Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.23 KB, 9 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt biểu hiện ở khả năng khi tham gia
tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng nhằm bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Trong Bộ luật Tố tụng Dân
sự đã khái quát: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án
có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải
quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn
yêu cầu đó; Trong quá trình giải quyết vụ viêc dân sự, các dân sự có quyên
chấm dứt, thay đổi yêu câu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hộ. Mặc dù đã xác lập một nguyên
tắc cơ bản và quan trọng như vậy nhưng xem xét các quy định khác của Luật tố
tụng dân sự Việt Nam hiện hành cũng như trong thực tế xét xử thì ta nhận thấy
một số điểm bất cập cần phải được hoàn thiện. Chính vì vậy trong phạm vi bài
viết này người viết sẽ tập trung phân tích “vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của
đương sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm”trên cơ sở đó đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở
tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm:
1. Quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
ở tòa án cấp sơ thẩm:
Căn cứ vào nguyên tắc tự định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5 –
Bộ luật TTDS thì đương sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự
yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự khi có
đơn khởi kiện của đương sự và tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của
đơn khởi kiện. Theo đó, cũng dựa vào nguyên tắc này, pháp luật quy định cho
đương sự quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các yêu cầu của các đương sự ở
phiên tòa công khai. Có thể khái quát chung về những quy định của pháp luật về


vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án sơ thẩm thông qua các


nội dung sau:
 Về chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu tại phiên tòa sơ
thẩm:
Theo quy định tại Điều 5 – Bộ luật TTDS: “Đương sự có quyền quyết
định việc khởi kiện, yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi
có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết
trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó; Trong quá trình giải quyết vụ viêc
dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả
thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Như vậy, nhìn chung những chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân
sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình phù hợp với yêu cầu của pháp
luật. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia TTDS thực
hiện một cách có hiệu quả quyền tự định đoạt của mình, pháp luật TTDS quy
định cụ thể tại các chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ
như sau:
- Nguyên đơn có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của
họ.
- Bị đơn có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của họ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền
đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu độc lập của họ.
Vấn đề này được quy định một cách gián tiếp tại Điều 217 – Bộ luật
TTDS như sau:
“Thủ tục hỏi được bắt đầu bằng việc chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về
các vấn đề sau đây:
1. Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu khởi kiện hay không;
2. Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
phản tố hay không;



3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay
đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.”
Một vấn đề cần lưu ý đối với quy định về chủ thể có quyền đề nghị thay
đổi bổ sung yêu cầu đó là theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 61 – Bộ luật TTDS
thì người có quyền và nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có những quyền hạn được quy định tại Điều 59
của luật này, tức là cũng đồng thời có quyền đề nghị thay đổi , bổ sung yêu cầu
khởi kiện; người có quyền và nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tổ tụng với bên bị
đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có những quyền hạn quy định tại Điều 60 của luật
này, cũng có nghĩa họ có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố. Do
đó, khi xem xét về chủ thể có quyền đề nghị cần lưu ý cả vấn đề nêu trên.
 Về giới hạn của việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự:
Việc pháp luật quy định cho các đương sự có quyền tự quyết trong một số
trường hợp cụ thể, đặc biệt là quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu của chính
họ là nhằm hỗ trợ cho các chủ thể đó có thể thực hiện hiệu quả quyền lợi của
mình. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động xét xử các vụ án dân sự
cũng như đảm bảo khuôn khổ hợp lý cho các đương sự thực hiện quyền của
mình trong vấn đề này, pháp luật TTDS cũng quy định khá cụ thể giới hạn của
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm. Theo đó,
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa chỉ được hội đồng xét
xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm
vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể
hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu
độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan. (Khoản 1, Điều 218 – Bộ luật
TTDS).
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định hình thức thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Trong trường hợp Hội đồng xét xử
chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự, thì phải ghi trong bản án.



2. Quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
ở tòa án cấp phúc thẩm:
Phúc thẩm dân sự thực chất là việc tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ
án mà bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị. Điều này có thể khẳng định việc xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự hoàn toàn dựa trên cơ sở kháng cáo của đương sự về vụ án hoặc kháng
nghị của Viện kiểm soát về vấn đề này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bải viết này
sẽ chỉ đề cập đến vấn đề thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự theo thủ tục
phúc thẩm. Có thể khái quát chung về các quy định của pháp luật về việc thay
đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự theo các nội dung sau đây:
 Về chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung kháng cáo:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 256 – Bộ luật TTDS thì chủ thể có
quyền kháng cáo cũng đồng thời có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung kháng cáo
của mình trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Theo quy
định tại Điều 243 của luật này quy định những chủ thể có quyền kháng cáo như
sau: “Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có
quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết
lại theo thủ tục phúc thẩm.”
 Như vậy, có thể thầy chủ thể đề cập tại Điều 243 – Bộ luật TTDS cũng
chính là những chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương
sự.

 Về giới hạn của việc thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự:
Giới hạn của việc thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự được quy

định tại khoản 1, điều 256 – Bộ luật TTDS và nghị quyết số 05/2006/NQ –
HĐTP ngày 04/08/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba
“Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm” của bộ luật TTDS như sau:
- Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 245 và

Điều 252 của BLTTDS, thì người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung nội


dung kháng cáo đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền
kháng cáo.
- Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 245
và Điều 252 của BLTTDS, thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà
phúc thẩm người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo nhưng không
được vượt quá phạm vi kháng cáo đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo.
 Về hình thức thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự:
Vấn đề này được quy định cụ thể tại khoản 3, Điều 256 – Bộ luật TTDS:
- Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo trước khi mở phiên tòa phải được làm
thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải
thông báo bằng văn bản về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo đó cho các đương
sự biết, đồng thời tiến hành các công việc theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Dân sự để mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
- Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo tại phiên tòa phải được ghi vào biên
bản phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ
tục chung đối với kháng cáo, kháng nghị đã được thay đổi, bổ sung và phần
kháng cáo còn lại.
II. Những bất cập trong việc áp dụng những quy định của pháp luật về
việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm:
Mặc dù pháp luật quy định khá chi tiết về quyền tự định đoạt của các chủ
thể pháp luật tố tụng dân sự trong vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của các
đương sự đó, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng những quy định này vẫn còn khá
nhiều bất cập cần khắc phục. Có thể chỉ ra một số bất cập như sau:
Thứ nhất, theo quy định về giới hạn của việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm thì việc thay đổi này không được vượt quá
phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được

thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu
cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, pháp luật


chưa đưa ra được cách hiểu chung thống nhất về việc “vượt quá phạm vi yêu
cầu ban đầu” là như thế nào dẫn đến những quan điểm khác nhau trong việc áp
dụng như:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì quyền
thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà bị hạn chế theo hướng rút
bớt yêu cầu thì được còn theo hướng thêm thì không được.
- Ý kiến thứ hai cho rằng, không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng
thời không được tăng giá trị yêu cầu, có nghĩa không được gây bất lợi cho các
đương sự khác….
 Điều này gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện hiệu quả công tác xét
xử vụ án dân sự cũng như việc đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật TTDS.
Thứ hai, Điều 256 BLTTDS đã quy định về giới hạn của việc thay đổi,
bổ sung kháng cáo là không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu
thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. Việc quy định như vậy nhằm mục đích
để các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời
thực hiện nghĩa vụ đối với đối phương để họ chuẩn bị tổ chức việc biện hộ sau
khi đã biết rõ thực trạng những nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, như
thế nào là không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, điều này
chưa được thể hiện cụ thể bằng các quy định của pháp luật để tạo cơ sở pháp lý
cần thiết cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một các hiệu
quả.
Thứ ba, pháp luật chưa quy định cụ thể những hậu quả pháp lý phát sinh
đối với những trường hợp thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự hay việc thay
đổi, bổ sung kháng cáo của người kháng cáo cũng là một bất cập lớn trong việc

thực hiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.
III. Kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về vấn đề thay
đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm:


Mặc dù hiện nay bộ luật TTDS đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tuy
nhiên những vấn đề được sửa đổi không hề liên quan đến vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự trong phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Để khắc phục
những bất cập kể trên, trên quan điểm cá nhân, người viết đưa ra một số kiên
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này như sau:
Một là, cần phải có những quy định cụ thể hơn về giới hạn của việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự hay thay đổi, bổ sung kháng cáo của người
kháng cáo. Pháp luật TTDS cần quy định rõ ràng hơn trường hợp đương sự thay
đổi bổ sung yêu cầu để đảm bảo tốt nhất quyền tự định đoạt của đương sự đồng
thời giúp cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra được hiệu quả. Quy định rõ
thế nào là yêu cầu ban đầu, phạm vi yêu cầu ban đầu, thế nào là không vượt quá
phạm vi yêu cầu ban đầu từ đó có được cách hiểu thống nhất giúp đương sự
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời giúp HĐXX xác định rõ
yêu cầu của đương sự để đưa ra cách giải quyết thỏa đáng.
Bên cạnh đó cần phải quan tâm đến việc xem xét giải thích cụm từ không
vượt quá yêu cầu ban đầu trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc tố tụng, quy định
của pháp luật tố tụng dân sự và đặc biệt cần phải tính đến yêu cầu, mục đích
của hoạt động tố tụng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này.
Hai là, cần quy định cụ thể về hậu quả pháp lý sẽ phát sinh đối với các
trường hợp thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự hay vấn đề thay đổi, bổ
sung kháng cáo của người kháng cáo để hỗ trợ các chủ thể pháp luật TTDS có
cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề nêu trên, góp phần tăng cường hiệu quả của
hoạt động, đảm bảo được quyền tự định đoạt của các chủ thể.
Ba là, cần xây văn bản hướng dẫn, giải thích từ ngữ trong bộ luật được rõ
ràng, đủ nghĩa để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi hành lập và tránh

những cách hiểu không đúng với nội dung điều luật, nâng cao hiệu quả công tác
giải thích pháp luật cũng như nâng cao chất lượng của các cán bộ giải thích, tư
vấn pháp luật. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm


chất đạo đức của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án. Việc mở các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ, chuyên môn cho các Thẩm phán, các cán bộ tòa án… là điều cần
thiết.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Mặc dù việc áp dụng vẫn còn gặp phải những vướng mắc nhất định, nhưng
việc đưa vào nội dung thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm đã đảm bảo được nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
Hoàn thiện pháp luật về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm nói riêng và pháp luật về tố tụng dân sự nói chung góp
phần tăng tính khả thi trong thực tiễn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2004
2. Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (HĐTPTANDTC) hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS.
3.Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà nẵng, Trung tâm từ điển học, năm 2003.


4.Phạm Như Hưng, Nguyên tắc tranh tụng trong luật Tố tụng dân sự Cộng hoà
Pháp, Tạp chí Luật học số 4/2003.
5.Tài liệu hội thảo khoa học cấp trường, Đề tài: “Về việc thi hành Bộ luật Tố
tụng dân sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
6. Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành bộ luật tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân

tối cao – Số 09/BC-TANDTC ngày 09/8/2010.



×