; thủ tục hàng hóa chuyển cảng; giám sát hàng hóa xuất khẩu chuyển
cửa khẩu; xuất nhập vỏ container; bổ sung tên tàu xuất cảnh vào tờ khai hải quan hàng xuất khẩu
HQ/2002; quản lý hàng hóa chuyển cửa khẩu; địa điểm làm thủ tục hải quan; niêm phong hải quan,
...vv
Thứ hai, giải quyết một số tồn tại liên quan đến kiểm tra sau thông quan: Việc triển khai thực
hiện kiểm tra sau thông quan ở một số đơn vị chưa được lãnh đạo cục, Chi cục quan tâm đúng mức;
việc bố trí công chức thực hiện kiểm tra sau thông quan chưa đúng chuyên ngành đào tạo, năng lực; ...
Luận văn thạc sĩ luật học: “Đối mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát hải quan ở Việt Nam
hiện nay” của Hoàng Anh Công, năm 2001
10


Thứ ba, giải quyết các vấn đề liên quan đến công nghệ thông tin như quy chế thu nhập, cập nhật
thông tin cần xây dựng và hoàn thiện quy chế sử dụng chương trình đa chức năng ở cửa khẩu; Việc cấp
giấy chứng nhận mã số XNK theo quy định tại Thông tư 07/TT-TCHQ của Tổng cục Hải quan sẽ làm
cho doanh nghiệp phải có một thời gian chờ đợi; tăng cường đầu tư trang thiết bị, ứng dụng,...
Đẩy mạnh hoạt động của đại lý kinh doanh hoạt động Hải quan và đồng thời củng cố quản
lý đối với các đại lý làm thủ tục hải quan.
Bổ sung, hoàn thiện những biện pháp nghiệp vụ mới trong công tác Hải quan.
Thứ nhất, tạm dừng thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ.

Thứ hai, khai hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục hải quan.
Thứ ba, kiểm tra sau thông quan nhằm cải tiến thủ tục Hải quan, rút ngắn thời gian, thông qua
hàng hóa nhanh chóng, nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ hàng hóa xuất nhập khẩu, chống gian lận
thương mại, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật Hải quan.
Thứ tư, nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức
Hải quan. Bởi hải quan là “trung tâm xung đột” về lợi ích hằng ngày, hàng giờ, số đông cán bộ hải
quan phải tiếp xúc với tiền, hàng, đối mặt với nhiều thủ đoạn cám dỗ, mua chuộc vật chất, phải đấu trí,
đấu mưu đấu lực với buôn lậu, gian lận thương mại, hơn hết là phải đấu tranh với chính mình trước
những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường để không bị sa ngã.11
Cải thiện mối quan hệ phối hợp của cơ quan Hải quan với cấp ủy chính quyền địa phương
và bộ, ngành liên quan.
Tiếp tục tăng cường nghiên cứu, thực hiện các cam kết, công ước và tham gia vào các tổ
chức quốc tế về lĩnh vực hải quan
5. Hướng phát triển đến năm 2020:
Ngày 25/3/2011 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 448/QĐ-TTg về việc phê
duyệt chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020. Theo đó, quyết định đã đưa ra phương hướng cụ
thể nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật quy định về Hải quan, đây cũng chính là nhiệm vụ to lớn
đặt ra với ngành Hải quan. Cụ thể như sau:
Xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải
quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, xử lý dữ
liệu tập trung và áp dụng rộng rãi phương thức quản lý rủi ro, đạt trình độ tương đương với các nước
tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. Xây dựng lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp,
chuyên sâu có trang thiết bị, kỹ thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần tạo thuận lợi
cho các hoạt động thương mại hợp pháp, phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo an
ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước.
Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hải quan theo hướng hiện đại, đồng bộ, tuân thủ chủ
trương về cải cách thủ tục hành chính và các chuẩn mực, cam kết quốc tế; xây dựng hệ thống pháp luật
hải quan hiện đại bao gồm đầy đủ các quy định về: thủ tục hải quan, chế độ quản lý hải quan và các cơ
chế tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, các quy định về quản lý thuế, kiểm soát biên giới, chế tài,
xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, quy định quyền hạn của cơ quan hải quan tương xứng

với trách nhiệm thực thi pháp luật hải quan, pháp luật thuế và pháp luật khác có liên quan.
Từ nay đến năm 2012: tổng kết, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về thủ
tục, kiểm tra, giám sát hải quan và thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thời gian qua trên cơ
sở đó nghiên cứu, đề xuất việc ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15
tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám sát hải quan và
sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để thực hiện Nghị quyết
số 68/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính.

C.Kết thúc vấn đề:
Nguyễn Đức Kiên (2002) “Ngành hải quan gắn với công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh với
chống quan liêu, tham nhũng”. Tr. 21-29
11


Có thể thấy, vai trò của pháp luật định về thủ tục hải quan vừa mang yếu tố cần thiết khách quan,
vừa mang yếu tố cản trở ở mức độ nhất định giao lưu thương mại quốc tế. Đặc biệt trong thời điểm
đất nước ta đang mở rộng việc giao lưu thương mại với tất cả các nước trên Thế giới, các thủ tục hải
quan rất cần được phát triển và hoàn thiện để làm cho quản lý hải quan đảm bảo được hai yêu cầu
kiểm soát và tạo thuận lợi cho thương mại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật hải quan năm 2001 sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 42/2005/QH11
2. Nghị định số 16/1999/NĐ-CP quy định về thủ tục hải quan, giám sát hải quan và lệ phí hải
quan
3. Luật hải quan (sửa đổi, bổ sung) năm 2005
4. Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005
5. Thông tư số 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn về thủ tục hải quan, kiểm tra,
giám sát hải quan
6. Thông tư số 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn về kiểm tra sau thông quan đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

7. Quyết định số 874/2006/QĐ-TCHQ ngày 15/5/2006 quy định về quy trình thủ tục hải quan đối
với hàng hóa xuất nhập khẩu, nhập khẩu thương mại
8. Quyết định số 928/QĐ-TCHQ ngày 25/5/2006 về quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ.
9. Cải cách hành chính thủ tục Hải quan, Nxb. Tài chính, Hà Nội năm 1999
10. Tài liệu dự án VIE/97/059 do UNDP tài trợ “Tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam”.
11. Kế hoạch phát triển Hải quan Việt Nam 2001-2005.
12. Nguyến Thùy Linh – Khóa luận tốt nghiệp: “Cải cách thủ tục hải quan trong điều kiện hội
nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay”
13. Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
hải quan ở Việt Nam hiện nay” của Trần Văn Dũng năm 2001
14. Chính Phủ (1945), Ngày 10 tháng 9 năm 1945, (tên gọi đầu tiên của Hai quan Việt Nam ngày
nay) được thành lập bởi Sắc lệnh số 27/SL ngày 10/9 về việc thành lập Sở Thuế quan và Thuế
gián thu, Hà Nội
15. Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải
quan ở Việt Nam hiện nay” của Bùi Văn Thịnh, năm 2003
16. Luận văn thạc sĩ luật học: “Đối mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát hải quan ở
Việt Nam hiện nay” của Hoàng Anh Công, năm 2001
17. Nguyễn Đức Kiên (2002) “Ngành hải quan gắn với công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh với chống quan liêu, tham nhũng”. Tr. 21-29
18. Luận văn thạc sĩ luật học: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực xử lý vi
phạm hành chính ở nước ta hiện nay” của Đặng Thanh Sơn năm 2003
19. Tổng cục Hải quan (2001-2005), Báo cáo tổng kết Hải quan năm 2001-2005
20. Luật Hải quan năm 2001 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội



×