Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích 03 (ba) quy định của pháp luật việt nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động của TTTM và bình luận thực tiễn áp dụng cá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.01 KB, 19 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển, các tranh
chấp thương mại cũng xảy ra ngày càng phức tạp, gay gắt hơn trước. Do đó, các
nhà làm luật đã đề ra các biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại gồm có
thương lượng, hoà giải, trọng tài và Toà án. Mỗi một phương thức đều có
những ưu nhược điểm của riêng mình, các bên tranh chấp có thể tự do lựa chọn
cách thức giải quyết mà mình thấy thích hợp nhất. Trong đó, có thể nói trọng tài
là hình thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến, được áp dụng rộng rãi do những
ưu điểm và lợi thế mà các hình thức giải quyết tranh chấp khác không có được.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại, Luật Trọng tài
thương mại năm 2010 đã có nhiều quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với
hoạt động của trọng tài thương mại để phương thức trọng tài ngày càng được áp
dụng rộng rãi và có hiệu quả cao hơn nữa. Do đó, em xin chọn đề tài “Phân
tích 03 (ba) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự hỗ trợ của
Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực tiễn áp
dụng các quy định đó” làm bài tập học kỳ của mình để có cơ hội đi sâu nghiên
cứu hơn về vấn đề này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Trọng tài thương mại
a. Khái niệm
* Định nghĩa
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này” (Khoản 1 Điều 3
LTTTM 2010)
* Đặc điểm
- TTTM là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo pháp luật
- Trọng tài là sự kết hợp của hai yếu tố thỏa thuận và tài phán.
- Pháp luật của nhiều nước nói chung và cũng như pháp luật Việt Nam
nói riêng đều ghi nhận sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc tổ chức và hoạt động
của trọng tài thương mại.


- Phán quyết của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm và không thể
kháng cáo trước bất kì cơ quan, tổ chức nào.
b. Phân loại


Nhìn chung, trọng tài ở nhiều nước trên thế giới cũng như trọng tài Việt
Nam thường tổ chức dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc (trọng tài Ad-hoc)
và trọng quy chế (trọng tài thường trực).
- Trọng tài vụ việc: là hình thức trọng tài do các bên thành lập để giải
quyết cho từng vụ tranh chấp mà họ yêu cầu. Sau khi vụ việc đã được giải
quyết xong thì trọng tài vụ việc sẽ tự giải tán.
- Trọng tài quy chế: là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường
xuyên, có điều lệ, có quy tắc tố tụng riêng, có bản danh sách trọng tài viên.
c. Ưu điểm và nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng TTTM
* Ưu điểm
- Thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng
- Các bên có khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập HĐTT giải quyết
vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am
hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp
nhanh chóng, chính xác.
- Nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai giúp các bên tham gia giữ
được bí mật kinh doanh.
- Các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng tài, kiểm
soát được việc cung cấp chứng cứ của mình.
- Trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các bên, không
nhân danh quyền lực tự pháp của Nhà nước.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thể hiện tính năng động, linh hoạt
và mềm dẻo, do đó dễ thích ứng.
* Nhược điểm
- Trọng tài tuyên án chỉ sau một cấp xét xử duy nhất, nên đôi khi các

quyết định của trọng tài là không chính xác, gây thiệt hại đối với doanh nghiệp.
- Việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý
thức tự nguyện của các bên.
- Khi không được thoả thuận sử dụng trọng tài thương mại để giải quyết
tranh chấp kinh doanh trong hợp đồng thì khi xảy ra tranh chấp, trọng tài không
có thẩm quyền giải quyết ngay cả khi doanh nghiệp có ý định đó.
2. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động TTTM
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: trọng tài là cơ quan tài phán
phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên
tranh chấp giao phó, ủy nhiệm do đó trọng tài không mang trong mình quyền
lực nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang


tính quyền lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước mà đại diện
cho ý chí của các bên tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho TTTM những khó
khăn khi không có sự đồng thuận, hợp tác thiện chí của cả hai bên tranh chấp
trong quá trình tố tụng cũng như việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi những
khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của
Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Vì vậy sự hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất
quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động trọng tài, để trọng tài có thể giải
quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng giao phó.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động trọng
tài: Nhà nước nói chung và các cơ quan Nhà nước nói riêng có thẩm quyền
quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà
nước thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã
thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra
hành lang pháp lý cho hoạt động của trọng tài.
Như vậy mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và Trọng tài là mối quan hệ
hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và giám sát của Toà án mà trọng tài tuy là
tổ chức tài phán phi chính phủ nhưng vẫn hoạt động được một cách có hiệu

quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám
sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp của TTTM là một sự tiếp sức cho
TTTM, thể hiện quan điểm của nhà nước trong việc đa dạng hoá phương thức
giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh
doanh được sự bảo hộ của nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện
giao dịnh thương mại.
II. 3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH THỂ
HIỆN SỰ HỖ TRỢ CỦA TOÀ ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài được thể hiện ở những vấn đề sau:
1. Triệu tập người làm chứng
Khoản 1 Điều 47 LTTTM 2010 có quy định HĐTT có quyền yêu cầu
người làm chứng có mặt tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong
trường hợp người làm chứng không đến họp nhưng không có lý do chính đáng
và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết tranh chấp thì theo
khoản 2 Điều 47, HĐTT gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết
định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của HĐTT “Trường hợp người
làm chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên
họp nhưng không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho


việc giải quyết tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án
có thẩm quyền ra quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội
đồng trọng tài.”
Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị
triệu tập người làm chứng của HĐTT, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phân
công một Thẩm phán xem xét, giải quyết yêu cầu triệu tập người làm chứng.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải ra
quyết định triệu tập người làm chứng. Người làm chứng có nghĩa vụ nghiêm
chỉnh thi hành quyết định của Tòa án. Tòa án cần gửi quyết định triệu tập cho

HĐTT, người làm chứng đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Đây là quy định mới của LTTTM 2010 so với Pháp lệnh TTTM 2003.
Pháp lệnh TTTM không xác lập cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong
việc triệu tập nhân chứng. Bởi lẽ trong quá trình giải quyết tranh chấp không
chỉ có các bên mà nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba hoặc bên thứ
ba nhưng TTTM lại không có thẩm quyền triệu tập người làm chứng. Do đó
quá trình giải quyết tranh chấp sẽ rất dễ bị ảnh hưởng nếu không có sự hỗ trợ từ
phía Tòa án, HĐTT khó có thể triệu tập người làm chứng khi mà họ không có
thiện chí tham gia giải quyết vụ tranh chấp. Để khắc phục điều này, khi xây
dựng LTTTM 2010, các nhà làm luật đã bổ sung thêm quy định, cho phép
HĐTT có thể yêu cầu Toà án hỗ trợ triệu tập nhân chứng, qua đó việc triệu tập
người làm chứng của HĐTT được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế thi
hành của Tòa án. Sự triệu tập của Tòa án đối với người làm chứng mang tính
bắt buộc, đòi hỏi người làm chứng phải có nghĩa nghiêm chỉnh chấp hành quyết
định của Tòa án, nhờ đó tạo thuận lợi hơn trong việc giải quyết tranh chấp và
giúp việc giải quyết tranh chấp được tiến hành nhanh hơn.
Như vậy, sự hỗ trợ của Tòa án trong việc triệu tập người làm chứng thể
hiện ở chỗ, bằng quyền lực cũng như những công cụ cưỡng chế của mình, việc
Tòa án ra quyết định triệu tập người làm chứng sẽ được người làm chứng thực
hiện một cách nghiêm minh hơn, góp phần làm cho hoạt động, cũng như phán
quyết của hội đồng trọng tài được chuẩn xác hơn, hoạt động của trọng tài được
thực hiện thuận lợi hơn.
2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Có các tranh chấp xảy ra với nội dung phức tạp, mức độ tranh chấp gay
gắt… chúng đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi cho
các đương sự. Do đó, trong quá trình HĐTT giải quyết vụ tranh chấp, nếu cảm


thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp

bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án để yêu cầu áp dụng một
hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị
tranh chấp theo quy định tại Điều 48 LTTTM 2010 “Các bên tranh chấp có
quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc
khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Theo đó, HĐTT hoặc
Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các
bên đương sự yêu cầu, tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên.
Cụ thể, những biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của HĐTT
được quy định tại Khoản 2 Điều 49 LTTTM, còn các trường hợp áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực hiện được quy định tại Khoản 1
Điều 53 LTTTM: “Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền
làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện
pháp khẩn cấp tạm thời”. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm
quyền thực hiện được quy định tại Điều 102 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004. Vì
vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi
đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 LTTTM 2010. Điều này
cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của quyền lực
nhà nước đối với hoạt động của TTTM, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu
quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện.
Ngoài ra, Khoản 3 Điều 49 Luật TTTM có quy định: “Trong quá trình
giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một
hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà
sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và Khoản 5 Điều 53 cũng có quy định:

“Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội
đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có
đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ
chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo đó,


nguyên tắc của Luật là nếu HĐTT đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì
Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của
HĐTT. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì HĐTT phải từ
chối. Ta có thể thấy Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên
đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện
pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của HĐTT.
Như vậy ta có thể LTTTM đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa HĐTT và Tòa án nhằm tránh tình
trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi
trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ
việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh
chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của
tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc
Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà HĐTT tuy cũng có thể thực hiện
nhưng không thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không có được do
không nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi
hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của HĐTT.
Đây cũng là một điểm mới của LTTTM 2010. So với các văn bản trước

đây về trọng tài, có thể thấy rằng các văn bản đó hầu như không có quy định về
sự hỗ trợ của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với vụ
tranh chấp được trọng tài giải quyết. Tuy rằng trong Pháp lệnh TTTM 2003 đã
đề cập đến sự hỗ trợ của Tòa án đối với vấn đề này, tuy nhiên qua quá trình
thực hiện cũng còn tồn tại nhiều vướng mắc: Điều 33 quy định “Trong quá
trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có
quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp
yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Theo quy định
trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên phải chờ đến khi
HĐTT được thành lập. Bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính
nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, nên biện pháp này phải được áp dụng ngay
khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của mình có nguy cơ bị xâm phạn,


nếu phải chờ đến khi HĐTT được thành lập thì trong một số trường hợp, biện
pháp này sẽ không còn hiệu quả nữa. Điều này sẽ dẫn đến dù khi bên có quyền
và lợi ích bị xâm phạm khó có khả năng được bảo đảm quyền lợi khi một bên
có hành vi tẩu tán tài sản, bán tài sản thấp hơn giá thực, trả nợ những khoản nợ
chưa đến hạn… với mục đích làm giảm khối lượng tài sản của mình để trốn
tránh nghĩa vụ về tài sản đối với bên có quyền lợi, thì trọng tài cũng không thể
xử lý được do thiếu cơ sở pháp lý.
Chính vì thế khi cho ra đời LTTTM 2010, các nhà làm luật đã khắc phục
những khó khăn vướng mắc đó. Luật quy định cho cả HĐTT và Tòa án cũng có
thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên
đương sự trong việc lựa chọn cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời một cách kịp thời, dù đã có HĐTT hay chưa. Điều luật này hết sức
hợp lý, góp phần bảo toàn tài sản của đương sự trong vụ tranh chấp. Do vậy, có
thể khẳng định việc pháp luật quy định có sự tham gia của Tòa án thông qua
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một sự hỗ trợ hết sức cần thiết và

có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng
tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm
bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.
3. Quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài
Khoản 1 Điều 68 LTTTM 2010 quy định: “Tòa án xem xét việc hủy phán
quyết trọng tài khi có đơn yêu cầu của một bên”.
Quá trình giải quyết tranh chấp không có nhiều giai đoạn xét xử, không
có thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, để có thể hạn chế tối đa
những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia LTTTM 2010 quy định, bên không đồng
ý với quyết định trọng tài có quyền làm đơn gửi Tòa án yêu cầu hủy quyết định
trọng tài. Như vậy, Tòa án với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước có thẩm
quyền xem xét lại quyết định trọng tài.
Khi nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của một bên, Tòa án
không xét xử lại mà chỉ đối chiếu vào các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài
quy định tại Khoản 2 Điều 68 LTTTM 2010:
- Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
- Thành phần HĐTT, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả
thuận của các bên hoặc trái với các quy định của Luật này;


- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của HĐTT; trường hợp phán
quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của HĐTT thì nội dung đó
bị huỷ;
- Chứng cứ do các bên cung cấp mà HĐTT căn cứ vào đó để ra phán
quyết là giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của
một bên tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán
quyết trọng tài;
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam.

Nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng quyết định mà trọng tài đã tuyên
thuộc một trong các trường hợp trên thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy phán quyết
của trọng tài. Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với căn cứ “Phán quyết
trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, Tòa án có
trách nhiệm chủ động xác minh thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không
hủy phán quyết trọng tài. Ngoài ra pháp luật cũng quy định có sự tham gia của
Viện kiểm sát trong hoạt động hủy quyết định của trọng tài, với chức năng giám
sát hoạt động của Tòa án. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng và có
hiệu lực thi hành (Khoản 10 Điều 71).
Như vậy, quyền yêu cầu Tòa án huỷ phán quyết trọng tài của các bên
tranh chấp chỉ phát sinh nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh HĐTT đã ra
phán quyết thuộc một trong những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy.
Khoản 1 Điều 69 LTTTM 2010 quy định “...nếu một bên có đủ căn cứ để
chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy theo khoản 2 Điều 68 Luật này,
thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng
tài”. Ở đây có sự khác biệt so với Pháp lệnh TTTM 2003. Theo Pháp lệnh
TTTM 2003, một bên có quyền gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định
trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”. Việc “không đồng ý” dựa
trên nguyên nhân nào thì pháp luật lại không truy xét đến, do đó không thể
tránh được tình trạng các bên yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục
đích khác nhau, kể cả việc kéo dài thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp
tẩu tán tài sản... Điều này không những làm hạn chế hiệu quả, mục đích thực sự
của quy định này mà còn làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro. Một khi
đưa đơn yêu cầu huỷ ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án
phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng
không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như các bên mong muốn được giải


quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm nhanh chóng, đơn giản

thì thực tế các quy định của Pháp lệnh lại làm ưu điểm này có thể mấy đi. Quy
định của LTTTM 2010 đã khắc phục được những hạn chế này của Pháp lệnh
TTTM 2003, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ tiện của
Trọng tài viên...Sự quy định chặt chẽ về việc bên yêu cầu phải có căn cứ chứng
minh việc phán quyết của HĐTT là sai giúp cho các bên phải tự chịu trách
nhiệm với yêu cầu của chính mình, khi mà các bên có nhu cầu gửi đơn đến tòa
án để yêu cầu Tòa hủy phán quyết của trọng tài, họ sẽ phải tìm hiểu và đối
chiếu các căn cứ hủy phán quyết của trọng tài, điều này sẽ tránh được tình trạng
bên phải thi hành không muốn thi hành phán quyết của trọng tài đưa ra yêu cầu
huỷ quyết định trọng tài để kéo dài thời gian, tẩu tán tài sản hoặc hi vọng toà án
sẽ xử lại và không bắt thi hành nghĩa vụ...
Bên cạnh đó, LTTTM 2010 cũng có quy định giúp cho HĐTT có thời
gian khắc phục sai sót, nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài “Theo
yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, Hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm
đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong
thời hạn không quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục
sai sót tố tụng trọng tài theo quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ
căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa
án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng” (Khoản 7 Điều 71). Trong trường hợp
HĐTT không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì Toà án tiếp tục xét đơn yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài.
Khi giải quyết Toà án không xét xử lại việc tranh chấp bởi Toà án không
phải là cấp xét xử thứ hai của trọng tài. Toà án không có thẩm quyền kết luận
đúng sai về nội dung phán quyết của Trọng tài đối với vấn đề xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia tranh chấp mà chỉ có quyền xem xét căn cứ để ra
quyết định huỷ bỏ hoặc giữ nguyên quyết định trọng tài. Theo Khoản 8 Điều 71
LTTTM, trường hợp quyết định trọng tài bị huỷ bỏ những thoả thuận các bên có
được trong khi áp dụng phương thức trọng tài không còn, như vậy tranh chấp sẽ
lại chưa được giải quyết, khi đó các bên lại tiến hành thoả thuận giải quyết
tranh chấp lại từ đầu; còn nếu Toà án không hủy phán quyết trọng tài thì phán

quyết trọng tài được thi hành.
Việc pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết của trọng
tài khi các bên yêu cầu có tác động rất lớn, qua đó khắc phục được những sai
phạm nếu có của HĐTT khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ giải quyết tranh
chấp thực sự khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Còn nếu quyết định của


HĐTT đã tuyên không thuộc một trong các trường hợp bị hủy thì một lần nữa
khẳng định rằng HĐTT đã thực hiện việc giải quyết tranh chấp một cách công
bằngm đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên và phán quyết đó
cần được các bên tôn trọng và tự nguyện thi hành hoặc được cưỡng chế thi
hành.
III. BÌNH LUẬN THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH TRÊN
1. Về việc triệu tập nhân chứng
Quy định về việc toàn án hỗ trợ trọng tài bằng cách triệu tập nhận chứng
cần thiết là một trong những điều luật thể hiện sự quan tâm hỗ trợ sâu sắc của
Toà án đối với trọng tài. Trong quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các
bên mà nhiều trường hợp có liên quan đến người thứ ba với tư cách nhân
chứng, làm sáng tỏ các vấn đề trong vụ tranh chấp. Trong khi Toà án có thẩm
quyền đương nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng tài lại không
có thẩm quyền. Thông qua sự hỗ trợ của Tòa án, việc triệu tập người làm chứng
của HĐTT được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế thi hành của Tòa án
trong quá trình giải quyết tranh chấp. Nếu không có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
thông qua Tòa án, HĐTT khó có thể triệu tập người làm chứng nếu họ không có
thiện chí tham gia giải quyết vụ tranh chấp, làm ảnh hưởng tới quá trình giải
quyết tranh chấp. Chính cơ chế hỗ trợ này đã tạo nên sự an tâm cho các doanh
nghiệp khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết tranh chấp, không còn băn
khoăn về việc làm sao để có thể có được sự giúp từ nhân chứng, một trong
những người quan trọng góp phần giải quyết được vấn đề tranh chấp. Đây cũng
chính là một trong những nguyên nhân qua trọng khiến cho việc các doanh

nghiệp lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp ngày một nhiều
hơn.
Tuy nhiên trên thực tế điều luật này khi được áp dụng cũng còn một số
vướng mắc nhất định khiến nó được thực thi vẫn còn hạn chế. Bởi lẽ để trọng
tài có thể triệu tập được nhân chứng thì phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí của
Toà án. Có những trường hợp Toà án rất nhanh chóng giúp bên trọng tài triệu
tập nhân chứng giải quyết vụ việc, nhưng cũng có nhiều trường hợp gây khó
khăn, sách nhiễu, kéo dài thời gian, thậm chí là yêu cầu tiền bạc vật chất... gây
khó khăn cho quá trình giải quyết vụ việc.
Hơn nữa cũng không thể không nhắc đến có khả năng các doanh nghiệp
có thể lạm dụng quy định này, làm cho công việc của Toà án trở nên quá tải, bởi
lẽ trên thực tế, có những vụ việc không nhất thiết cần đến sự triệu tập nhân
chứng của Toà án, Tòa án có triệu tập mà nhân chứng không đến cũng không


ảnh hưởng thực sự đến việc giải quyết vụ việc... Điều này không chỉ gây áp lực
cho Toà án nói chung mà còn tự làm tăng thêm phí tổn cho việc giải quyết tranh
chấp.
Chính vì những lí do trên mà việc hỗ trợ triệu tập nhân chứng của Toà án
đối với trọng tài vẫn chưa được thực thi một cách hiệu quả trên thực tế. Do đo
các Toà án cũng như các doanh nghiệp nên có cái nhìn đúng đắn hơn cũng như
suy xét kĩ càng khi muốn áp dụng biện pháp hỗ trợ này.
2. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
LTTTM 2010 của Việt Nam quy định rất uyển chuyển, cũng như rất thận
trọng rằng khi cho các bên có thể lựa chọn Tòa án hoặc HĐTT để yêu cầu thực
hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc quy định rất rõ ràng vụ thể việc bên
nào sẽ có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
chồng chéo lẫn nhau mà vẫn đảm bảo tính "kịp thời" là một thiết kế rất khôn
khéo, được thiết kế uyển chuyển và hợp lý, phù hợp với tình hình hiện nay ở
Việt Nam. Điều này không chỉ thể hiện khả năng lập pháp của nước ta đã được

tăng lên mà còn góp phần làm tăng niềm tin của các doanh nghiệp vào việc lựa
chọn hình thức trọng tài.
Tuy nhiên điều luật này khi đi vào đời sống vẫn còn gặp nhiều ý kiến
cũng như vấn đề trái chiều khác nhau.
Luật cũng đã cho phép các bên yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì tất nhiên sẽ có những trường hợp thì Tòa án tích cực hợp tác, ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi trọng tài có yêu cầu nhưng
cũng sẽ có trường hợp Toà án đùn đẩy trách nhiệm lại cho HĐTT với lí do bản
thân HĐTT cũng có quyền ra quyết định thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Hoặc ngược lại, cũng lại có trường hợp các bên Toà án và HĐTT "tranh
nhau" ra quyết định thực hiện với yêu cầu của 2 bên đương sự, khi mà theo như
sự quy định của pháp luật thì bên nào nhận việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trước thì bên đó sẽ thực hiện, bên kia không có quyền thực hiện nữa để
tránh chồng chéo, trên thực tế trong một số trường hợp, có thể sẽ có lợi hơn cho
nguyên đơn, nếu sau khi khởi kiện tại trung tâm trọng tài và yêu cầu Tòa án ra
các lệnh Tòa cho áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Điều
53 LTTTM 2010, bởi như thế người yêu cầu sẽ có một vài lợi thế (không phải
mất thời gian chờ thành lập HĐTT, Tòa án và hệ thống thi hành giúp việc thực
thi biện pháp liên thông hơn…), mà lợi thế của bên này lại là rào cản của bên
kia, nên khó tránh tình trạng mỗi bên yêu cầu 1 cơ quan giải quyết, gây ra tình


trạng "tranh nhau" thực hiện dù có thể không thực sự cần thiết phải áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Ngoài ra, tuy rằng HĐTT cũng được giao quyền áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời nhưng trên thực tế việc thực hiện hơi khó. Mặc dù HĐTT có quyền
yêu cầu bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời như bảo toàn chứng cứ, bảo quản tài sản...Tuy nhiên trên thực tiễn
đời sống quy định này lại phụ thuộc vào thiện chí các bên khi mà HĐTT không
có quyền lực cưỡng chế thi hành, thực tế thì ít có chuyện các bên tranh chấp

"hiền lành", nghe răm rắp yêu cầu của trọng tài. Việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời mang nặng tính cưỡng chế nên cần có các cơ quan chức năng ra
tay chứ trọng tài không thể làm được. Một số ý kiến cho rằng theo thông lệ
quốc tế thì trọng tài không có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Thông thường thì trọng tài chỉ ra văn bản yêu cầu áp dụng và gửi sang tòa án để
tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà thôi. Do đó còn
một số ý kiến phản đối việc cho HĐTT thẩm quyền này.
3. Quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài
So với các văn bản trước đây về trọng tài rất ít văn bản quy định về vấn
đề hủy quyết định của trọng tài, do đó nhà kinh doanh nhiều khi không khỏi
băn khoăn khi lựa chọn trọng tài để yêu cầu giải quyết cho mình. Việc LTTTM
2010 quy định cơ chế hủy quyết định trọng tài của Tòa án có thẩm quyền đối
với những phán quyết vi phạm pháp luật của trọng tài thương mại đã làm yên
lòng các bên tranh chấp, nếu họ không đồng tình với phán quyết của trọng tài
trong sự khách quan, vô tư thì họ có thể yêu cầu Tòa án hủy phán quyết đó.
Làm được điều này tức là pháp luật đã góp phần trang bị thêm cho bộ mặt của
trọng tài, làm cho nó trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà kinh doanh.
Tuy nhiên, sau 3 năm có hiệu lực của LTTTM, số lượng phán quyết của
trọng tài bị Toà án huỷ lại quá nhiều, khiến cho Việt Nam trở thành “siêu vô
địch” về hủy phán quyết TTTM. Mặc dù TTTM là phương thức giải quyết tranh
chấp nhanh gọn và ngày càng được DN quan tâm lựa chọn, nhưng không ít ý
kiến cho rằng, họ e ngại quyết định trọng tài dễ bị hủy bởi tòa án.
Luật sư Vũ Ánh Dương, Tổng Thư ký Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC) cho biết: Trong giai đoạn 2003 - 2013, số vụ tranh chấp có đơn
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài chiếm 12% thì 34% trong số đó bị hủy. Trung
bình cứ 3 đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết trọng tài thì một phán quyết bị hủy.
Khi LTTTM 2010 có hiệu lực từ ngày 1/1/2011 thì chỉ trong gần 3 năm (2011 2013) đã có tới 36% số phán quyết trọng tài bị hủy.


Tuy rằng bên cạnh những trường hợp Toà án huỷ phán quyết của trọng

tài hoàn toàn hợp lý đúng pháp luật, nhưng cũng có không ít bất cập xung
quanh việc Toà án huỷ quyết định của trọng tài: áp dụng luật sai, bừa bãi, áp
dụng luật thiếu thống nhất, lý do huỷ quyết định trọng tài không hợp lý, tuỳ
tiện...
Chẳng hạn như việc áp dụng pháp luật có sự khác nhau về cùng một vấn
đề giữa hội đồng xét đơn trong cùng một Tòa án và giữa các Tòa án. Hoặc trong
một trường hợp khác, Toà án lại cho rằng HĐTT sử dụng từ ngữ không đúng,
theo đó, HĐTT gửi thông báo mời các bên đến dự phiên họp giải quyết tranh
chấp, mặc dù thông báo này nêu rõ thời gian và địa điểm tổ chức phiên họp,
được gửi hợp lệ đến các bên tranh chấp nhưng Toà lại tuyên hủy phán quyết
trọng tài với lý do thông báo của HĐTT không ghi chữ “triệu tập”, chỉ ghi là
“mời” nên các bên có thể đến hoặc không đến. Hoặc cũng có trường hợp áp
dụng luật thiếu thống nhất, “mỗi nơi một kiểu”. Theo quy định tại Điều 81
LTTTM 2010, đối với các thoả thuận trọng tài ký trước ngày luật có hiệu lực thì
áp dụng pháp luật tại thời điểm ký thoả thuận trọng tài. Tuân thủ quy định này,
các HĐTT đã áp dụng Pháp lệnh TTTM 2003 đối với các vụ kiện có thoả thuận
trọng tài ký trước ngày LTTTM 2010 có hiệu lực. Tuy nhiên, Toà đã tuyên huỷ
các quyết định trọng tài này với lý do HĐTT không áp dụng các quy định của
LTTTM 2010 vì phán quyết được tuyên tại thời điểm LTTTM 2010 đã có hiệu
lực.
Ngoài ra còn có vấn đề về việc công nhận và thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài tại Việt Nam cũng còn những hạn chế như thời gian chậm trễ
kéo dài, áp đặt ngược lại nghĩa vụ chứng minh, cơ sở pháp lý để từ chối công
nhận đơn yêu cầu không tuân thủ đúng Công ước NewYork và Bộ Luật tố tụng
dân sự của Việt Nam.
Nguyên nhân của việc Toà án huỷ phán quyết trọng tài bị áp dụng một
cách bừa bãi như trên có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, do các nguyên
nhân khách quan chủ quan, trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân như:
- Nguyên nhân đầu tiên là việc thiếu một Nghị quyết hướng dẫn Luật của
TAND Tối cao dù Luật đã có hiệu lực 3 năm. Nguyên nhân này dẫn đến tình

trạng xét xử thiếu thống nhất giữa các Tòa án, trong khi các thẩm phán lại có xu
hướng áp dụng tố tụng dân sự khi xem xét đơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết.
- Do Việt Nam có tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài. Các lý do hủy quyết định trọng tài thường ở dạng “trừu tượng” nên
nguy cơ một bên yêu cầu tòa án can thiệp để làm chậm việc thi hành quyết định


trọng tài vì trong khi xem xét hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết này
không thể được thi hành (khoản 1, Điều 66 LTTTM).
- Không có phúc thẩm và giám đốc thẩm lại các phán quyết hủy quyết
định của trọng tài do tòa án đưa ra. Như vậy, quyết định hủy này của Tòa án
ban hành trong trạng thái không có ai giám sát, điều này cũng đồng nghĩa với
việc kết quả của Toà án hoàn toàn có thể sai pháp luật mà vẫn được thi hành.
- Ngoài ra, Luật Trọng tài thương mại quy định, Tòa án không xét xử lại
nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết, Tòa án chỉ xem xét
ở góc độ tố tụng. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp khi giải quyết các
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, Tòa án đã can thiệp quá sâu vào nội dung
giải quyết của trọng tài.
- Thời gian giải quyết vị kéo dài, đa số khi giải quyết đều phải có thời
gian trên 1 năm. Đối với việc gửi thông báo, quyết định của tòa án thì hầu hết
trọng tài không nhận được hủy phán quyết của Tòa án; việc áp dụng pháp luật
có sự khác nhau về cùng một vấn đề giữa hội đồng xét đơn trong cùng một Tòa
án và giữa các Tòa án; Phạm vi hủy còn nặng yếu tố hình thức trong khi các
vấn đề mang tính bản chất thì chưa được thể hiện rõ, nên hủy một phần hay
toàn phần;…
Tình trạng huỷ quyết định trọng tài với những căn cứ không xác đáng
đang làm vô hiệu hoá phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và làm
giảm uy tín của hệ thống Toà án Việt Nam trong con mắt của các doanh nghiệp
nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này làm cho môi trường pháp luật và
đầu tư của Việt Nam bị ảnh hưởng. Những hạn chế nêu trên không chỉ làm ảnh

hưởng đến lòng tin doanh nghiệp trong nước mà còn cả niềm tin của các nhà
thương nhân nước ngoài kinh doanh, đầu tư tại Việt Nam. Việc giải quyết tốt
những hạn chế trên sẽ góp phần nâng cao hình ảnh môi trường đầu tư kinh
doanh của Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
Do đó Tòa án nhân dân tối cao nên sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn
thi hành Luật Trọng tài thương mại, Tòa án nhân dân tối cao có bộ phận theo
dõi việc hủy phán quyết trọng tài, các Tòa địa phương có thẩm phán chuyên sâu
giải quyết các vấn đề liên quan đến trọng tài... Để đối phó với nguy cơ lạm
dụng nêu trên, nên cần có những cơ chế hay chế tài thích hợp, buộc bên “lạm
dụng” quyền yêu cầu tòa án bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc lạm dụng này,
ví dụ như có thể buộc bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc chậm
thi hành phán quyết nếu họ lạm dụng quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.


Cần có sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân Tối cao để phổ biến cho
thẩm phán, doanh nghiệp, thống nhất nhận thức giữa các thẩm phán, giữa thẩm
phán và trọng tài…
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Có thể nói, việc LTTTM 2010 quy định về sự hỗ trợ của Tòa án đối với
hoạt động của TTTM đã góp phần hạn chế được những nhược điểm của TTTM,
giúp hoạt động của TTTM được thực hiện nhanh chóng hơn, các phán quyết
của TTTM được thực hiện chính xác, hạn chế được các trường hợp oan sai, gây
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự. Tuy rằng còn một số hạn chế
thiếu sót nhất định trong thực thi cũng như trong quy định của pháp luật còn
cần phải hoàn thiện hơn, nhưng nhìn chung, với các quy định nâng cao cơ chế
hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp bằng TTTM, LTTTM 2010
đã góp phần làm cho hoạt động TTTM hiệu quả hơn, thu hút sự quan tâm của
các doanh nghiệp, khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông qua hệ thống
trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại (tập 2), Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb.CAND, 2006;
2. Hỏi và đáp luật thương mại, Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Nxb. Chính
trị - hành chính, năm 2011;
3. Luật Trọng tài thương mại 2010;
4. Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003;
5. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động trọng tài thương mại và thực
tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Vũ Thanh Minh, Khóa luận
tốt nghiệp 2008;
6. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án, ThS.
Bạch Thị Lệ Thoa, Tạp chí nghiên cứu lập pháp;
7. Vai trò của Tòa án trong tố tụng trọng tài thương mại, ThS. Phạm Tuấn
Anh, Thẩm phán, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội;
8. sự hỗ trợ của cơ quan tứ pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mai, Nguyễn Thị Yến, Luận văn thạc sỹ luật học, 2005;
9. .


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU ...............................................................................................1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ................................................................................. 1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .....................................................................1
1. Trọng tài thương mại..........................................................................1
a. Khái niệm ....................................................................................1
b. Phân loại ......................................................................................1
c. Ưu điểm và nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng TTTM. .2
2. Sự cần thiết phải có sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động TTTM. .2

II. 3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH THỂ HIỆN
SỰ HỖ TRỢ CỦA TOÀ ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI ....................................................................................................................3
1. Triệu tập người làm chứng................................................................. 3
2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ................................................4
3. Quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài......................... 7
III. BÌNH LUẬN THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH TRÊN...... 10
1. Về việc triệu tập nhân chứng ............................................................10
2. Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ..................................11
3. Quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài .......................12
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ...................................................................................15


CHÚ THÍCH TỪ VIẾT TẮT
LTTTM
TTTM

Luật trọng tài thương mại 2010
Trọng tài thương mại


ĐỀ BÀI
TM2.HK - 8.
Phân tích 03 (ba) quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thể hiện sự
hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài thương mại và bình luận thực
tiễn áp dụng các quy định đó.




×