Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.46 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một chế định được đề cập khá nhiều và được Bộ
luật tố tụng dân sự 2004 nước ta quy định khá cụ thể. Trong nhiều trường hợp tòa án thụ
giải quyết vụ án, vấn đề đình chỉ sẽ đặt ra khi xuất hiện những căn cứ luật định như thụ lý
không đúng, đối tượng tranh chấp không còn,… Tuy nhiên, việc đình chỉ giải quyết vụ án
không đúng có thể dẫn tới quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn sẽ không được tòa án giải
quyết. Do vậy ,việc nghiên cứu một cách toàn diện về đình chỉ, bản chất của đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự là rất cần thiết. Để làm rõ vấn đề trên, trong bài viết em xin trình bày:
Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
1
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN
SỰ
1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
1.1. Khái niệm
Vụ việc dân sự được chia thành hai loại là vụ án dân sự và việc dân sự. Vụ án dân sự là
những vụ việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Trong khuôn khổ bài viết
chỉ trình bày vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Trong tố tụng dân sự, thì đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được hiểu là việc tòa án quyết
định ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý khi có những căn cứ do pháp luật quy
định.
1.2. Đặc điểm
- Thứ nhất, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải dựa trên những căn cứ mà pháp
luật đã quy định chứ không phải được tiến hành tùy tiện theo ý chí chủ quan của tòa án.
- Thứ hai, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự làm ngừng hẳn các hoạt động tố tụng. nó có
ý nghĩa kết thúc cả về mặt thủ tục lẫn giải quyết nội dung vụ việc, tòa án sẽ không giải
quyết vụ án đó nữa.
- Thứ ba, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải do tòa án áp dụng. Trước khi mở
phiên tòa, thẩm quyền này thuộc về thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc. Tại


phiên tòa, hội đồng xét xử có quyền quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
- Thứ tư, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, tuy cũng làm chấm dứt việc giải
quyết vụ án dân sự ở một giai đoạn tố tụng nào đó nhưng nó không phải là quyết định giải
quyết về nội dung của vụ án dân sự mà chỉ đơn thuần là một quyết định về tố tụng làm
chấm dứt việc giải quyết vụ án dân sự mà tòa án đã thụ lý.
- Thứ năm, việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được tiến hành ở cả tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.3. Ý nghĩa
- Việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có ý nghĩa nhằm khắc phục những sai lầm do
việc thụ lý không đúng đem lại.
- Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nhằm giảm bớt chi phí tố tụng cho đương
sự khi việc tiếp tục tố tụng không còn cần thiết nữa.
2
- Việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng có ý nghĩa tiết kiệm thời gian, công sức,
chi phí cho nhà nước. Làm quá trình giải quyết vụ án được nhanh gọn. Nhờ đó gánh nặng
về các vụ án cần được tòa án giải quyết sẽ giảm tải.
1.4. Phân biệt đình chỉ với tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Tạm đình chỉ là việc tòa án ra quyết định tạm ngừng việc giải quyết vụ án dân sự trong
một thời hạn nhất định và khi những lí do của việc tạm đình chỉ không còn thì tòa án lại tiếp
tục giải quyết vụ án đó. Ngược lại, đình chỉ là việc tòa án quyết định ngừng hẳn việc giải
quyết vụ án dân sự và sau khi quyết định đình chỉ có hiệu lực thì đương sự không có quyền
yêu cầu tòa án giải quyết vụ án đó nữa.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ ĐÌNH
CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở tòa án cấp sơ thẩm
1.1. Căn cứ đình chỉ
Theo khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2004, sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của
mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS trong các trường hợp sau:
Căn cứ thứ nhất: Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ
không được thừa kế.

Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa
kế được hiểu là quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật không được để lại thừa kế cho
người khác. Điều này có nghĩa là các quyền, nghĩa vụ này là các quyền, nghĩa vụ về nhân
thân, không phải quyền, nghĩa vụ về tài sản. Do gắn liền với nhân thân, nên khi đương sự
chết, quyền và nghĩa vụ đương nhiên chấm dứt. Lúc này đương nhiên hoạt động tố tụng tại
tòa sẽ chấm dứt vì đối tượng xét xử không còn nữa.
Căn cứ thứ 2: Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.
Đây là trường hợp nguyên đơn, bị đơn là cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng bị giải thể
hoặc bị tuyên bố phá sản thì tư cách pháp lý của các cơ quan tổ chức này không còn, các
quyền và nghĩa vụ cũng chấm dứt theo. Nếu không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào thừa
kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan tổ chức đó thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết
VADS.
Căn cứ thứ ba: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc người
khởi kiện không có quyền khởi kiện.
Hành vi khởi kiện là cơ sở để Tòa án giải quyết VADS. Nên khi Tòa án đang xem xét
yêu cầu khởi kiện mà người khởi kiện rút đơn khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết
nữa và được Tòa án chấp thuận thì cơ sở để giải quyết vụ án không còn nữa. Tòa án phải ra
3
quyết định đình chỉ giải quyết VADS. Khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện, thì Tòa án
phải xem xét trong vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập của người có
quyền, nghĩa vụ liên quan hay không. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết toàn bộ vụ án
khi người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố, người
có quyền, nghĩa vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập. Còn với trường hợp không phải
tất cả đều rút yêu cầu thì tòa án chỉ đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu đã rút, vẫn giải quyết
những yêu cầu khác.
Căn cứ thứ tư: Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có
nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án.
Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vì quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác. Nếu cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, Tòa án thụ lý vụ án, mà cơ

quan, tổ chức đó lại rút văn bản khởi kiện, Tòa án phải đình chỉ giải quyết VADS đó với
điều kiện không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án
Căn cứ thứ năm: Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp tục giải
quyết vụ án.
“Các đương sự đã tự thỏa thuận” là việc các đương sự chủ động thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án trong quá trình tố tụng mà không cần đế sự tác động của Tòa án. Nó
khác với các bên tự nguyện thỏa thuận giải quyết vụ án trên cơ sở Tòa án đứng ra tổ chức
hòa giải VADS.
Căn cứ thứ sáu: Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
Khi nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án sẽ
đình chỉ vụ án mà không cần quan tâm đến việc vắng mặt của nguyên đơn có lý do chính
đáng hay không có lý do chính đáng. Đây là một quy định bất hợp lý, vì có thể vì một sự
kiện bất khả kháng nào đó mà nguyên đơn không thể đến được thì quyền, lợi ích hợp pháp
của họ sẽ không được giải quyết nữa. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã
khắc phục điều đó bằng quy định: “nếu trường hợp người đó có đơn đề nghị giải quyết vắng
mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng” thì trong trường hợp này Tòa án sẽ không được đình chỉ
VADS.
Căn cứ thứ bảy: Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX là
một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản
của DN, HTX đó.
Khi đã có quyết định mở thủ tục phá sản của DN, HTX thì các quyền, nghĩa vụ sẽ được
giải quyết thông qua thủ tục phá sản. Các Tòa án không được nhận đơn khởi kiện, thụ lý
VADS có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà DN, HTX bị mở thủ tục phá sản đó là một bên
đương sự. Nếu do không biết mà thụ lý thì Tòa án đã thụ lý phải đình chỉ giải quyết VADS,
đồng thời phải chuyển hồ sơ cho Tòa án đang tiến hành mở thủ tục phá sản để giải quyết
(khoản 2 Điều 57 Luật phá sản).
Căn cứ thứ tám: Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
4
Đây là các trường hợp làm căn cứ cho Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS
mà trong BLTTDS này chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm

pháp luật khác hoặc sau khi BLTTDS có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các ĐƯQT mà Việt Nam là thành
viên (Theo nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006).
Ngoài ra, khoản 2 Điều 169 BLTTDS quy định Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án thuộc
trường hợp trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 168 BLTTDS.
Những căn cứ quy định tại Điều 168 BLTTDS bao gồm:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết.
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không đủ năng lực hành vi tố tụng
dân sự.
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ
án mà tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi
thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản hoặc vụ
án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện.
- Hết thời hạn được thông báo theo quy định tại khoản 2 Điều 171 BLTTDS mà người
khởi kiện không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
- Chưa đủ điều kiện khởi kiện.
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
1.2. Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm
Người có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS trước phiên tòa sơ thẩm
là Thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ án (Điều 194 BLTTDS), tại phiên tòa
sơ thẩm là Hội đồng xét xử (Điều 210 BLTTDS).
1.3. Hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm
Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ thẩm phải lập thành văn bản.
Mẫu, nội dung quyết định này được quy định cụ thể tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
ngày 12/5/2006 (mẫu 11a, 11b).
1.4. Hiệu lực và hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Tòa án cấp sơ
thẩm
- Hiệu lực: Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở giai đoạn sơ thẩm chưa có hiệu lực

ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo là 7
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án (Khoản 2 Điều 245 BLTTDS). Hết thời
hạn trên mà không có kháng cáo, kháng nghị thì quyết định đình chỉ giải quyết VADS có
5

×