Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đánh giá qui định của bộ luật dân sự năm 2005 của bộ luật dân sự năm 2005 về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.39 KB, 24 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I.

Trách nhiệm dân sự dân sự do vi phạm hợp
đồng………………………….1

1. Khái niệm trách nhiệm dân sự………………………………………………….1
2. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng…………………………..2
3. Quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng………….4
4. Các căn cứ làm phát sinh TNDS do vi phạm hợp đồng………………………..10
5. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng…………...11
II . Những bất cập trong quy định của pháp luật và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng………………13
1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng…………13
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luạt về trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng………………………………………………………………….19

C. KẾT LUẬN

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các giao dịch được diễn ra từng
giờ, không ai có thể phủ nhận vai trò và tầm quan trọng của hợp đồng trong các giao
dịch dân sự. Hợp đồng là công cụ hữu hiệu để các bên tiến hành và thực hiện các thỏa
thuận, giao kết “đôi bên cùng có lợi”. Tuy nhiên không phải hợp đồng nào cũng có thể


đem lại những kết quả tốt đẹp cho các bên giao kết. Đó là khi việc thực hiện hợp đồng
không đúng với những gì đã giao kết, lúc đó, bên vi phạm có thể sẽ phải chịu trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng xuất hiện khá nhiều trong thực tế tuy nhiên
bên cạnh những mặt tích cực thì quy định của pháp luật vẫn còn một số bất cập nhất
định. Để làm rõ vấn đề này sau đây em xin lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá qui
định của Bộ luật Dân sự năm 2005 của Bộ luật Dân sự năm 2005 về trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng”.
I.

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
Có thể hiểu việc các chủ thể khi tham gia vào pháp luật dân sự có nghĩa vụ tuân
thủ các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng, nếu vi phạm
họ sẽ gánh chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Vì vậy có thể nói trách
nhiệm dân sự (TNDS) là một loại trách nhiệm pháp lí được áp dụng đối với các chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật dân sự, nó đem lại những hậu quả bất lợi về mặt tài
sản đối với chủ thể bị áp dụng để buộc các chủ thể này khắc phục các thiệt hại do hành
vi vi phạm pháp luật của mình gây ra.
 Đặc điểm của TNDS:
Thứ nhất, TNDS mang đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm pháp lí nói chung. Nó
là hình phạt của hành vi vi phạm pháp luật, là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước áo
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật và được cụ thể trong các văn
bản pháp luật, cụ thể là trong BLDS năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
TNDS được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước. Đó là chế tài

được áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm.
Thứ hai: Căn cứ để áp dụng TNDS là phải có hành vi vi phạm. Đó có thể là hành
vi vi phạm các quy định trong các văn bản pháp luật hoặc cũng có thể là hành vi vi
phạm các thỏa thuận trong HĐ đã được kí kết và có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba: Khi TNDS được áp dụng bao giờ nó cũng mang lại những hậu quả bất
lợi đối với bên vi phạm, đó thường là những hậu quả bất lợi về mặt tài sản. Bởi khi có
hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại thì những thiệt hại đó chủ yếu là tài sản.
Việc áp dụng TNDS nhắm bù đắp những tổn thất mà người bị vi phạm phải gánh chịu
do hành vi vi phạm pháp luật của người có hành vi vi phạm gây ra.
2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
Khi hai bên kí kết hợp đồng (HĐ) dân sự và HĐ dân sự có hiệu lực, các bên đã
thiết lập cho mình các quyền và nghĩa vụ dân sự. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng
và đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền theo những gì đã cam kết trong HĐ.
Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng, không đầy đủ thì bị coi là vi phạm nghĩa
vụ theo HĐ và phải gánh chịu TNDS. Khoản 1 Điều 302 BLDS 2005 quy định: “Bên
có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải
chịu TNDS đối với bên có quyền”. Nghĩa vụ dân sự có thể phát sinh từ: HĐ dân sự,
hành vi pháp lí đơn phương, hành vi chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật; hành vi thực hiện không
có ủy quyền và những căn cứ khác do pháp luật quy định (nghĩa vụ phát sinh từ quy
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quy định của Tòa án…) TNDS do vi phạm
HĐ thực chất là TNDS do vi phạm nghĩa vụ theo HĐ. Vì vậy, khi có hành vi vi phạm

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
HĐ thì các quy định về TNDS do vi phạm nghĩa vụ dân sự cũng được áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ đó.
TNDS do vi phạm HĐ là một loại trách nhiệm pháp lí, TNDS nói chung, vì vậy,

nó mang đầy đủ những đặc điểm của trách nhiệm pháp lí củaTNDS nói chung như đã
trình bày ở phần trên.
 Đặc điểm của TNDS do vi phạm hợp đồng
• Thứ nhất, TNDS do vi phạm HĐ chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ
theo HĐ. Nghĩa vụ bao giờ cũng là cái có trước và TNDS là cái có sau. Chỉ khi có sự
vi phạm nghĩ vụ theo HĐ mới đặt ra vấn đề áp dụng TNDS do vi phạm HĐ. Nghĩa vụ
dân sự theo HĐ rất đa dạng tùy theo từng loại HĐ kí kết, đó có thể là nghĩa vụ chuyển
giao vật, chuyển giao tiền trong HĐ mua bán tài sản; nghĩa vụ chuyển giao quyền sử
dụng tài sản và tiền thuê trong HĐ thuê tài sản…Bất kể đó là nghĩa vụ gì thì chỉ cần
bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
của mình trước bên có quyền đều bị coi là vi phạm HĐ và phải gánh chịu TNDS về
những hậu quả mà hành vi của mình gây ra.
• Thứ hai, TNDS do vi phạm HĐ chi có thể phát sinh giữa các chủ thể nhất định,
đó là giữa các bên tham gia quan hệ HĐ (trừ trường hợp HĐ được kí kết vì lợi ích của
bên thứ ba). Vì khi giao kết HĐ có hiệu lực các bên chủ thể mang quyền và nghĩa vụ
đối với nhau, khi bên này không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình thì sẽ ảnh hưởng
đến quyền của bên kia và ngược lại.
• Thứ ba, Mức độ phải gánh chịu hậu quả pháp lí bất lợi của bên vi phạm trước
bên bị vi phạm chỉ phụ thuộc vào các quy định của pháp luật, vào thiệt hại thực tế xảy
ra và còn phụ thuộc vào thỏa thuận trong HĐ.
Từ việc phân tích những đặc điểm của TNDS noí chung và TNDS do vi phạm HĐ
nói riêng có thể rút ra được định nghĩa về TNDS do vi phạm HĐ như sau: TNDS do vi
phạm hợp đồng là trách nhiệm pháp lí được áp dung đối với bên có hành vi vi phạm
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
theo hợp đồng đem lại những hậu quả bất cho bên bị vi phạm nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.
3. Quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.

Khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, hậu quả là họ phải
gánh chịu TNDS trước người bị vi phạm. Tùy thuộc vào hành vi vi phạm mà TNDS áp
dụng có thể khác nhau. TNDS đầu tiên được xem xét và áp dụng đó là trách nhiệm
thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng; nếu hành vi vi phạm dẫn đến gây thiệt
hại cho bên vi phạm thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TNBTTH) được áp dụng;
nếu trong hợp đồng các bên đã thỏa thuận phạt vi phạm thì bên có hành vi vi phạm có
trách nhiệm trả cho bên vi phạm số tiền đã thỏa thuận trong hợp đống. Tuy cùng là
TNDS do vi phạm hợp đồng nhưng điều kiện áp dụng, cách thức thực hiện chúng rất
khác nhau.
a.

Trách nhiệm buộc phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng.
Khái niệm: khi người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không

đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng thì bên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa
vụ.
Có thể thấy khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng không có nghĩa
là hợp đồng đã chấm dứt. Bởi nó còn phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan
hệ hợp đồng hay quy định của pháp luật. Hủy bỏ hay đơn phương chấm dứt hợp đồng
đôi khi không phải là biện pháp tối ưu. Bởi việc thực hiện hợp đồng vẫn là mối quan
tâm hàng đầu của các bên khi tham gia kí kết hợp đồng, đảm bảo cho các bên đạt được
lợi ích mà họ mong muốn từ việc thực hiện hợp đồng. Trong nhiều trường hợp tiền
phạt vi phạm (PVP) hay tiền bồi thường thiệt hại (BTTH) không thể thay thế được các
lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng. Do đó, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà bên có
quyền nên cân nhắc ký càng để lựa chọn biện pháp có lợi nhất cho mình. Chỉ khi
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2

không khắc phục được vi phạm bên có quyền mới áp dụng các biện pháp chế tài khác
như hủy bỏ hợp đồng, PVP hay yêu cầu BTTH nếu có thiệt hại xảy ra.
Nội dung bao gồm:
+ Một là, Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật
Được quy định tại Điều 303 BLDS năm 2005:
“1. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có
quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó, nếu vật không còn
hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật.
2.Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại thì phải
thanh toán giá trị của vật.
3. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ theo quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì ngoài việc thanh
toán giá trị của vật cần phải bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.”
Có thể thấy, khi có sự vi phạm hợp đồng nói chung và vi phạm nghĩa vụ giao vật
nói riêng, TNDS được đặt lên hàng đầu là trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ
hợp đồng. Việc thực hiện nghĩa vụ này giống với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thông
thường nhưng khác ở chỗ nó được thực hiện sau khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng
với tư cách là một chế tài áp dụng đối với bên vi phạm chứ không còn đơn thuần là
việc thực hiện nghĩa vụ một cách tự nguyện. Nó thường đi kèm với Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại (TNBTTH) và được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà
nước.
+ Hai là, Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc
không được thực hiện một công việc
Điều 304 BLDS 2005 đã quy định:

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
“1. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải

thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện hoặc tự mình thực
hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ
thanh toán chi phí hợp lý và BTTH.
2.Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó khi
bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục
tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại.”
Trong điều luật chỉ đề cập tới hành vi không thực hiện công việc phải làm hoặc
thực hiện công việc không được phép làm, mà chưa đề cấp tới hành vi thực hiện không
đúng, không đầy đủ. Cần hiểu rằng bên có nghĩa vụ đã thực hiện công việc phải làm
nhưng việc thực hiện đó không đúng, không đầy đủ như đã thỏa thuận trong hợp đồng
thì cũng bị coi là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và phải gánh chịu trách nhiệm thực hiện
đúng và đầy đủ nghĩa vụ. Công việc phải thực hiện là đối tượng của hợp đồng có thể
được hoàn thành với một kết quả nhất định nhưng cũng có thể hoàn thành mà không
đem lại bất cứ kết quả nào.
Cần lưu ý là việc tiếp tục thực hiện đúng và đầy đủ công việc phải làm chỉ áp
dụng đối với nghĩa vụ không gắn liền với yếu tố nhân thân. Đối với các công việc gắn
liền với nhân thân, thường là các công việc liên quan đến tinh thần, khi bên có nghĩa
vụ không thực hiện nghĩa vụ thì bên có quyền cũng không thể yêu cầu Tòa án cưỡng
chế thi hành được.
+ Ba là, Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Thời hạn thực hiện nghĩa vụ là một điều khoản quan trọng của hợp đồng. Khi các
bên tham gia kí kết hợp đồng, việc thỏa thuận rõ ràng về thời hạn giúp các bên chủ
động trong việc thực hiện và tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ hợp đồng là một thời điểm
xác định hoặc là một khoảng thời gian kể từ khi hợp đồng được ký kết. Bên có nghĩa
vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng vào thời điểm đó. Bên có nghĩa vụ có thể thực hiện
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
nghĩa vụ trước thời hạn nếu được bên có quyền đồng ý hoặc tự ý thực hiện sớm nghĩa

vụ và được bên có quyền chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì được coi là hoàn thành
đúng thời hạn. Nếu sau thời gian thỏa thuận mà bên có nghĩa vụ chưa thực hiện nghĩa
vụ thì bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Điều 305 BLDS 2005 quy định:
“1. Khi nghĩa vụ dân sự chậm thực hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để bên có
nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ, nếu quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn
thành thì theo yêu cầu của bên có quyền bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ và
bồi thường thiệt hại; nếu việc thực hiện nghĩa vụ không cần thiết đối với bên có quyền
thì bên này có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường
thiệt hại”.
+ Bốn là, Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên chủ thể có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ
hợp đống thì chủ thể phía bên kia có nghĩa vụ tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó.
Khi bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ thì phải gánh chịu TNDS, dó đó khi bên
có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ cũng bị coi là vi phạm hợp đồng và
phải chịu TNDS.
Điều 306 BLDS 2005 quy định: “Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự làm phát sinh thiệt hại cho bên có nghĩa vụ thì phải bối thường thiệt
hại cho người đó và phải chịu rủi ro xảy ra kể từ thời điểm chậm tiếp nhận, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Đối với trường hợp không giao vật, không giao đúng vật, không thực hiện một
công việc phải thực hiện thì bên có nghĩa vụ có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng và
đầy đủ nghĩa vụ đó. Nhưng đối với việc chậm thực hiện nghĩa vụ thì không thể khắc
phục bằng cách thực hiện đúng nghĩa vụ theo như hợp đồng được, bởi không thể quay
trở lại thời gian. Do đó, TNDS do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự thường gắn với việc
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
gia hạn và BTTH. Thực hiện nghĩa vụ trong khoảng thời gian được gia hạn chính là

tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Ngoài ra, khác với việc chậm thực hiện nghĩa vụ, bên có quyền có thể hủy bỏ hợp
đồng và yêu cầu BTTH đối với bên chậm thực hiện nghĩa vụ. Nhưng đối với trường
hợp bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ không
được phép miễn thực hiện nghĩa vụ mà vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, nhưng
vẫn được pháp luạt bảo đảm một số quyền lợi. Nếu việc chậm thực hiện nghĩa vụ của
bên có quyền dẫn đến bên có nghĩa vụ bị thiệt hại thì bên có quyền có trách nhiệm
BTTH.
b. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Có thể nói trong các loại TNDS do vi phạm hợp đồng, TNBTTH là loại trách
nhiệm được áp dụng phổ biến nhất. Khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dẫn
đến gây thiệt hại, bên gây thiệt hại phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường trước bên bị
thiệt hại. TNBTTH là loại trách nhiệm được áp dụng cho cả TNDS do vi phạm hợp
đồng và TNDS ngoài hợp đồng. Song, trong BLDS 2005 không có quy định nào định
nghĩa về TNBTTH nói chung và TNBTTH do vi phạm hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên,
Luật Thương mại là ngành luật tách ra từ BLDS, tại khoản 1 Điều 302 Luật thương
mại 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn
thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên vi phạm”. Cách tiếp cận của luật
thương mại 2005 có phần ngắn gọn hơn những đã thể hiện được bản chất của
TNBTTH. Từ đó có thể rút ra khái niệm về TNBTTH trong hợp đồng như sau:
Khái niệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự
phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại nên phải bồi thường
thiệt hại đã gây ra tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Dù trong trường hợp hợp đồng được ký kết cac bên có thỏa thuận về TNBTTH
hay không thi khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dẫn đến gây thiệt hại cho phía
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
bên kia, TNBTTH vẫn được áp dụng. Đây là biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho bên bị thiệt hại.
Đặc điểm của TNBTTH trong hợp đồng:
+ Giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại có quan hệ hợp đồng hợp pháp.
+ Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên hoặc theo
quy định của pháp luật.
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chỉ giới hạn trong phạm vi
những thiệt hại thực tế và những thiệt hại có thể tiên liệu được vào thời điểm ký hợp
đồng.
+ Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng, nhưng không phân biệt hình thức lỗi là cố ý hay vô ý vì mức trách
nhiệm bồi thường không phân hóa theo hình thức lỗi như trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
+ Thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không đương
nhiên làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng:
+ Có thiệt hại xảy ra.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trái pháp luật.
+ Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật do vi phạm hợp đồng với thiệt hại
xảy ra trên thực tế.
+ Phải có lỗi của bên vi phạm
c. Phạt vi phạm hợp đồng
Điều kiện để áp dụng phạt vi phạm hợp đồng:

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
- Phạt vi phạm được các bên thỏa thuận trong hợp đồng
Phạt vi phạm là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm
phải nộp một khoản tiền cho bên vi phạm (Khoản 1 Điều 42 BLDS). Khác với BLDS

năm 1995, BLDS năm 2005 không quy định PVP là một trong các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự nữa mà nó được coi là một điều khoản được các bên thỏa
thuận trong hợp đồng. Điều khoản PVP với ý nghĩa là sự trừng phạt đối với bên có
hành vi vi phạm trong hợp đồng, PVP chỉ được áp dụng trong một trường hợp duy nhất
là các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, pháp luật không quy định về PVP mà chỉ quy
định về BTTH. Do đó, mức phạt vi phạm cũng do các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
Bên vi phạm có thể áp dụng PVP ngay từ khi có hành vi vi phạm hợp đồng, mà
không nhất thiết phải có thiệt hại xảy ra. Đây là điểm khác biệt giữa PVP và TNBTTH.
4. Các căn cứ làm phát sinh TNDS do vi phạm hợp đồng.
- Thứ nhất, có hành vi vi phạm hợp đồng:
Sự hiện diện của HĐ là cơ sở tồn tại của TNDS do vi phạm HĐ, nhưng căn cứ đầu
tiên làm phát sinh TNDS lại là hành vi vi phạm nghĩa vụ theo HĐ. Hành vi vi phạm
HĐ có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động. Việc không thực
hiện một công việc phải làm theo HĐ (không hành động) hay thực hiện một công việc
không được phép làm theo HĐ (hành động) đều bị coi là hành vi vi phạm HĐ.
- Thứ hai, yếu tố lỗi:
Không phải mọi trường hợp cứ có hành vi vi phạm HĐ thì người vi phạm đều phải
gánh chịu TNDS. Họ chỉ phải gánh chịu trách nhiệm dân sự nếu họ có lỗi khi thực hiện
hành vi vi phạm HĐ. Đối với TNDS do vi phạm hợp đồng, bên có hành vivi phạm phải
chịu TNDS do lỗi cố ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có
thỏa thuận.
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
Khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu TNDS khi có lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy, ngoài quy định
của pháp luật, các bên có thể thỏa thuận về yếu tối lỗi trong hợp đồng, theo đó, bên

gây thiệt hại vẫn phải chịu TNBTTH ngay cả khi không có lỗi hoặc bên gây thiệt hại
sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do lỗi vô ý của người
gây thiệt hại. Cho đến nay, pháp luật vẫn chưa quy định trường hợp nào người có hành
vi vi phạm hợp đồng, không có lỗi vẫn phải chịu TNDS.
Như vậy chỉ cần hội tụ đủ 2 điều kiện là có hành vi vi phạm HĐ và có lỗi thì lập
tức TNDS do vi phạm HĐ phát sinh. Đây chính là điểm khác biệt giữa TNDS do vi
phạm HĐ và TNBTTH.
5. Các trường hợp miễn trừ trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
5.1. Miễn trừ trách nhiệm dân sự do sự kiện bất khả kháng
Căn cứ để miễn trừ TNDS do sự kiện bất khả kháng được quy định tại khoản 1
Điều 302 BLDS 2005 theo đó: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện
được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân
sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Sự kiện bất khả kháng phải thỏa mãn các điều kiện:
 Một là, sự kiện bất khả kháng không phải là sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép (khoản 1 điều 161 BLDS 2005).
 Hai là, sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng của bên có nghĩa vụ
phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Trong đó sự kiện bất khả kháng là nguyên
nhân còn hành vi vi phạm là kết quả.

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
 Ba là, khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên có nghĩa vụ đã áp dụng mọi biện
pháp cẫn thiết trong khả năng của mình để khắc phục, hạn chế tối đa thiệt hại có thể
xảy ra, nhưng hậu quả là bên có nghĩa vụ vẫn không thể khắc phục được và đã vi phạm
hợp đồng.
 Bốn là, Các bên tham gia giao kết hợp đồng không có thỏa thuận khác trong hợp

đồng về việc bên vi phạm vẫn phải chịu TNDS do vi phạm hợp đồng kể cả khi có sự
kiện bất khả kháng.
5.2 Miễn trừ trách nhiệm dân sự do lỗi hoàn toàn của bên có quyền.
Khoản 3 Điều 302 quy định: “Bên có nghĩa vụ không phải chịu TNDS nếu chứng
minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”. Đây
là trường hợp miễn trừ TNDS căn cứ vào yếu tố lỗi. Lỗi trong TNDS là lỗi suy đoán.
Do đó, muốn được miễn TNDS thì người có nghĩa vụ phải chứng minh rằng mình có
lỗi đối với hành vi vi phạm và lối đó hoàn toàn thuộc về bên có quyền.
5.3 Miễn trừ trách nhiệm dân sự do thỏa thuận trong hợp đồng.
Pháp luật luôn ghi nhận sự tự do thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng,
trong những điều khoản của BLDS 2005 về TNBTTH của bên vi phạm hợp đồng cũng
thường kèm theo cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Do đó ngoài hai trường
hợp pháp luật quy định rõ ràng các trường hợp được miễn TNDS là do sự kiện bất khả
kháng mà lỗi hoàn toàn của bên có quyền, bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng còn
được miễn trừ nều trong HĐ có điều khoản miễn trừ TNDS.
II . Những bất cập trong quy định của pháp luật và một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
1. Quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
Khi một người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, hậu quả phải gánh
chịu TNDS trước người bị vi phạm. Tùy thuộc vào hành vi vi phạm mà TNDS áp dụng
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
có thể khác nhau. TNDS đầu tiên được xem xét áp dụng đó là trách nhiệm thực hiện
đúng và đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng; nếu hành vi vi phạm dẫn đến gây thiệt hại cho bên
vi phạm thì TNBTTH được áp dụng; nếu trong trường hợp các bên đã thỏa thuận về
PVP thì bên có hành vi vi phạm có trách nhiệm trả cho bên vi phạm số tiền đã thỏa
thuận trong hợp đồng.
Từ đó, không thể phủ nhận vai trò của BLDS 2005 trong việc điều chỉnh các quan

hệ hợp đồng phát sinh. Với những quy định về hợp đồng nói chung và TNDS do vi
phạm HĐ nói riêng tại phần thứ ba của BLDS đã góp phần làm tốt đẹp hơn các giao
dịch dân sự, hạn chế được các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng do hành vi vi phạm
hợp đồng của các bên có nghĩa vụ và quan trọng hơn nữa là nó bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Mặc dù vậy,
trong quá trình vận dụng các quy định của BLDS 2005 về vi trách nhiệm dân sự do vi
phạm HĐ vào thực tiễn, các quy định này vẫn gặp phải một số bất cập và hạn chế như:
- Thứ nhất: Các quy định về TNDS quy định từ điều 302 đến 308 của BLDS là
những quy định chung được áp dụng cho cả TNDS do vi phạm hợp đồng và TNDS
ngoài hợp đồng. Tuy nhiên hai loại TNDS này có rất nhiều điểm khác biệt. Trong khi
BLDS 2005 dành hẳn chương XXI để quy định về TNBTTH ngoài hợp đồng và có
những quy định khá đầy đủ, chi tiết thì ngược lại không có một quy định nào riêng về
TNDS do vi phạm hợp đồng. Có thể thấy đây là một thiếu sót của BLDS 2005. Trong
BLDS 2005 những quy định về TNBTTH ngoài hợp đồng được quy định khá rõ về căn
cứ phát sinh, nguyên tắc bồi thường thiệt hại, cách xác định thiệt hại… Còn TNDS do
vi phạm hợp đồng thì những vấn đề này được quy định hết sức mờ nhạt.
- Thứ hai, theo quy định tại Điều 305 BLDS 2005 thì: “Khi nghĩa vụ dân sự
chậm thực hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa
vụ; nếu quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn thành thì theo yêu cẩu cảu
bên có quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại…”.
Theo quy định này có thể hiểu, nếu bên có quyền đồng ý gia hạn thì bên có nghĩa vụ
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
chỉ có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng trong khoảng thời gian được gia hạn thì
mới phải chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng trong khoảng thời gian được gia
hạn mà không phải BTTDS, còn nếu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ sau thời gian
được gia hạn thì mới phải chịu TNBTTH. Quy định như vậy chưa được đầy đủ vì việc
bên có quyền gia hạn và bên có nghĩa vụ thực hiện trong thời gian được gia hạn đó

không có nghĩa là không có thiệt hại xảy ra với bên có quyền. Tuy nhiên theo quy định
trong BLDS thì không có quy định về TNBTTH trong trường hợp này.
Bên cạnh đó, đối với điều luật này, trường hợp trong Hợp đồng các bên không
thỏa thuận và pháp luật cũng không quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì vẫn
phát sinh TNDS do chậm thực hiện nghĩa vụ. Bởi theo quy định tại Khoản 2 Điều 285
BLDS 2005: “Trong trường hợp các bên không thỏa thuận và pháp luật không quy
định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo co nhau biết
trước một thời gian hợp lý” trong trường hợp này, các bên có thể thực hiện nghĩa vụ
hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho nhau
biết trước một thời gian hợp lí. Nếu bên có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ và đã thông báo trước một khoảng thời gian hợp lí mà bên có nghĩa vụ vẫn
chưa thực hiện nghĩa vụ thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ và phải chịu TNDS do chậm
thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên để xác định thế nào là “một thời gian hợp lí” lại không
hề đơn giản, nếu xác định không chính xác rất dễ dẫn đến tình trạng không bảo đảm
được quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cả hai bên.
- Thứ ba, đánh giá về quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng: Có thể nói, trong các loại TNDS do vi phạm hợp đồng, TNBTTH là loại trách
nhiệm được áp dụng phổ biến nhất, khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dẫn đến
gây thiệt hại, bên gây thiệt hại phải gánh chịu TNBT trước bên bị thiệt hại. TNBTTH
là loại trách nhiệm được áp dụng cho cả TNDS do vi phạm hợp đồng và TNDS ngoài
hợp đồng. Song, trong BLDS năm 2005 không có quy định nào định nghĩa về
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
TNBTTH nói chung và TNBTTH do vi phạm hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên, luật
Thương mại là ngành luật được tách ra từ luật dân sự, tại khoản 1 Điều 302 Luật
thương mại năm 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường
những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gay ra cho bên vi phạm”. Cách tiếp cận

của luật thương mại 2005 có phần ngắn gọn nhưng đã thể thiện dược bản chất của
TNBTTH. Có thể hiểu TNBTTH do vi phạm hợp đồng là loại trách nhiệm pháp lý áp
dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và gây thiệt hại, nhằm bù
đắp những tổn thất do bên bị thiệt hại. Dù trong hợp đồng được kí kết với các bên có
thỏa thuận về TNBTTH hay không thi khi một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dẫn
đến gây thiệt hại cho phía bên kia, TNBTTH vẫn được áp dụng. Đây là biện pháp tốt
nhất để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị thiệt hại.
Các căn cứ để xác định TNBTTH do vi phạm hợp đồng đó là: Có hành vi vi
phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra; và có lỗi vủa người có hành vi vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng. Khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 quy định chung về yếu tố lỗi trong TNBTTH
do hành vi vi phạm hợp đồng và TNBTTH ngoài hợp đồng, theo đó: “Người không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sực phải chịu trách nhiệm dân sự
do lỗi cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác…”
Theo quy định về nguyên tắc chung kho áp dụng TNBTTH không cần xác định
hình thức lỗi của người gây thiệt hại, càng không phải xác định trạng thái lỗi của người
đó mà chỉ cần xem xét bên vi phạm có lỗi hay không. Tuy nhiên nếu giữa các bên có
thỏa thuận khác trong hợp đồng thì áp dụng thỏa thuận đó. Trong trường hợp bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng gây thiệt hại nhưng không có lỗi thì cũng không phải chịu
TNBTTH, đó là trường hợp gây thiệt hại do sự kiện bất khả kháng hoặc lỗi hoàn toàn
do bên bị thiệt hại.

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
- Thứ tư, khoản 3 Điều 302 BLDS 2005 quy định một trường hợp được miễn trừ
TNDS đó là trường hợp bên có nghĩa vụ chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện là
hoàn toàn do lỗi của bên có quyền. Tuy nhiên cần hiểu, chỉ cần bên có nghĩa vụ chứng

minh được rằng họ không có lỗi trong việc vi phạm hợp đồng thì họ không phải chịu
TNDS. Việc lỗi hoàn toàn do bên có quyền cũng đồng nghĩa với việc bân có nghĩa vụ
không có lỗi. Do đó, việc chứng minh lỗi hoàn toàn do bên có quyền suy cho cùng chỉ
là một biện pháp nhằm chứng minh bên có nghĩa vụ không có lỗi. Vì vậy, bất kể lỗi
hoàn toàn do bên có quyền hay do người thứ ba hoặc không bên nào có lỗi thì bên có
nghĩa vụ cũng không phải chịu TNDS. Luật quy định như vậy chưa bao quát được hết
các trường hợp miễn trừ TNDS khi bên có nghĩa vụ không có lỗi. Ngoài ra, Điều luật
quy định bên có nghĩa vụ không phải chịu TNDS nếu lỗi hoàn toàn do bên có quyền,
nhưng lại không quy định trường hợp lỗi do cả hai bên, do thiếu cơ sở pháp lí khi áp
dụng, trong khi đây là trường hợp gặp khá nhiều trong thực tế xét xử các vụ án tranh
chấp do vi phạm hợp đồng.
- Thứ năm về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và BTTH. Theo quy định tại khoản
2 Điều 422 BLDS thì trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm trong HĐ
nhưng lại không thỏa thuận về BTTH thì khi vi phạm HĐ, bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải nộp tiền phạt vi phạm. Quy định như thế là chưa hợp lí. Bởi căn cứ để phát sinh
TNBBTH và căn cứ để áp dụng phạt vi phạm là hoàn toàn độc lập với nhau. Chỉ cần
các bân có thỏa thuận và có hành vi vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm phải nộp cho
bên bị vi phạm khoản tiền đã thỏa thuận. TNBTTH cũng lập tức phát sinh khi có đầy
đủ các điều kiện: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ
nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm và có lỗi của người vi phạm mà không nhất
thiết phải có sự thỏa thuận của các bên trong HĐ. Mặt khác trong các điều 303, 304,
305, 306 và nhiều điều luật khác của BLDS năm 2005, sau cụm từ “và yêu cầu bồi
thường thiệt hại” không hề có quy định “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” (trường
hợp khác ở đây được hiểu là trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm hợp

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
đồng nhưng không có thỏa thuận về BTTH). Do đó có thể thấy, quy định về phạt vi

phạm và BTTH dường như có sự mâu thuẫn. Đồng thời việc phạt vi phạm loại bỏ trách
nhiệm của BTTH là không hợp lí, nhiều khi không đảm bảo được quyền và lợi ích của
bên bị vi phạm nếu thiệt hại xảy ra quá lớn so với dự liệu của các bên. Lúc đó bên bị vi
phạm sẽ phải gánh chịu thiệt hại quá lớn.
- Thứ sáu, với vai trò là BLDS thống nhất, BLDS 2005 đã đặt những nền tảng cơ
bản nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự theo các quy tắc chung, mà quan hệ hợp đồng
là một trong số đó. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những quy định mâu thuẫn nhau của Luật
Thương mại 2005 và BLDS 2005 liên quan đến vấn đề hợp đồng.
Ví dụ, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH), theo BLDS 2005, có bốn căn cứ để
xác định trách nhiệm BTTH: có hành vi vi phạm, có lỗi của bên vi phạm, có thiệt hại
thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại. Còn trong
Luật Thương mại 2005 lại không quy định yếu tố lỗi là một căn cứ phát sinh trách
nhiệm BTTH.
- Thứ bảy, quy định của pháp luật về các trường hợp miễn trừ TNDS chưa thực
sự đầy đủ và rõ ràn. Điều 302 chỉ quy định hai trường hợp là bất khả kháng và lỗi hoàn
toàn thuộc về bên có quyền mà không quy định trường hợp hai bên có thỏa thuận.
Trường hợp thứ ba này chỉ được suy ra một cách gián tiếp từ khoản 6 Điều 402 theo đó
các bên có thỏa thuận về TNDS do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, để quy định pháp
luật được rõ ràng và thống nhất, nên bổ sung trường hợp miễn trừ TNDS do vi phạm
hợp đồng vào Điều 302 BLDS 2005.
Trường hợp miễn trừ TNDS do sự kiện bất khả kháng, điều luật chưa quy định
chặt chẽ, rõ ràng về các điều kiện để được miễn trừ TNDS khi có sự kiện bất khả
kháng xảy ra. Vì vậy, trong quá trình áp dụng các bên trong quan hệ hợp đồng đôi khi
còn chưa hiểu đúng về quyền miễn trừ này, có cách hiểu sai cho rằng, cứ có sự kiện bất
khả kháng xảy ra thì bên có nghĩa vụ đương nhiên được miễn trừ TNDS. Việc giải

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2

quyết tranh chấp của tòa án cũng gặp nhiều khó khăn do căn cứ quy định không rõ
ràng, Tòa án thường phải viện dẫ khái niệm sự kiện bất khả kháng để giải thích.
- Thứ tám, Về căn cứ miễn trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cũng tồn tại
một vài điểm chưa thống nhất. Nếu BLDS chỉ đặt ra hai căn cứ miễn trách nhiệm là sự
kiện bất khả kháng và lỗi của bên bị vi phạm (còn lại là trường hợp miễn trách nhiệm
do các bên thỏa thuận trong hợp đồng) thì Luật Thương mại 2005 lại quy định bốn
trường hợp là căn cứ miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm tại Điều 294 bao gồm:
các trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận, sự kiện bất khả kháng, hành
vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên
do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên
không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luạt về trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng.
Từ việc đánh giá những bất cập hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành
cũng như thực tiễn áp dụng, có thể đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
quy định của pháp luật về TNDS do vi phạm hợp đồng, củ thể như sau:
Một là, cần tách riêng các quy định về TNDS do vi phạm hợp đồng với TNDS
ngoài hợp đồng, đồng thời quy định một cách đầy đủ và củ thể hơn. Có thể tham khảo
một số quy định phù hợp của TNBTTH ngoài hợp đồng để hoàn thiện quy định về
TNDS do vi phạm hợp đồng. Bổ sung một số quy định sau:
- Căn cứ phát sinh TNBTTH do vi phạm hợp đồng: bao gồm bốn căn cứ: có hành
vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế xảy ra; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
và thiệt hại thực tế xảy ra; bên vi phạm hợp đống có lỗi, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Cách xác định thiệt hại: Thiệt hại mà bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi
phạm là toàn bộ những tổn thất thực tế, tính được thành tiền bao gồm: Tổn thất về tài
1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2

sản, chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giám sát. Bên vi phạm hợp đồng có trách nhiệm bồi thường những tổn thất về
tinh thần cho bên bị vi phạm.
- Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ, pháp luật nên quy định
dù bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trong khoảng thời gian được gia hạn
hay sau khi hết thời gian được gia hạn mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì đều phải
chịu trách nhiệm bồi thường.
- Trách nhiệm chứng minh lỗi: Việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ của
người vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Hai là, Sửa đổi quy định về miễn TNDS trong trường hợp lỗi hoàn toàn do bên có
quyền và miễn trừ TNDS do các bên thỏa thuận theo hướng:
+ Bên có nghĩa vụ không nhất thiết phải chịu TNDS nếu chứng minh được mình
không có lỗi làm cho bên có nghĩa vụ không thực hiện được.
+ Các bên có quyền thỏa thuận về miễn trừ TNDS do vi phạm hợp đồng, trừ
trường hợp lỗi hoàn toàn do bên có quyền. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tôn trọng của các
bên trong hợp đồng, vừa hạn chế được việc bên có lợi thế hơn trong giao kết hợp đồng
lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm dân sựthì cần phải đánh giá tính hợp lý
của thỏa thuận đó. Do đó, một thỏa thuận về căn cứ miễn trừ trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng chỉ có giá trị pháp lý nếu như hành vi vi phạm hợp đồng không phải do lỗi
cố ý.Bởi, nếu hành vi vi phạm là do lỗi cố ý thì sự vi phạm đó được coi là một vi phạm
nặng và điều khoản về miễn trừ trách nhiệm theo thỏa thuận trong hợp đồng sẽ bị vô
hiệu
+ Trường hợp cả hai bên cùng có lỗi thì mỗi bên phải chịu TNDS tương ứng với
mức độ lỗi của mình.

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2
Việc sửa đổi quy định như trên vừa bao quát được hết các trường hợp miễn trừ

TNDS khi bên có nghĩa vụ không có lỗi (lỗi có thể do bên có quyền, do người thứ ba
hoặc không ai có lỗi, trường hợp này bên có quyền phải chịu rủi ro), vừa loại trừ được
trường hợp các bên thỏa thuận trong hợp đồng bên có nghĩa vụ vẫn phải chịu TNBT
ngày cả khi không có lối, nhưng sau đó thì bên có quyền có lỗi dẫn đến vi phạm hợp
đồng; đồng thời có cơ sở pháp lí để giải quyết được trường hợp cả hai bên cùng có lỗi.
Ba là, BLDS 2005 nên quy định về phạt vi phạm và BTTH là hai hình thức chịu
TNDS độc lập với nhau. Xỏa bỏ quy định tại điều 422 BLDS 2005: “Trường hợp các
bên không có thỏa thuận về BTTH thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi
phạm”. Quy định theo hướng, nếu các bên có thỏa thuận về PVP thì khi bên có nghĩa
vụ vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm nộp phạt, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường, bất kể các bên có thỏa thuận về BTTH trong hợp đồng hay không.
Để tránh trường hợp các bên thỏa thuận mức PVP quá cao, gây bất lợi cho bên
yếu thế hơn trong hợp đồng, pháp luật nên quy định giới hạn mức phạt vi phạm, theo
đó, vấn đề cho các bên thỏa thuận nhưng phải trong một giới hạn nhất định.
Bốn là, Cần quy định một cách rõ ràng hơn về điều kiện miễn trừ TNDS do sự
kiện bất khả kháng, theo đó, để được miễn trừ TNDS do sự kiện bất khả kháng cần
phải hội tụ đủ các điều kiện bao gồm: Sự kiện bất khả kháng là sự kiện khách quan,
nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng và không thể dự đoán trước bởi các
bên; đây là sự kiện xảy ra sau khi các bên đã giao kết hợp đồng; hành vi vi phạm phải
là kết quả của sự kiện bất khả kháng; bên vi phạm đã dùng hết năng lực của mình để
khắc phục hậu quả nhưng không thể khắc phục được. Bên cạnh đó, BLDS chưa có quy
định về nghĩa vụ thông báo của bên vi phạm cho bên bị vi phạm về sự kiện bất khả
kháng. Trên thực tế, việc thông báo về sự kiện bất khả kháng của bên vi phạm cho bên
bị vi phạm sẽ làm giảm đáng kể hoặc ngăn ngừa thiệt hại cho bên bị vi phạm do bên vi
phạm không thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng và việc thông báo về sự kiện bất

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2

khả kháng cũng có thể coi là một căn cứ để chứng minh bên vi phạm thực sự gặp phải
sự kiện bất khả kháng.
Năm là, phân định rõ các quy định về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và ngoài
hợp đồng. TNDS trong hợp đồng được quy định từ điều 302 đến điều 308 của BLDS
2005, tức TNDS do vi phạm nghĩa vụ, hợp đồng là nguồn phát sinh chủ yếu của nghĩa
vụ nên chúng ta có thể hiểu TNDS do vi phạm nghĩa vụ ở đây bao gồm cả nghĩa vụ
trong hợp đồng. Tuy nhiên, cách tổ chức, sắp xếp điều luật như vậy đã làm cho sự
phân định giữa TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng không được rõ ràng. Do đó,
theo chúng tôi, nên xếp riêng TNDS do vi phạm hợp đồng tại Mục 7 Chương XVII
Phần thứ III “hợp đồng dân sự” của BLDS 2005, và những quy định về TNDS ngoài
hợp đồng tại phần trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng tại Chương XXI của BLDS
2005. Cách sắp xếp riêng biệt như vậy sẽ giúp dễ dàng nhận diện các loại trách nhiệm
và tránh được nhầm lẫn giữa hai chế định trách nhiệm của luật dân sự.

KẾT LUẬN
Có thể thấy, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng chưa được quy định một
cách rõ ràng và củ thể trong Bộ luật dân sự 2005. Vì thế, khi áp dụng các quy định vào
thực tế các nhà làm luật cần áp dụng linh hoạt và vận dụng phù hợp để giải quyết các
vấn đề một cách hợp lý để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của các bên.
Trên đây là bài tập học kỳ môn luật Dân sự Việt Nam 2 của em, bài làm của em
còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô. Em xin cảm ơn!

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 2, NXB Công

an nhân dân, Hà Nội 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 2, NXB Giáo dục,
Hà Nội 2009.
3. Khóa luật tốt nghiệp 2011, Nguyễn Thị Dương, Trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng.
4. Website:
-Thongtinphapluatdansu.edu.vn
- Luatminhkhue.vn
-liendoanluatsu.org.vn

1


BÀI TẬP HỌC KỲ MÔN LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2

1



×