Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân tích chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.72 KB, 5 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Quan hệ mua bán hàng hóa được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là hợp
đồng mua bán hàng hóa. Để thực hiện được những hợp đồng này đòi hỏi phải có chủ thể hợp
pháp tham gia trong quan hệ hợp đồng, đồng thời người đại diện kí kết cũng có tầm quan trọng
trong việc quyết định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy, bài tiểu luận này tôi xin đề
cập giải quyết vấn đề trên.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại.
Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa song
có thể xác định bản chất pháp lí của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trên cơ sở
quy định của BLDS về hợp đồng mua bán tài sản (Điều 428 BLDS). Theo đó, hợp đồng mua
bán hàng hóa là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
trong quan hệ mua bán.
2. Chủ thể của hợp đồngmua bán hàng hóa trong thương mại.
Chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa là thương nhân và các tổ chức, cá nhân không phải là
thương nhân.
* Chủ thể là thương nhân
Theo quy định tại Điều 6 Luật thương mại thì “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng
kí kinh doanh”. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân
Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế).
Đối với thương nhân Việt Nam, theo quy định của pháp luật, ta có thể nhận biết thương nhân
qua một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, thương nhân là người thực hiện hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lời bao gồm các hoạt động mua bán, cung ứng dịch vụ, đầu tư,
xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác. Đây là đặc điểm cơ bản để
nhận biết một người có phải là thương nhân hay không.
- Thứ hai, thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại một cách độc lập. Có nghĩa là
thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại cho chính mình, dưới danh nghĩa của mình và
vì lợi ích của chính bản thân mình, tự mình quyết định thời gian làm việc và nội dung công
việc, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.


- Thứ ba, thương nhân phải thực hiện hoạt động thương mại một cách thường xuyên. Đó
phải là những hoạt động thương mại mang tính nghề nghiệp của thương nhân. Thương nhân
thực hiện hoạt động thương mại đó một cách thường xuyên, liên tục, không gián đoạn.

1


- Thứ tư, thương nhân phải có đăng kí kinh doanh. Đó là thủ tục bắt buộc đối với thương
nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Sau khi đăng kí với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, cơ quan đăng kí kinh doanh sẽ cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, công nhận tư
cách thương nhân của người đăng kí kinh doanh.
Đối với thương nhân là pháp nhân, pháp luật yêu cầu pháp nhân phải đáp ứng đủ các điều
kiện do luật quy định (Điều 84 BLDS năm 2005).
Đối với thương nhân là cá nhân, pháp luật yêu cầu phải từ 18 tuổi trở lên, có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi đầy đủ. Cá nhân phải có đăng kí kinh doanh tại Phòng đăng kí kinh
doanh cấp huyện (theo loại hình hộ kinh doanh) hoặc tại Phòng đăng kí kinh doanh cấp Tỉnh
(theo loại hình DNTN).
Đối với thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) thì theo quy
định tại khoản 1 Điều 16 LTM quy định “thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành
lập đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước
ngoài công nhận”. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế về phía nước ngoài có thể
là cá nhân hoặc pháp nhân. Khi tham gia hợp đồng các chủ thể phải có đầy đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi. Mỗi nước lại có quy định khác nhau về việc xác định năng lực pháp
luật và năng lực hành vi của các chủ thể này. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật của cá nhân là
người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.
Đối với pháp nhân, việc xác định quốc tịch của pháp nhân là rất quan trọng. Mỗi quốc gia lại
quy định khác nhau về việc xác định quốc tịch của pháp nhân. Đối với Việt Nam, pháp nhân
nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật nước ngoài và
được công nhận là có quốc tịch nước ngoài. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước
ngoài được xác định theo luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập trừ trường hợp pháp

nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch tại Việt Nam thì được xác lập theo pháp luật
Việt Nam (khoản 1 Điều 765BLDS).
Trong trường hợp chủ thể nước ngoài là cá nhân hay pháp nhân Việt Nam đang cư trú tại
nước ngoài thì ngoài việc họ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam còn phải chịu sự điều
chỉnh của pháp luật nước sở tại hoặc của Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết.
* Chủ thể không phải là thương nhân.
Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể
trở thành chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương
nhân và không nhằm mục đích sinh lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa phải
tuân theo LTM khi chủ thể đó lựa chọn áp dụng LTM (khoản 3 Điều 1 LTM).
Như vậy, chỉ những chủ thể có đủ các điều kiện như đã trình bày trên đây mới đủ điều kiện
tham gia vào hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại.
3. Đại diện kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại.
2


Người giao kết hợp đồng là người đại diện của các bên tham gia đàm phán và kí kết có thể là
đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Một quan hệ hợp đồng không được xác lập
thông qua người đại diện hợp pháp của các chủ thể thì sẽ không có giá trị pháp lí ràng buộc
giữa các bên.
Đại diện kí kết hợp đồng phải là đại diện hợp pháp, có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại
diện theo ủy quyền.
*Đại diện theo pháp luật
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định (Điều 149 BLDS)
Đối với chủ thể là pháp nhân, người đại diện theo pháp luật theo pháp luật là người đứng
đầu pháp nhân theo quy định tại điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (khoản
4 Điều 150 BLDS).
Tuy nhiên, trong quan hệ mua bán hàng hóa thương nhân là pháp nhân là chủ thể chủ yếu và
thường xuyên của hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại dưới nhiều loại hình doanh nghiệp khác

nhau. Để xác định ai là người đại diện theo pháp luật cần căn cứ vào các quy định cụ thể của
pháp luật.
Đối với thương nhân là pháp nhân thì đại diện kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa thông
thường là Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc (nếu điều lệ công ty không có quy định khác). Nếu
điều lệ công ty quy định về người đại diện theo pháp luật thì ngoài Giám đốc và Tổng Giám
đốc thì Điều lệ công ty quy định người đại diện theo pháp luật là: Chủ tịch Hội đồng thành viên
hoặc Chủ tịch công ty ( Điều 67 Luật DN, đối với công ty TNHH một thành viên là tổ chức)
hoặc Chủ tịch công ty 9Điều 74 Luật DN, đối với công ty TNHH một thành viên là cá nhân);
tất cả các thành viên hợp danh đối với công ty Hợp danh (Điều 137 Luật DN); Chủ tịch hội
đồng thành viên đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên (Điều 46 Luật DN); Chủ tịch Hội
đồng quản trị đối với công ty Cổ phần (Điều 95 Luật DN).
Đối với thương nhân là cá nhân thì người đại diện theo pháp luật được xác định tùy vào từng
loại chủ thể: Đối với doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo
pháp luật; đối với hộ kinh doanh cá thể, người đại diện theo pháp luật là chủ hộ; đối với tổ hợp
tác, người đại diện theo pháp luật là tổ trưởng tổ hợp tác.
* Đại diện theo ủy quyền
Người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền cho người khác thay mình kí kết hợp đồng
(trừ trường hợp pháp luật quy định họ phải tự xác lập giao dịch đó). Việc ủy quyền phải được
lập thành văn bản ghi rõ họ tên, chức vụ, người ủy quyền và đóng dấu (nếu là doanh nghiệp)
hoặc xác nhận của cơ quan công chứng nhà nước (nếu là hộ kinh doanh cá thể tiểu chủ hoặc tổ
hợp tác), ghi rõ họ tên, số chứng minh nhân dân, chức vụ, nơi làm việc của người ủy quyền
cùng nội dung ủy quyền.
3


Thực tiễn cho thấy, giấy giới thiệu công tác cũng được coi là giấy ủy quyền nếu đáp ứng đầy
đủ các yêu cầu sau: Giấy giới thiệu do người đại diện hợp pháp kí tên, đóng dấu; nội dung ghi
cụ thể, rõ ràng về việc kí kết hợp đồng.
Người được ủy quyền chỉ thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn ghi trong giấy ủy quyền,
nếu vượt quá phạm vi ghi trong giấy ủy quyền hoặc khi giấy ủy quyền đã hết hạn thì người ủy

quyền không phải chịu trách nhiệm về hành vi của người đã được ủy quyền thực hiện.
Ta thấy rằng, chỉ những người có đủ các điều kiện như đã trình bày trên đây khi tham gia kí
kết hợp đồng mua bán hàng hóa thì hợp đồng đó mới có hiệu lục pháp luật.
KẾT LUẬN
Như vậy, trên đây chúng ta vừa tìm hiểu về chủ thể và đại diện kí kết hợp đồng mua bán
hàng hóa trong thương mại. Mong rằng với những gì đã trình bày cùng với những quy định quy
định của pháp luật thì các thương nhân cũng như các tổ chức cá nhân chọn LTM để điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hóa mà mình kí kết sẽ thực hiện đúng pháp luật để hợp đồng được thực
hiện một cách tốt nhất.

4


5



×