Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.73 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2011-2015
ĐỀ TÀI

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

ThS. Trương Thanh Hùng

Bùi Thị Ngọc Ái

Bộ môn Luật Tư pháp,

MSSV: 5115867

Khoa Luật-ĐHCT

Lớp Luật Tư pháp 1, K37

Cần Thơ, tháng 11/2014


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện mục tiêu “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng thỏa
thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật
tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế”1. Các nội dung sửa đổi,
bổ sung pháp luật về hợp đồng trong BLDS năm 2005 đã nhận được sự quan tâm nhiệt
tình của các cơ quan, tổ chức và giới luật học. Trên cơ sở kế thừa và phát triển luật pháp
về dân sự, BLDS năm 2005 tiếp tục bổ sung và hoàn thiện hơn các quy định về pháp luật
dân sự nói chung về giao dịch dân sự nói riêng. Đây là căn cứ pháp lý chung để điều
chỉnh toàn bộ chế định về giao dịch dân sự trong đời sống xã hội.
Xét về tổng quan, hầu hết các nhu cầu sống của con người được đáp ứng thông qua
giao dịch và được cam kết dưới dạng hợp đồng. Có thể khẳng định rằng hợp đồng là một
trong những chế định lâu đời nhất và quan trọng nhất của pháp luật. Ngay từ xa xưa, khi
có sự trao đổi hàng hóa, hợp đồng đã xuất hiện. Và ngày nay, trong nền kinh tế thị
trường, sự đa dạng trong quan hệ giao dịch dân sự kéo theo sự phong phú của các dạng
hợp đồng. Vì vậy, chế định hợp đồng càng ngày càng chiếm một địa vị quan trọng trong
quan hệ pháp luật dân sự.
Hợp đồng được giao kết là để đem lại lợi ích hợp pháp mà các bên mong đợi thông
qua việc thực hiện các cam kết với nhau và là sợi dây gắn kết các chủ thể trong xã hội.
Để đáp ứng các nhu cầu của cuộc sống cũng như trong kinh doanh, không thể thiếu được
hợp đồng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, không phải lúc nào hợp đồng cũng được
các bên thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ. Hay nói cách khác, có những trường hợp,
một bên không thực hiện, thực hiện không đúng, hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
đã giao kết. Lúc đó, đã có sự vi phạm hợp đồng. Khi đó, lợi ích mà các bên mong muốn
thông qua hợp đồng không đạt được và hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng này nhiều khi
còn làm phát sinh những thiệt hại cho bên bị vi phạm. Lúc này, rất cần có sự can thiệp
của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm, bảo vệ tính ổn định trong quan
hệ hợp đồng. Chế định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng ra đời với ý nghĩa đó.
Trong thực tế cho thấy nhiều hợp đồng được giao kết hợp pháp nhưng quá trình thực

hiện những nghĩa vụ đã cam kết thì xảy ra vi phạm như: không thực hiện, thực hiện
1

Nghị quyết số 48-NQ/TWcủa Bộ Chính trị ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, mục 3, phần II.

2


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

không đúng và không đầy đủ về chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm, không đúng
phương thức, công việc đã cam kết. Với lý do đó, người viết đã lựa chọn đề tài “Trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình, nhằm
phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn về các hình thức quy trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng và chỉ ra những đặc trưng của từng biện pháp. Thông qua đó, người viết thấy được
một phần do có sự chồng chéo giữa Bộ luật Dân Sự năm 2005 và Luật Thương mại năm
2005, qua đó người viết đưa ra những đánh giá, kiến nghị về những phương hướng nhằm
hoàn thiện các quy định về trách nhiệm nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Mục đích và đối tượng nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam
liên quan tới việc xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Qua đó, giúp cho người
giao kết hợp đồng có kiến thức khi thực hiện hợp đồng một cách tốt nhất để bảo vệ lợi ích
chính đáng của các bên tham gia giao kết hợp đồng, giảm bớt hoặc khắc phục được tình
trạng các trường hợp do vi phạm hợp đồng do không thực hiện đúng cam kết. Đồng thời
giúp tránh được những mâu thuẫn, tranh chấp giải quyết trên thực tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm

hợp đồng, cụ thể là trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và đề cập so sánh với quy định liên
quan ở Luật Thương mại năm 2005. Từ đó, người viết chỉ ra những điểm chưa thống nhất
giữa Bộ luật Dân sự năm 2005 với Luật Thương mại 2005, những hạn chế và đề xuất
những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng.
4. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, người viết đã dựa trên cơ sở vận dụng những phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn cũng áp dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp lý như : phương pháp phân tích, tổng hợp
các kiến thức từ pháp luật thực định và phân tích thực tiễn để nhận thức và đánh giá thực
trạng điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật; phương pháp so sánh, diễn giải.
5. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn của người viết
gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
- Chương 2: Quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
3


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

- Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng và đề xuất hoàn thiện.

4


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG

Đã từ lâu pháp luật về hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong pháp luật Việt
Nam, bởi vì hầu hết các giao dịch trong xã hội dù có mục đích kinh doanh hay nhằm đáp
ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường đều liên quan đến hợp đồng nói chung. Chính vì
lẽ đó mà chế định về hợp đồng đóng vai trò quan trọng, chiếm một vị trí nồng cốt trong
BLDS 2005…Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng hay trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng là một chế định được chính thức ghi nhận trong văn bản pháp lệnh kể từ khi
Nhà nước ta cho ban hành Pháp lệnh hợp đồng dân sự vào năm 1991 và Pháp lệnh này đã
dành riêng một chương để quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Và hiện
nay quy định về trách nhiệm dân sự đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc đảm
bảo quyền và lợi ích của các bên khi nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
1.1. Một số khái niệm liên quan
Trong cuộc sống hằng ngày để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, mỗi
chúng ta xác lập nhiều giao dịch khác nhau, trong đó có nhiều giao dịch được xác lập
dưới một hình thức pháp lý gọi là hợp đồng. Khi hợp đồng được giao kết một cách hợp
pháp trên cơ sở thỏa thuận thì các bên đã thiết lập quyền và nghĩa vụ tương ứng ràng
buộc lẫn nhau. Xuất phát từ việc cần thiết bảo vệ lợi ích chính đáng trên những nguyên
tắc đã được thể chế hóa thành một chế tài của pháp luật dân sự đó là trách nhiệm dân sự
và bắt buộc mọi công dân phải tuân thủ. Tuy nhiên không phải lúc nào hợp đồng được
giao kết thì trên thực tế sẽ luôn được thực hiện đúng những gì đã giao kết và việc vi phạm
hợp đồng được giải quyết như thế nào. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu về những khái niệm
liên quan.
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự luôn được các luật gia Việt Nam hiện nay xem là một loại trách
nhiệm pháp lý – một vấn đề pháp lý quan trọng được nghiên cứu tổng quát trong môn lý
luận chung về nhà nước và pháp luật. Trách nhiệm pháp lý được cho là “việc một chủ thể
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm
pháp luật”2.


Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.307.
2

5


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

Theo Từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa: “Một là
phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết
quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”, hai là “sự ràng buộc đối với lời nói,
hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả” 3.
Theo hai cách định nghĩa như trên thì trách nhiệm có nhiều điểm tương đồng với nghĩa
vụ, nhưng nó cũng hàm chứa một điểm khác biệt quan trọng, đó là yếu tố hậu quả. Với
trách nhiệm pháp lý, tức trách nhiệm đã được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành, các hậu quả này sẽ là hậu quả bất lợi được áp đặt lên
những người phải chịu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý luôn là một chế định
quan trọng đối với mọi hệ thống luật, vì nó bảo đảm cho sự tuân thủ pháp luật của các
thành viên trong xã hội. Trách nhiệm pháp lý xuất hiện khi có sự vi phạm pháp luật, là
hậu quả của hành vi vi phạm và thể hiện sự răng đe của Nhà nước đối với những hành vi
vi phạm. Theo giáo trình lý luận Nhà nước và pháp luật, trường Đại học Luật Hà Nội,
trách nhiệm pháp lý được hiểu là“trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt)
đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với các
chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó
chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng
chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật”4.
Nhìn vào khái niệm trên có thể thấy, trách nhiệm pháp lý có các đặc điểm cơ bản
sau : Thứ nhất, như đã trình bày, yếu tố quan trọng nhất của trách nhiệm pháp lý là “hậu

quả bất lợi” hay nói cách khác là chế tài. Thái độ của Nhà nước đối với các hành vi vi
phạm pháp luật được thể hiện qua việc áp dụng các chế tài và các chế tài này được đảm
bảo thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế Nhà nước.
Thứ hai là tính đền bù, bởi mục đích của trách nhiệm pháp lý không chỉ là trừng trị
hành vi vi phạm mà bên cạnh đó còn là sự khôi phục lại tình trạng tương ứng với phần
hậu quả mà người vi phạm đã gây ra do không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thứ ba là về hình thức của trách nhiệm pháp lý thể hiện trách nhiệm pháp lý chỉ tồn
tại khi được quy định trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước ban hành, tức chỉ Nhà nước có quyền xác định hành vi nào là vi phạm pháp luật và
các chế tài tương ứng với mỗi vi phạm đó.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì
“Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với
người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị

3
4

Trung tâm Từ điển học - Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt 2003, Nxb Đà Nẵng.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, 2006.

6


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

thiệt hại”5. Nếu hiểu theo nghĩa này, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được
đặt ra khi và chỉ khi có sự vi phạm pháp luật dân sự.
Còn trong số chuyên đề về BLDS năm 2005, Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ
Tư pháp lại đưa ra một cách định nghĩa khác về trách nhiệm dân sự trong phần thuật ngữ
pháp luật dân sự: “Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng

chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi
phạm. Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp có tính cưỡng chế áp dụng
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác, người gây ra
thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản của
mình (trong đó có bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng)”6.
Có thể thấy, dù định nghĩa bằng cách này hay cách khác, trách nhiệm dân sự vẫn
được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý. Vì vậy, nó mang những đặc tính chung của
trách nhiệm pháp lý như luôn đi kèm với chế tài, phải được Nhà nước quy định trong các
văn bản pháp luật, tuy nhiên với tư cách là một trách nhiệm dân sự, nó cũng mang những
đặc trưng riêng của lĩnh vực dân sự:
- Căn cứ phát sinh trách nhiêm dân sự phải là hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cụ
thể hơn là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự.
- Trách nhiệm dân sự luôn có tính tài sản, tức là phải liên quan trực tiếp đến tài sản,
vì lợi ích của các bên trong quan hệ nghĩa vụ dân sự hướng đến bao giờ cũng mang tính
tài sản. Vì vậy, trách nhiệm dân sự chính là trách nhiệm bù đắp cho bên bị vi phạm nghĩa
vụ một lợi ích vật chất nhất định.
- Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu là việc bắt buộc phải
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm để thỏa mãn quyền lợi
chính đáng của người bị vi phạm, khắc phục những hậu quả vật chất cho người bị vi
phạm.
Trách nhiệm dân sự - căn cứ xác lập nghĩa vụ: “Chủ thể của quan hệ pháp luật
phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp gây ra thiệt hại cho một chủ thể khác.
Quan hệ trách nhiệm dân sự có hai chủ chể: một chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại và một chủ thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại”7. “Cả quyền yêu cầu và nghĩa
vụ bồi thường thiệt hại đều phát sinh không theo ý chí của các đương sự. Ngay cả trong
trường hợp người gây ra thiệt hại mong muốn bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự
Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình,
Luật Tố tụng Dân sự, Nxb Công an nhân dân, 1999, tr. 42.
6

Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Bộ luật Dân sự Việt Nam, 2005, tr. 24.
7
Tăng Thanh Phương, Tập bài giảng Luật dân sự Việt Nam – Phần Nghĩa Vụ, Khoa Luật, Trường Đại Học Cần
Thơ, 2012, tr. 74.
5

7


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

mong muốn đó cũng không phải là nguồn của nghĩa vụ bồi thường: nghĩa vụ bồi thường
do luật quy định, còn người có nghĩa vụ chỉ có ý định thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí
của mình không tạo ra”8.
Tóm lại, trách nhiệm dân sự được hiểu là một chế định có lịch sử phát triển lâu đời
và cho tới nay vẫn là một trong những chế định có tầm ảnh hưởng rộng rãi và luôn được
nghiên cứu trong nhiều hệ thống pháp luật và trách nhiệm dân sự có những đặc điểm
riêng biệt thể hiện bản chất của các quan hệ dân sự trong xã hội đó là:
- Trách nhiệm dân sự là quan hệ luật tư giữa hai chủ thể độc lập có địa vị pháp lý
bình đẳng;
- Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm tài sản;
- Trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với bên vi phạm phải tương xứng với hậu
quả của hành vi vi phạm, tức là tương xứng với mức độ tổn thất về vật chất hoặc tinh
thần mà người chịu thiệt hại phải gánh chịu;
- Trách nhiệm dân sự phải được áp dụng thống nhất và như nhau đối với các chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự;
Thuật ngữ “trách nhiệm dân sự” có phù hợp với việc “không thực hiện đúng hợp
đồng” hay không? Bộ luật Dân sự hiện hành dành các điều từ 302 đến 308 quy định về
“trách nhiệm dân sự”. Tuy nhiên, mục “Trách nhiệm dân sự” này không đề cập đến
“hoãn thực hiện hợp đồng”, “đơn phương chấm dứt hợp đồng”, “hủy bỏ hợp đồng” khi

xảy ra việc không thực hiện đúng hợp đồng. Như vậy, nếu chúng ta sử dụng “trách nhiệm
dân sự” khi giải quyết việc không thực hiện đúng hợp đồng thì thuật ngữ này chưa bao
quát hết nội dung nghiên cứu. Bởi lẽ, bên cạnh việc nghiên cứu “buộc thực hiện đúng hợp
đồng” hay “bồi thường thiệt hại” chúng ta còn nghiên cứu biện pháp khác. Do đó, người
viết không sử dụng “trách nhiệm dân sự” như thuật ngữ chung khi đề cập đến các giải
pháp cho việc không thực hiện đúng hợp đồng. Điều này không có nghĩa là thuật ngữ
“trách nhiệm dân sự” không được sử dụng: vì nó được sử dụng khi đề cập đến các giải
pháp được quy định từ Điều 302 đến 308 BLDS như buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp
đồng, bồi thường thiệt hại nhưng nó không được sử dụng liên quan đến “đơn phương
chấm dứt hợp đồng”, “hủy bỏ hợp đồng”.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng
Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và người liên quan đến
tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy không chỉ hình thành trong lĩnh vực
dân sự mà cả trong các lĩnh vực thương mại, lao động, thậm chí trong lĩnh vực hành
Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình luật dân sự Việt Nam – tập 2, Khoa Luật, Trường Đại Học Cần Thơ, 2004, tr.
49.
8

8


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

chính. Mỗi loại hợp đồng trong mỗi lĩnh vực, có những đặc điểm rất riêng và do đó được
chi phối bởi những quy định riêng. Tuy nhiên, là sản phẩm của sự gặp gở ý chí, tất cả các
hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước và những
nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một hệ thống các quy tắc
pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết ước hay còn gọi là luật chung về
hợp đồng. Trong luật La Mã, khái niệm hợp đồng hình thành tương đối muộn. Mãi đến
đầu thế kỷ I sau Công nguyên, người La mã mới biết sử dụng thuật ngữ contractus để chỉ

sự thỏa thuận ý chí của hai hay nhiều người nhằm xác lập nghĩa vụ. Người La Mã không
có lý thuyết chung về hợp đồng mà chỉ có các nhóm quy tắc áp dụng cho các loại hợp
đồng khác nhau. Luật Anh - Mỹ có lý thuyết chung về hợp đồng như trong luật la tinh.
Song đó là một lý thuyết mà người ta chỉ có thể hiểu được một khi từ bỏ hầu như tất cả
các khái niệm của luật la tinh và tiếp cận đối tượng nghiên cứu qua chính lăng kính của
văn hóa pháp lý Anh - Mỹ. Đối với người Anh hoặc Mỹ hoặc bất kỳ người nào thấm
nhuần văn hóa pháp lý Anh - Mỹ, hợp đồng là một vụ trao đổi, một bargain; quan hệ kết
ước hình thành trong điều kiện một bên quan tâm đến cái mà bên kia mang lại cho mình,
gọi là vật đánh đổi (consideration)9.
Hợp đồng được định nghĩa là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Dù được hình thành
trong lĩnh vực quan hệ xã hội nào thì hợp đồng luôn có những điểm chung sau đây :10
- Trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức là có sự
thỏa thuận giữa các bên với nhau. Người ta thường gọi nguyên tắc này là nguyên tắc hiệp
ý. Nguyên tắc hiệp ý là kết quả tất yếu của tự do hợp đồng : khi giao kết hợp dồng các
bên được tự do quy định nội dung hợp đồng, tự do xác định phạm vi quyền và nghĩa vụ
của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng không phải là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc
các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng.
Trong những trường hợp thật cần thiết, nhân danh tổ chức quyền lực công, nhà nước có
thể can thiệp vào việc ký kết hợp đồng và do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên sự can thiệp này phải là sự can thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt
chẽ để tránh sự lạm dụng, vi phạm quyền tự do hợp đồng.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp đồng
được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thỏa thuận. Tuy nhiên không thể suy luận
ngược lại: Mọi sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng. Chỉ được coi là hợp đồng
những thỏa thuận thực sự phù hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ưng thuận đích thực
Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình luật dân sự Việt Nam – tập 2, Khoa Luật, Trường Đại Học Cần Thơ, 2004, tr. 4 –
5.
10
Phạm Hữu Nghị, Sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005 Về vấn đề cải cách hợp đồng , Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, [Truy cập ngày:
03/08/2014].
9

9


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

giữa các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp do vậy sự ưng thuận ở đây phải là sự
ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật hợp đạo đức. Các hợp đồng được giao kết
dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua chuộc là không có sự ưng thuận đích
thực. Những trường hợp có sự lừa dối, đe dọa, cưỡng bức thì dù có sự ưng thuận cũng
không được coi là hợp đồng, tức là có sự vô hiệu của hợp đồng. Như vậy, một sự thỏa
thuận không thể hiện ý chí thực của các bên thì không phát sinh các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên.
- Ý chí chỉ phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý khi người giao kết có đầy đủ
năng lực hành vi để xác lập hợp đồng.
- Yếu tố không thể thiếu của hợp đồng chính là đối tượng. Sự thống nhất ý chí của
các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Mọi hợp đồng phải có đối tượng xác định.
Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt và không bị cấm đưa vào các giao dịch
dân sự - kinh tế. Chẳng hạn, đối tượng của hợp đồng mua bán phải là những thứ không bị
cấm. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp thì hợp đồng bị coi là vô hiệu.
Một khi hợp đồng được hình thành một cách hợp pháp thì nó có hiệu lực như pháp
luật đối với các bên giao kết. Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật hợp đồng. Sau khi
hợp đồng được xác lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng buộc như
pháp luật, các bên buộc phải thực hiện cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn
đến trách nhiệm tài sản mà bên vi phạm sẽ phải gánh chịu. Khi giải quyết tranh chấp hợp
đồng, xử lý vi phạm hợp đồng, Tòa án hoặc các trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản
mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng để ra bản án hoặc quyết định công bằng, đúng

đắn.
Khi đời sống xã hội ngày càng phát triển, một sự nhu cầu về trao đổi tài sản, hàng
hóa cũng như các vấn đề thuê nhân lực để phục vụ cho việc đáp ứng nhu cầu của con
người cũng ngày càng phát triển theo. Khi ý chí của các bên trong việc trao đổi đó gặp
nhau ở một số điểm nhất định, họ muốn tiến tới thực hiện ý chí của nhau ở những điểm
trùng lập đó. Nhưng việc đơn thuần để tiến trình những điểm chung đó là chưa đủ, cần có
một cơ chế để giúp việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau khi họ thực hiện
ý chí của mình và từ đó hợp đồng ra đời.
1.1.3. Khái niệm về vi phạm hợp đồng
Theo LTM năm 2005, “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực
hiện không dầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên
hoặc theo quy định của Luật này”11. Với quy định này, “vi phạm” được hiểu là “không
thực hiện”, “thực hiện không đầy đủ”, “thực hiện không đúng”. Điều 302 BLDS 2005
11

Khoản 2, Điều 13 Luật Thương mại 2005.

10


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

cũng theo hướng của LTM liên quan đến thuật ngữ sử dụng. Điều 302 BLDS 2005 có
tiêu đề “Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự”, trong nội dung điều này, có đề
cập đến “không thực hiện” hoặc “thực hiện không đúng”.
Khái niệm về “vi phạm hợp đồng” nói riêng và vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung
được ghi nhận tại khoản 1 Điều 302 BLDS năm 2005 : “Bên có nghĩa vụ mà không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có
quyền”. Theo đó thì vi phạm hợp đồng là một bên của hợp đồng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng quy định. Đây là dấu hiệu

quan trọng nhất để xác định có sự vi phạm hợp đồng hay không.
1.2. Khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng và các hình
thức quy trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Nói đến nghĩa vụ, chúng ta thường nghĩ đến những gì mà một người phải làm hoặc
không được làm đối với người khác, tương tự cũng như nghĩa vụ trong một hợp đồng khi
vi phạm sẽ phát sinh trách nhiệm của bên có nghĩa vụ đối bên có quyền. Vậy để xác định
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng cũng như để hiểu và nhận thức rõ những căn cứ
giúp giải quyết các vụ việc có liên quan tới vi phạm hợp đồng xảy ra trên thực tế, người
viết xin trình bày về khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng và
các hình thức quy trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
1.2.1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng trước tiên là một loại trách nhiệm dân sự
nhưng vẫn có nét riêng biệt như: tất yếu giữa hai bên trong quan hệ phải tồn tại một hợp
đồng cụ thể và phải có hiệu lực, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng chỉ phát sinh khi có
sự vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng đó (tức là trách nhiệm này giới hạn trong phạm vi
nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng), chế tài của vi phạm hợp đồng rất phong phú và
chỉ cần có sự vi phạm nghĩa vụ sẽ lập tức phát sinh trách nhiệm dân sự (tùy theo sự thỏa
thuận giữa hai bên và hậu quả của sự vi phạm mà có các chế tài khác nhau được áp đặt
lên người chịu trách nhiệm dân sự).
Quan hệ nghĩa vụ dân sự được xác lập, theo đó mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ
dân sự của các chủ thể được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước.
Như vậy, các bên có nghĩa vụ dân sự đối với nhau kể từ khi quan hệ nghĩa vụ được xác
lập nhưng trách nhiệm dân sự chỉ xuất hiện khi có một bên vi phạm pháp luật dân sự, cụ
thể là vi phạm nghĩa vụ của mình (không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ ), trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Về nguyên tắc, người có nghĩa vụ
phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình trước người có quyền, hậu
quả pháp lý của hành vi vi phạm và đây chính là trách nhiệm dân sự. Vì thế trong giao

11



Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

kết hợp đồng cũng vậy, khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ trong quá trình thực hiện
thì vấn đề trách nhiệm được đặt ra. Có thể nói, việc có những quy định riêng về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong điều chỉnh các quan
hệ hợp đồng. Vì sâu xa, mục đích của việc áp dụng chế tài đối với nghĩa vụ bị vi phạm
trong hợp đồng là để khôi phục lại những quyền mà bên bị vi phạm nghĩa vụ sẽ được
hưởng theo hợp đồng, nghĩa là chế định này có nhiệm vụ bảo vệ những quan hệ hợp đồng
do luật dân sự điều chỉnh, góp phần củng cố pháp luật hợp đồng. Khái niệm “trách
nhiệm” theo nghĩa chủ động được sử dụng để chỉ nghĩa vụ bổn phận, nhiệm vụ của chủ
thể pháp luật. “Trách nhiệm pháp lý theo nghĩa bị động gắn liền với hành vi vi phạm
pháp luật, là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi từ hành vi vi phạm pháp luật của
mình. Đó là sự phản ứng của Nhà nước đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp
luật, vì thế nó gắn liền với sự cưỡng chế của Nhà nước trong những trường hợp cần thiết,
cho dù chủ thể vi phạm pháp luật có chấp nhận hay không chấp nhận”12.
Như vậy, khái niệm về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có thể được hiểu
như sau: “Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý
mang tính chất tài sản phát sinh do quy định của pháp luật hoặc do thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng áp dụng cho bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng nhằm bảo đảm
quyền lợi ích hợp pháp cho bên bị vi phạm”.
1.2.2. Đặc điểm về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà người có nghĩa vụ trong
hợp đồng có nghĩa vụ nhưng không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa
vụ thì sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự với người có quyền theo quy định trong hợp đồng.
Tuy nhiên, nếu sự vi phạm này chưa gây thiệt hại thì người vi phạm chỉ có trách nhiệm
thực hiện đúng nghĩa vụ. Mặt khác, nếu vi phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại cho
người bị vi phạm, thì người vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy,
tùy thuộc vào tính chất, hậu quả của sự vi phạm mà trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng sẽ là trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, trách nhiệm bồi

thường thiệt hại (nếu đã gây thiệt hại), và có thể là trách nhiệm phạt vi phạm nếu các bên
có thỏa thuận. Qua đó ta thấy được trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có những
đặc điểm sau :
- Giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm có quan hệ hợp đồng hợp pháp. Trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng trước tiên là một loại trách nhiệm dân sự, nên tất yếu giữa
hai bên trong quan hệ phải tồn tại một hợp đồng cụ thể và hợp đồng này phải có hiệu lực.
Nếu hợp đồng vô hiệu thì không có trách nhiệm dân sự phát sinh và nếu có phát sinh thì
Phan Trung Hiền, Diệp Thành Nguyên, Huỳnh Thị Sinh Hiền, Giáo trình Pháp luật đại cương, Khoa Luật,
Trường Đại Học Cần Thơ, Nxb Đại Học Cần Thơ, 2014, tr. 80.
12

12


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

sẽ là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, cho nên khi hợp đồng bị vi phạm để phát sinh
trách nhiệm thì giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm phải có quan hệ hợp đồng hợp pháp.
- Nội dung của trách nhiệm phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên hoặc theo quy
định của pháp luật. Trách nhiệm dân sự được hình thành dựa trên sự thỏa thuận hợp pháp
giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Theo đó, người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ khi cam kết điều gì phải chịu trách nhiệm về cam kết bằng tài sản của mình.
Ngược lại, nếu họ không cam kết hay pháp luật không quy định thì cũng không thể chịu
trách nhiệm dân sự.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng chỉ giới hạn trong phạm vi những
thiệt hại thực tế và những thiệt hại có thể tiên liệu được vào thời điểm kí kết hợp đồng.
Bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự
mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho phía
bên kia thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Như vậy,
bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở một hợp đồng đã có

trước, cho nên trách nhiệm bồi thường chỉ giới hạn trong phạm vi những thiệt hại thực tế
và có thể tiên liệu được vào thời điểm kí kết.
- Lỗi là một trong những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng, nhưng không phân biệt hình thức lỗi là cố ý hay vô ý vì mức trách nhiệm
bồi thường không phân hóa theo hình thức lỗi như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Trong trách nhiệm dân sự nói chung hay trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nói
riêng lỗi của người vi phạm là lỗi suy đoán, người vi phạm nghĩa vụ luôn bị coi là có lỗi
nếu họ không chứng minh được rằng họ không có lỗi. Nguyên tắc mà pháp luật Việt Nam
sử dụng, tuân thủ là thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời cho nên việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì hình thức của lỗi hoàn toàn
không ảnh hưởng đến mức giới hạn và phạm vi của trách nhiệm hay nói đúng hơn là
không ảnh hưởng đến mức độ bồi thường.
- Thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không đương
nhiên làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên. Trong hợp đồng khi bên vi phạm
nghĩa vụ và gây thiệt thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm. Mục đích
của bồi thường là bù đắp, hạn chế những tổn thất, thiệt hại đã gây ra cho bên bị thiệt hại
và mục đích của hợp đồng được giao kết là hướng tới lợi ích của các bên muốn đạt được.
Vì vậy, khi thực hiện xong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không đương
nhiên làm chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên, vì lợi ích của các bên hướng tới khi
kí kết là chưa đạt được.

13


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

1.2.3. Các hình thức quy trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
1.2.3.1. Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng
Trên cơ sở hợp đồng, một bên (A) phải giao một tài sản, thực hiện một công việc,
không thực hiện một công việc hay thanh toán một khoản tiền cho bên kia (B). Tuy

nhiên, A đã không tiến hành đúng hợp đồng và vấn đề đặt ra là B có được yêu cầu A tiếp
tục thực hiện hợp đồng không? Đây là vấn đề “buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng”
hay “buộc thực hiện đúng hợp đồng” (LTM sử dụng cụm từ “buộc thực hiện đúng hợp
đồng” nhưng BLDS thường nói đến yêu cầu “tiếp tục” thực hiện đúng hợp đồng). Khái
niệm được LTM 2005 định nghĩa: “là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện
đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện” (khoản 1,
Điều 297). Biện pháp này được sử dụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm trong
quan hệ hợp đồng.
Khi áp dụng biện pháp buộc tiếp tục thực đúng hợp đồng, bên yêu cầu không cần
phải chứng minh là mình có thiệt hại. Bởi lẽ, buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng chỉ
là hệ quả của hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng hợp pháp: bên có nghĩa vụ cam kết
cung cấp cho bên có quyền một lợi ích và hiệu lực ràng buộc thực hiện hợp đồng buộc
bên có nghĩa vụ cung cấp lợi ích này cho bên có quyền. Các bên phải thực hiện những gì
mà mình đã cam kết. Họ chỉ cần chứng minh rằng lợi ích họ mong đợi chưa được bên có
nghĩa vụ cung cấp.
1.2.3.2. Bồi thường thiệt hại
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được BLDS 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên,
trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà
chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách
nhiệm, thời hạn hưởng bồi thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người sống trong xã
hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ
pháp lý của mình gây thiệt hại cho người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do
hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho
người khác được hiểu là bổi thường thiệt hại

14



Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự
mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây thiệt hại cho người
khác thì phải bồi thường những thiệt hại đó mà mình gây ra.
1.2.3.4. Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng
“Đơn phương” là sự thể hiện ý chí của riêng một bên, không có sự thỏa thuận hoặc
sự tham gia của bên kia. Vậy đơn phương chấm dứt hợp đồng trước hết là việc chấm dứt
hợp đồng theo ý chí của “riêng một bên”. Việc chấm dứt hợp đồng do một bên mong
muốn, yêu cầu diễn ra “nửa chừng” khi hợp đồng đã giao kết, đang trong quá trình thực
hiện, chưa thực hiện xong nghĩa vụ hợp đồng và chưa hết thời hạn hợp đồng. Ý chí chấm
dứt hợp đồng “nửa chừng” của một bên nào đó phải “đúng”, tức là bên đó có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng xuất phát từ quyền
lợi hợp pháp của một trong các bên (cụ thể là bên có quyền này) không được đảm bảo.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng là sự thể hiện ý chí chấm dứt hợp đồng của một bên chủ
thể trên cơ sở sự thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật do quyền và lợi ích hợp pháp
của họ không được thực hiện hoặc không được đảm bảo thực hiện.
Điểm giống nhau giữa đơn phương chấm dứt và hủy bỏ hợp đồng trong hợp đồng
dân sự : Đều là một bên đơn phương tuyên bố chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng khi có những
điều kiện do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên đơn phương chấm dứt
hay hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường nếu bên kia vi phạm nghĩa vụ mà đó là điều
kiện chấm dứt, hủy bỏ phải có nghĩa vụ báo cho bên kia, nếu không báo mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường. Ai có lỗi dẫn đến hợp đồng bị chấm dứt, hủy bỏ thì người đó phải có
trách nhiệm bồi thường.
Sự khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng trong hợp
đồng dân sự là:
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng:
+Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng phải dựa vào căn cứ do các bên thỏa thuận

hoặc pháp luật có quy định, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có
quy định thì các bên không được đơn phương tuyên bố chấm dứt hợp đồng.
+ Hợp đồng có giá trị từ thời điểm đình chỉ trở về trước.
+ Những gì đã thực hiện vẫn có hiệu lực, hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia
nhận được tuyên bố đơn phương chấm dứt. Bên nào chưa thực hiện nghĩa vụ trước bên
kia thì phải thực hiện hoàn tất nghĩa vụ.
-

Hủy bỏ hợp đồng:

15


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

+ Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng khi bên kia vi phạm là điều kiện hủy bỏ theo
thỏa thuận hoặc theo pháp luật có quy định thì không phải bồi thường.
+ Hợp đồng không có giá trị thi hành, tức là chưa có hợp đồng.
+ Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả được bằng
tiền.
Trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đều có quy định về đơn phương chấm
dứt, hủy bỏ hợp đồng. Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng là biện pháp nặng nhất
triệt tiêu hợp đồng nên hợp đồng sẽ không được thực hiện và các bên không đạt được
những gì họ mong đợi, là biện pháp cuối cùng khi mà không thể còn biện pháp nào khác
để tiếp tục hợp đồng dù là một phần. Chính vì vậy mà pháp luật cần hạn chế áp dụng biện
pháp này.
1.2.3.4. Phạt vi phạm hợp đồng
Chế tài phạt vi phạm đã được quy định trong các văn bản pháp luật như LTM 1997,
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, BLDS 2005…. Hiện nay chế định này ngày càng được

các bên sử dụng nhiều hơn như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình
trong các quan hệ hợp đồng hợp tác kinh tế. Chế tài này chỉ được áp dụng khi thỏa thuận
được cụ thể hóa thành điều khoản trong hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận với nhau về
mức phạt vi phạm và thể hiện chi tiết nội dung này trong hợp đồng. Đây là căn cứ để yêu
cầu bên vi phạm trả khoản tiền phạt cho bên bị vi phạm. Phạt hợp đồng là một chế tài
được áp dụng phổ biến đối với tất cả các hành vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng,
không cần tính đến hành vi đó đã gây ra thiệt hại hay chưa gây thiệt hại. So với việc buộc
tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng thì phạt hợp đồng có chức năng chủ yếu trừng phạt,
phòng ngừa vi phạm hợp đồng, đề cao ý thức tôn trọng pháp luật nói chung và pháp luật
hợp đồng nói riêng. Mục đích chủ yếu mà bên bị vi phạm hướng tới khi áp dụng chế tài
này không phải là “hành vi” giống như buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng mà là
khoản tiền phạt mà bên vi phạm phải trả.
1.3. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về việc ghi nhận trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là phương tiện
công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, bảo
đảm sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội. Pháp luật không chỉ là một công cụ
quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển ý thức
đạo đức làm lạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp những giá trị mới. Việc Pháp
luật ghi nhận trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc
16


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích của các bên tham gia giao kết hợp đồng.
1.3.1. Vai trò của pháp luật về việc ghi nhận trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng
Hợp đồng là một trong những chế định quan trọng và xuất hiện sớm nhất trong lịch

sử của pháp luật dân sự. Cùng với sự xuất hiện của hợp đồng là một trong những phương
thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình. Ở Việt Nam trước khi BLDS 1995 ra đời thì cũng có nhiều văn bản
pháp luật khác đưa ra những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng như Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế 1989, Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991. Tuy nhiên đến khi BLDS 1995 ra
đời và được sửa đổi bổ sung tại BLDS 2005 thì những quy định về hợp đồng đã được
xem xét, quy định một cách đầy đủ và hoàn thiện hơn. Hiện nay Việt Nam đang đẩy
mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Cùng với sự phát
triển thì các tranh chấp về hợp đồng trong quá trình thực hiện cũng ngày một gia tăng và
mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng phải hoàn thiện hơn để
giải quyết một cách triệt để. “Về bản chất, nghĩa vụ hợp đồng là quan hệ tạm thời, và
thậm chí là quan hệ ngắn hạn phải được chấm dứt vào một lúc nào đó. Phương thức
thông thường nhất để chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng là việc thực hiện đúng và đầy đủ hợp
đồng”.13
Khi đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng, từ phía người có thẩm quyền bao giờ cũng
nảy sinh hai câu hỏi độc lập : người có nghĩa vụ đã thực hiện những hành vi hai bên cam
kết chưa? Nếu có, thì đã thực hiện như thế nào và có đúng không ? Trường hợp thứ nhất
là nói về việc thực hiện những hành vi (hoặc không được thực hiện những hành vi) thuộc
đối tượng của hợp đồng – hay còn gọi là việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế;
trường hợp thứ hai là nói về chất lượng thực hiện nghĩa vụ đến đâu, tức là việc bên có
nghĩa vụ có tuân thủ đúng các điều kiện này, có thể nói rằng, bên có nghĩa vụ đã thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế và đồng thời thực hiện đúng nghĩa vụ. Ngược lại, nếu
các điều kiện về nghĩa vụ không được tuân thủ nghiêm ngặt, bên có nghĩa vụ dù đã thực
hiện những hành vi thuộc đối tượng của hợp đồng vẫn sẽ bị coi là thực hiện không đúng
nghĩa vụ. Chính vì vậy, những quy định về việc đảm bảo nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ
trong hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân
sự của nền kinh tế thị trường.
Có nhiều trường hợp các bên giao kết hợp đồng với nhau thì một số tranh chấp nhỏ
xảy ra một trong hai bên lại lợi dụng sự thiếu chặt chẽ trong hợp đồng để thu lợi riêng

13

Nguyễn Ngọc Đào, Luật La Mã, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 105.

17


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

cho mình. Theo thực tế BLDS năm 2005 ở Mục 3 tại khoản 1 Điều 302 cũng đã ghi nhận
“vi phạm hợp đồng” nói riêng và vi phạm hợp đồng nghĩa vụ dân sự nói chung cũng như
bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên, mà các bên khi giao kết hợp đồng và trong quá
trình thực hiện hợp đồng phải tuân theo nếu hợp đồng có tranh chấp thì dựa theo luật để
giải quyết tranh chấp, tạo nên hành lang pháp lý buộc mọi người phải tuân theo khuôn
khổ của pháp luật. Vì vậy vai trò của pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự hình
thành và phát triển ý thức đạo đức theo khuôn khổ đã trở thành một trong những yêu cầu
cấp thiết.
Quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường cho thấy pháp luật đóng vai trò
ngày càng quan trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như quan hệ xã hội trong hợp đồng nó mang yếu
tố hết sức quan trọng thì luật được đưa vào để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nó là
thước đo để mọi người tuân theo. Riêng đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
được chỉ được ghi nhận tại khoản 1 Điều 302 của BLDS năm 2005… đòi hỏi mọi người
tích cực hơn khi đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật, xã
hội tri thức, nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao pháp luật, chủ yếu là sự điều
chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội.
Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người bình đẳng
trước pháp luật) làm cho mọi thành phần trong xã hội có thể phát huy khả năng sáng tạo
của mình trong môi trường lành mạnh – môi trường vận hành có trật tự, nề nếp, kỷ cương
của một xã hội năng động, phát triển văn minh, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với

mỗi công dân trong giai đoạn mới.
1.3.2. Ý nghĩa của pháp luật trong việc ghi nhận trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng
Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã
hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, nhất là trong quá trình đất nước ta đang
mở cửa giao lưu kinh tế, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như là một tất
yếu khách quan. Điều đó có ý nghĩa quan trọng không chỉ nhằm mục đích xây dựng một
xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh, mà còn hướng đến bảo vệ lợi ích của các chủ thể
tham gia giao dịch dân sự. Sự ghi nhận của pháp luật đối với trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng có ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên
một số phương diện sau đây:
- Thứ nhất, việc ghi nhận của pháp luật đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.

18


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể tham gia
nhằm thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Để xã hội ngày càng phát
triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội khác nhau và trong các quan hệ xã
hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích luôn là tâm điểm để hướng tới. Hiến pháp và các văn
quy phạm bản pháp luật có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể nói chung của các bên tham gia giao dịch dân sự
nói riêng.,, Bằng việc qui định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi thường… có ý nghĩa to
lớn góp phần đảm bảo lợi quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
- Thứ hai, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Nguyên tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm về hành vi và

hậu quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc một người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng nói riêng hay trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung đã cụ
thể hóa và thể hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong BLDS 2005, tuy nhiên vẫn có
trường hợp nếu nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Thứ ba, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng.
Khi các bên tham gia hợp đồng thì có quyền tự do, tự nguyện giao kết hợp đồng,
nhưng sự tự do ấy phải nằm trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Việc pháp luật
quy định về các điều kiện để chủ thể giao kết hợp đồng và các biện pháp chế tài nếu các
bên không tuân thủ các điều kiện đó là nhằm bảo vệ trật tự công, tạo hành lang pháp lý an
toàn cho các chủ thể tham gia hợp đồng dân sự. Do vậy, chế định pháp lý về hợp đồng
trong đó có các quy định về vi phạm hợp đồng nói riêng hay vi phạm nghĩa vụ dân sự
nói chung đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
- Thứ tư, cơ sở để giải quyết các tranh chấp xảy ra.
Khi có tranh chấp thì chính những cam kết mà các bên đã thỏa thuận sẽ là chứng cứ
quan trọng để xác định xem ai là người vi phạm, cần phải áp dụng biện pháp chế tài như
thế nào cho phù hợp. Nếu trong trường hợp nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trong quá trình
thực hiện, thì cam kết đóng vai trò quan trọng xác định lỗi của các bên tham gia, trên cơ
sở đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm khi giải quyết việc vi
phạm hợp đồng.
- Thứ năm, bảo đảm cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Những cam kết thỏa thuận của các chủ thể tham gia hợp đồng là căn cứ quan trọng
để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra xem các chủ thể đó có thực hiện nghiêm
19


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng


túc theo quy định của pháp luật hay không. Đồng thời áp dụng các biện pháp chế tài cho
các bên vi phạm khi cần thiết.
- Thứ sáu, bảo đảm sự ổn định của các quan hệ sở hữu tài sản
Khi một trong hai bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng từ những cam kết thỏa thuận, bên
vi phạm phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi từ cam kết hợp đồng, ví dụ : phạt vi phạm hợp
đồng… Việc quy định này có ý nghĩa khắc phục những thiệt hại cho bên bị vi phạm,
đồng thời còn tạo nên sự công bằng xã hội, tạo ra sự ổn định trong giao lưu tài sản, góp
phần ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản.
1.4. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng ở góc độ so sánh và lược sử phát triển
Chế định trách nhiệm dân sự luôn là một chế định lớn được sự quan tâm của các nhà
làm luật, các luật gia trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội. Dựa vào tính chất và nguồn
gốc của nghĩa vụ được tạo lập mà các vi phạm trách nhiệm được phân thành trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng (trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng) và trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng (trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ pháp lý do pháp luật quy định
chung). Với mong muốn mang đến một cái nhìn toàn diện hơn về trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng, người viết sẽ trình bày về lược sử đồng thời sau đó phân tích, so sánh
những điểm tương đồng và khác biệt với nghĩa vụ dân sự, cũng như phân biệt với trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
1.4.1. Lược sử phát triển của pháp luật về Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng
Trong những chế định pháp lý thì hợp đồng là một chế định quan trọng, có bề dày
lịch sử. Ở nước ta, các quy định về hợp đồng đã tồn tại trong cổ luật. Tuy nhiên, các Bộ
cổ luật đã từng tồn tại ở Việt Nam như Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long không có
quy định riêng về hợp đồng. Trong các thời kì này, các quy định về hợp đồng không
nhiều; các nguyên tắc chung về giao kết hợp đồng được quy định xen kẽ trong các quy
định hình sự14. Nhìn chung các bộ luật trong thời kỳ này đều có nội dung tổng hợp bao
gồm nhiều quy phạm pháp luật của nhiều ngành luật khác nhau. Bố cục của các bộ luật
về cơ bản đều mô phỏng theo các bộ luật của Trung Quốc, cách trình bày của các bản đều
dung trong lĩnh vực hình sự, hay các lĩnh vực hành chính, dân sự, ruộng đất, hôn nhân và
gia đình,… đều phổ biến là dùng các quy phạm pháp luật hình sự để trình bày. Các nhà
làm luật phong kiến về cơ bản chưa có khái niệm phân chia pháp luật thành các ngành

luật như thời hiện đại sau này. Tuy nhiên các bộ luật thuộc các triều đại phong kiến Việt
Nam đã phần nào điều chỉnh được các mối quan hệ xã hội trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội lúc bấy giờ.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2006, tập 2,
tr. 93.
14

20


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

Trong pháp luật cổ Việt Nam, hoặc thậm chí trong pháp luật một số nước đều không
thấy sự phân biệt rõ ràng giữa trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng và trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ chung). Nếu nhìn vào pháp luật các nước khác,
có thể thấy một vài quốc gia không có sự phân biệt rạch ròi về trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Như trong pháp luật dân sự của Nhật Bản, trách nhiệm
dân sự trong hợp đồng không được quy định cụ thể mà pháp luật chỉ chia ra hai trường
hợp chịu trách nhiệm là trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm do vi
phạm nghĩa vụ.15 Còn trong Bộ luật dân sự của Pháp thì chỉ có quy định về bồi thường
thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ, theo đó, người có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt
hại nếu không thực hiện hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ, trừ khi chứng minh được rằng
việc không thực hiện nghĩa vụ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ là do một nguyên nhân
khách quan không thuộc trách nhiệm của mình mà không do ác ý.
Ở các bộ luật cổ như Quốc triều Hình luật, chế định trách nhiệm dân sự đã được
hình thành, nhưng qua những quy định cụ thể có thể thấy trách nhiệm dân sự được áp
dụng chung trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trong khế ước hoặc vi phạm các nghĩa vụ
khác ngoài khế ước, ví dụ như : Điều 455 Quốc triều Hình luật quy định cấm không được
chứa chấp quân trộm cướp mà người chủ trang trại lại chứa chấp, thì ngoài việc bị phạt

500 quan tiền và tịch thu cả trang trại, người đó còn phải bồi thường cả tang vật nếu có;
hay điều 111 Hoàng Việt luật lệ quy định người giữ kho thu thuế lương mà không đúng
bằng dấu của quan thì bị phạt, số lượng dư ấy được trả về cho chủ, quan lại biết mà
không tố cáo thì đồng tội với người giữ kho, không biết thì không có tội (thể hiện dấu
hiệu lỗi)…16. Qua các ví dụ trên, có thể nhận ra các nhà làm luật thời kỳ phong kiến cũng
chú trọng phân biệt lỗi cố ý và vô ý trong việc gây thiệt hại để ấn định mức bồi thường,
tuy không phân định nghĩa vụ theo khế ước hay ngoài khế ước. Đến thời kỳ đất nước ta
bị thực dân Pháp đô hộ, trách nhiệm dân sự cũng được Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Hoàng
Việt Trung Kỳ hộ luật quy định, và đã được tách bạch ra khỏi trách nhiệm hình sự, nhưng
trách nhiệm dân sự vẫn chỉ được tiếp cận một cách chung, khái quát, chưa được phân
định thành trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ trong hay ngoài hợp đồng. Điều này
thể hiện qua quy định sau của hai Bộ luật: Người nào làm bất cứ việc gì gây thiệt hại cho
người khác do lỗi của mình đều phải bồi thường thiệt hại (Điều 712 Bộ luật Bắc Kỳ và
Điều 761 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật).
Pháp luật dân sự của nước ta sau khi giải phóng đất nước, giành độc lập, với xu
hướng pháp luật xã hội chủ nghĩa đã có sự phân biệt rành mạch giữa trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 của nước ta đã
Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản”, Nxb. Chính trị quốc gia,
1995.
16
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, “Một số vấn đề pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp
thuộc”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2008.
15

21


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

giành một chương riêng gồm 13 Điều từ Điều 41 đến Điều 55 quy định ở Chương 4 về

trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, ví dụ như: Điều 44 là nói về trách nhiệm dân sự do
không thực hiện hợp đồng, Điều 45 quy định trách nhiệm do chậm thực hiện hợp
đồng…Điều 55 quy định về phạt vi phạm hợp đồng. Đến lúc Bộ luật dân sự năm 1995
của nước ta ra đời, thì về trách nhiệm dân sự đã được quy định tại Chương 1, Mục 3 phần
thứ 3 (nghĩa vụ dân sự và hợp dồng dân sự) từ Điều 308 đến Điều 314, ví dụ như: Điều
308 là nói về trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung hay theo cách
hiểu là vi phạm hợp đồng nói riêng, phạt vi phạm cũng được quy định gồm Điều 377, 378
và Điều 379. Những vấn đề như khái niệm phạt vi phạm, mức phạt, và mối quan hệ giữa
phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại được quy định rõ ràng ở 3 điều này và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã được quy định thành một chương riêng là
chương V, Mục 1 là các quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mục 2 là
xác định thiệt hại và Mục 3 là các trường hợp cụ thể đối với bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Khi Bộ luật Dân sự năm 2005 của nước ta được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, thay thế cho Bộ luật dân sự năm 1995 , vấn đề
trách nhiệm dân sự được quy định ở Mục 3 Chương XVII từ Điều 302 đến Điều 308
được quy định rất rõ ràng cho thấy vấn đề trách nhiệm dân sự đã được các nhà làm luật
quan tâm và chú trọng không chỉ từ các bộ luật thời xưa mà còn vào thời hiện đại, nhất là
trong thời kì nước ta mở cửa giao lưu kinh tế, giao dịch về hợp đồng ngày càng nhiều và
vấn đề quy định về trách nhiệm dân sự là một trong những yếu tố quan trọng giúp bảo vệ
lợi ích của các bên khi tham gia giao dịch. Các vấn đề phạt vi phạm không còn là một
biện pháp đảm bảo nữa mà nó được đưa vào nội dung của hợp đồng, các bên có thể thỏa
thuận phạt vi phạm như là một chế tài, đây là một điểm tiến bộ hơn so với BLDS 1995,
BLDS năm 2005 chứa đựng các quy định mang tính nguyên tắc chung về hpợp đồng, và
lợi ích công cộng, cho nên vấn đề trách nhiệm dân sự nói chung và khi vi phạm hợp đồng
nói riêng cũng được cụ thể hóa cùng với những quy định về chế định hợp đồng góp phần
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch dân sự.
1.4.2. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng ở góc độ so sánh
1.4.2.1. So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và nghĩa vụ dân sự
Trước khi so sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và nghĩa vụ dân sự thì người

viết xin đề cập về các khái niệm liên quan. Từ thời La Mã, nghĩa vụ đã được hiểu “như là
ràng buộc pháp lý và theo đó, chúng ta buộc phải làm một việc gì đó phù hợp với Nhà
nước của chúng ta”, “bản chất của nghĩa vụ không phải ở chỗ đem lại cho chúng ta một
vật thể hay một seritus nào đó mà là buộc một người nào đó phải đem lại hay làm một cái

22


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

gì đó cho chúng ta” (Bộ Degest, quyển 44 – Điều 73)17. Nghĩa vụ theo cách hiểu thông
thường là những gì mà một người phải làm hoặc không được làm đối với người khác.
Theo cách hiểu này, nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó
một bên phải thực hiện những hành vi nhất định. Để hiểu một cách đầy đủ về nghĩa vụ,
thuật ngữ này cần phải được xem xét theo các phương diện sau đây: Thuật ngữ “nghĩa
vụ” được dùng trong đời sống hàng ngày là sự xử sự mà một người phải thực hiện vì một
hoặc nhiều người khác nhưng sự thực hiện đó không được đặt dưới sự bảo đảm của Nhà
nước bằng pháp luật. Pháp luật không buộc người đó phải thực hiện, họ thực hiện nghĩa
vụ hoàn toàn theo lương tâm để làm tròn bổn phận làm người. Ở phương diện này, nghĩa
vụ được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức. Nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật dân sự
được hiểu là một bộ phận không tách rời trong nội dung của một quan hệ pháp luật dân
sự. Nó bao gồm những hành vi mà chủ thể một bên phải thực hiện vì lợi ích của chủ thể
bên kia như chuyển giao một tài sản, thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện
một công việc đã được xác định…Bên có nghĩa vụ phải thực hiện các nghĩa vụ trước
quyền yêu cầu của phía bên kia. Trong Bộ luật dân sự của nước ta, nghĩa vụ dân sự được
định nghĩa tại Điều 280 :“Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
(sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất
định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)18.
Như vậy, nếu so sánh định nghĩa về nghĩa vụ dân sự của Bộ luật dân sự nước ta hiện

nay với các bộ luật dân luật trước đây, chúng ta thấy rằng dù có khác nhau về ngôn từ
nhưng các bộ luật đều có sự thống nhất khi nhìn nhận nghĩa vụ dân sự về các khía cạnh
sau đây (cũng chính là những đặc điểm của nghĩa vụ dân sự):
- Nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng là một quan hệ pháp luật dân sự.
Nghĩa vụ dân sự bao giờ cũng được phát sinh từ một sự kiện mà đã được luật dự liệu
tới một hậu quả pháp lí nhất định. Đó là những sự kiện làm hình thành một quan hệ và
quan hệ này được sự tác động của pháp luật, trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên chủ
thể được xác lập thừa nhận và bảo đảm thực hiện. Vì thế, nghĩa vụ dân sự là một quan hệ
pháp luật. Đặc trưng này cho chúng ta thấy nghĩa vụ dân sự cũng đầy đủ ba thành phần:
chủ thể, khách thể, nội dung như bất kì một quan hệ pháp luật nào khác.
- Các bên chủ thể trong nghĩa vụ luôn được xác định cụ thể.

17
18

Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật La Mã, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1994, tr. 73.
Đinh Văn Thanh, Nguyễn Minh Tuấn, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.

7.

23


Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

- Quyền và nghĩa vụ dân sự của hai bên chủ thể đối lập nhau, (đối với nghĩa vụ dân
sự trong hợp đồng thì: nghĩa vụ của một chủ thể tương ứng với quyền của chủ thể khác –
những chủ thể được xác định).
- Quyền dân sự của hai bên chủ thể là một quyền đối nhân, (trong hợp đồng thì
quyền dân sự của hai bên chủ thể là một quyền đối nhân, có thể đối vật).

“Vi phạm hợp đồng” nói riêng và vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung được ghi nhận
tại khoản 1 Điều 302 BLDS 2005: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Chính vì
vậy, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và nghĩa vụ dân sự có điểm giống nhau và khác
nhau là :
 Giống nhau :
+ Giữa trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và nghĩa vụ dân sự đều có tính pháp lý.
+ Chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người
có hành vi vi phạm đó.
+ Luôn mang đến một hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và nghĩa vụ dân sự còn có những điểm
giống nhau là:
+ Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm pháp luật của trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng và nghĩa vụ dân sự là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự.
+ Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự hay trách nhiệm dân sự phát sinh
từ hợp đồng bao giờ cũng liên quan trực tiếp (gắn liền) với tài sản. Lợi ích mà các bên
hướng tới trong các quan hệ nghĩa vụ dân sự bao giờ cũng mang tính chất tài sản, vì vậy
việc vi phạm nghĩa vụ của bên này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến với lợi ích vật chất của
bên kia. Vậy nên, trách nhiệm dân sự của người vi phạm là phải bù đắp cho bên bị vi
phạm những lợi ích vật chất.
+ Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ dân sự hay vi phạm nghĩa vụ trong
hợp đồng phải gánh chịu là việc bắt buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ khi nghĩa vụ
chưa được hoàn thành, phải bồi thường thiệt hại khi gây ra thiệt hại nhằm để thỏa mãn
quyền lợi chính đáng của người bị vi phạm, khắc phục hậu quả vật chất cho người bị vi
phạm.
 Khác nhau :
+ Nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 280 BLDS 2005 : “Nghĩa vụ dân sự là
việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
24



Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. Như vậy đây là nghĩa vụ dân sự chung do
pháp luật dân sự quy định. Còn trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: nghĩa vụ phát sinh từ
đồng (bao gồm nghĩa vụ trong hợp đồng và nghĩa vụ ngoài hợp đồng) là một trong những
căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự.
+ Nghĩa vụ dân sự là nghĩa vụ có tính chất pháp lý, có tính chất bắt buộc, nghĩa là
nếu không được hiện một cách tự giác, thì có thể được cưỡng chế để thực hiện. Theo
Điều 281 BLDS 2005, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ sau đây : 1 - Hợp đồng
dân sự; 2 - Hành vi pháp lý đơn phương; 3 - Thực hiện công việc không có ủy quyền; 4 Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật; 5 Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật; 6 - Những căn cứ khác do pháp luật quy định. Suy
cho cùng, tất cả các nghĩa vụ đều phát sinh từ luật. Thế nhưng, có thể nhận thấy rằng luật
có xu hướng thừa nhận sự phát sinh của nghĩa vụ từ hai nguồn chính : 1- Các giao dịch,
tức là sự bày tỏ ý chí của chủ thể của quan hệ pháp luật nhằm tạo ra các hệ quả pháp lý; 2
- Các sự kiện pháp lý, tức là các sự kiện dẫn đến sự ràng buộc chủ thể của quan hệ pháp
luật vào một nghĩa vụ, độc lập với ý chí của chủ thể đó. 19 Từ đó thấy được căn cứ xác lập
nghĩa vụ dân sự đều phát sinh từ luật. Trong khi đó căn cứ xác lập trách nhiệm dân sự
trong hợp đồng : nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng - phát sinh từ sự thỏa thuận giữa
các bên giao kết hợp đồng hoặc phát sinh từ những quy định của pháp luật.
1.4.2.2. So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng
Trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm dân sự trong hợp đồng (trách
nhiệm hợp đồng) và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng (trách nhiệm ngoài hợp đồng).
Có tác giả chia trách nhiệm ngoài hợp đồng thành trách nhiệm dân sự phạm và trách
nhiệm chuẩn dân sự phạm 20.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không thực
hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Người không thực hiện hoặc không thực hiện

đúng nghĩa vụ đã được giao kết mà gây thiệt hại cho người cùng giao kết, thì phải bồi
thường thiệt hại cho người sau này. Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách nhiệm
hình thành từ việc thực hiện một hành vi, cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại cho một người và
hành vi đó không liên quan đến bất kỳ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt
hại và người bị thiệt hại. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng hay trách nhiệm dân sự
Tăng Thanh Phương, Tập bài giảng Luật dân sự Việt Nam – Phần Nghĩa Vụ, Khoa Luật, Trường Đại Học
Cần Thơ, 2012, tr. 5.
20
Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, Quyển II – Nghĩa vụ và khế ước, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản,
Sài Gòn, 1963, tr. 433.
19

25


×