Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 trường tiểu học nga thái học tốt về giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 21 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
1. Lý do chọn sáng kiến
2. Mục đích nghiên cứu
3.Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
2.1. Thực trạng dạy học của giáo viên
2.2. Thực trạng học của học sinh
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
4. Kết quả thực hiện SKKN
III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị
IV. Tài liệu tham khảo
V. Danh mục SKKN đã được Hội đồng Khoa học
Ngành Giáo dục & Đào tạo cấp huyện, tỉnh đánh giá

Trang
2
2-3
3
3
3
4
4
5


5
6
7
7 - 17
17 -18
19 -20
19
20
21
22

xếp loại C trở lên.

1


I. MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, mục tiêu giáo dục là quốc sách hàng đầu. Xuất phát từ
mục tiêu giáo dục bậc Tiểu học là góp phần đào tạo những con người lao động
thơng minh, linh hoạt, năng động, chủ động, sáng tạo và thích ứng. Bậc Tiểu học là
nền tảng của giáo dục phổ thơng và cũng là nền tảng của dân trí. Trên cơ sở đổi mới
phương pháp dạy học phù hợp với xu thế chung của cả nước về yêu cầu giáo dục
hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và mơn Tốn nói riêng là
cần thiết đối với yêu cầu hiện nay.
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển
những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách con người. Trong các môn học ở
Tiểu học cùng với mơn Tiếng Việt, mơn Tốn có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến
thức, kĩ năng của mơn Tốn có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, chúng rất cần
thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các mơn học khác và học tiếp Tốn ở

Trung học cơ sở. Các kiến thức, kĩ năng của mơn Tốn ở Tiểu học được hình thành
chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát
triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống con người.
Xuất phát từ mục đích, u cầu của chương trình Toán lớp 2. Từ những hạn chế
của tâm lý lứa tuổi. Từ tình hình thực tiễn, trình độ nhận thức của học sinh Tiểu học
nói chung, của lớp tơi nói riêng, các em đa số “ Giải tốn có lời văn” cịn yếu vì
nhiều ngun nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm sinh lý lứa tuổi, các em thường
vội vàng hấp tấp, nên đôi khi chưa hiểu kỹ đề bài đã vội vàng làm bài, dẫn đến bài
làm của các em cịn nhiều sai sót như câu lời giải chưa đầy đủ hoặc có những câu
lời giải chưa đúng; nhiều em cịn sai danh số ở kết quả tính ...
Việc nâng cao chất lượng dạy học mơn Tốn ở Tiểu học nói chung và học sinh
lớp 2 nói riêng, bản thân tơi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp cịn băn khoăn trăn
trở, làm thế nào để nâng cao chất lượng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2. Bản
thân tơi cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em
giải bài tốn một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận
thơng qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ
đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Với những lý do trên, tôi đã chọn giải
pháp “ Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2 Trường Tiểu học Nga Thái học
tốt về giải tốn có lời văn” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của
nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu:
2


Mục đích của sáng kiến là nghiên cứu và giới thiệu những biện pháp tích cực
trong việc dạy và học mơn tốn nói chung và giải tốn có lời văn nói riêng, góp
phần giúp học sinh lớp 2 giải được các dạng tốn có lời văn một cách tốt nhất.
Thơng qua các biện pháp này tơi có thể nâng cao kiến thức của bản thân và ý thức
được việc nghiên cứu, tìm ra những phương pháp khả thi để nâng cao chất lượng
học tốn cho học sinh Tiểu học nói chung. Học sinh lớp 2 nói riêng.

3. Đối tượng nghiên cứu:
- Thực trạng về giải tốn có lời văn của học sinh lớp hai Trường Tiểu học Nga
Thái.
- Một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng giải tốn có lời văn của
học sinh lớp hai Trường Tiểu học Nga Thái.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để việc nghiên cứu đạt kết quả rốt, tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu,
trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập số liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp dạy thực nghiệm, thực hành: Thực nghiệm đối chứng; Đánh giá kết
quả thực nghiệm.

3


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Việc hướng dẫn học sinh lớp 2 giải toán có lời văn thực chất là hướng dẫn các
em về những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thơng qua những câu văn nói
về những quan hệ, tương quan và sự phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường
xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài tốn có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để
lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất tốn học của bài tốn.
Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố
toán học chứa đựng trong bài tốn và tìm được những câu lời giải, phép tính thích
hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải tốn theo u cầu của chương trình

mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp
giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán.
Như chúng ta đã biết: Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4, các em mới phải
viết câu lời giải, cịn những năm đầu cải cách giáo dục thì đến học kì 2 của lớp 3
mới phải viết câu lời giải…Cịn đến nay theo chương trình mới thì ngay từ lớp 1
học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải. Đây quả là một bước nhảy vọt khá lớn
trong chương trình mơn tốn ở Tiểu học. Nhưng nếu như nắm bắt được cách giải
toán ngay từ lớp 1, lớp 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và
gọt giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục
học tốt ở các lớp sau.
Ta thấy rằng, giải toán ở Tiểu học trước hết là giúp các em luyện tập, vận dụng
kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp học sinh
phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lơgíc. Thơng qua giải
tốn mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động mới: Làm việc có
ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc.
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học sinh
khi giải các bài tốn có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các
em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em làm phép tính
chính xác và nhanh chóng nhưng khơng làm sao tìm được lời giải đúng hoặc đặt lời
giải khơng phù hợp với đề tốn đặt ra. Chính vì thế nhiều khi dạy học sinh đặt câu
lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các phép tính ấy để tìm ra đáp
số.
Việc đặt lời giải ngay từ lớp1, lớp 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo
viên trực tiếp giảng dạy ở lớp1, lớp 2 nhất là những tuần đầu dạy tốn có lời văn
4


ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề…Một số em mới chỉ đọc được đề toán
chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi thầy nêu: Bài tốn cho biết gì ?...
Đến khi giải tốn thì đặt câu lời giải chưa đúng, chưa hay hoặc khơng có câu lời

giải… Những ngun nhân trên khơng thể đổ lỗi về phía học sinh 100% được mà
một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền đạt của những
người thầy.
Đây cũng là lý do mà tơi chọn sáng kiến này, mong tìm ra những giải pháp
nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp 2. Để từ đó,
các em có thể thành thạo hơn với những bài tốn có lời văn khó và phức tạp ở các
lớp trên.
2. Thực trạng về việc dạy giải tốn có lời văn ở lớp 2 ở Trường Tiểu học Nga
Thái hiện nay.
2.1. Đối với việc dạy của giáo viên.
Giải tốn có lời văn cho học sinh là việc giáo viên phải dạy trong chương trình
chính khố của chương trình lớp 2. Trong quá trình dạy cho học sinh nắm bắt kiến
thức về giải tốn có lời văn là một trong các nội dung rất khó để giáo viên có thể
truyền đạt cho các em nắm bắt bài được tốt. Bởi các em học sinh lớp 2, đây là một
lớp học kế tiếp của lớp 1, các em việc đọc thông viết thạo lại cũng là một nội dung
giáo viên cần phải rèn cho các em. Bởi giai đoạn vào đầu năm học cịn nhiều học
sinh đọc cịn ngập ngừng, chưa lưu lốt, chưa trơi chảy, lí do là trong thời gian nghỉ
hè các em khơng ơn lại nên lại qn đi. Chính vì vậỵ khi dạy cho các em học giải
tốn có lời văn thì giáo viên càng gặp khó khăn hơn. Hơn nữa, một số giáo viên
thấy học sinh của mình chưa đọc thông viết thạo nên khi hướng dẫn cho các em
giải tốn có lời văn thường tập trung chú ý đến từ khoá để các em rút ra được phép
tính là được mà chưa chú ý đến việc hướng dẫn cho các em đưa ra câu lời giải. Vì
thế, nhiều em viết câu lời giải chưa đầy đủ.
Tóm lại: Giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn học sinh giải
tốn có lời văn, bởi học sinh lớp 2 vào đầu năm học các em đọc bài chưa trơi chảy,
tốc độ chậm. Vì thế các em hiểu bài toán chưa cặn kẽ, viết câu lời giải chưa đầy đủ.
2.2. Đối với học sinh.
Việc đọc viết của các em cịn chưa được thành thạo, nên khi gặp bài tốn có lời
văn, để các em hiểu làm được bài thì các em phải đọc tốt để các em mới có thể hiểu
được yêu cầu bài toán, mới biết được bài tốn cho biết gì? Bài tốn hỏi gì?

Việc đọc đề, tìm hiểu đề đang cịn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp 2. Vì kĩ
năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề
5


cịn thụ động, chậm chạp… Cũng xuất phát từ lí do đó mà các em đặt câu lời giải
cho bài tốn khơng đầy đủ theo u cầu của bài, đơi khi thiếu đi từ chìa khóa của
bài.
Thực tế trong một tiết dạy, thời gian dạy kiến thức mới mất nhiều, phần bài tập
hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không được
nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc hoc của con em mình nên kết quả
học tập của các em chưa cao.
Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nơng, đời sống kinh tế cịn nhiều
khó khăn. chính điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc học tập cũng như chất
lượng học tập của các em.
Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ơng bà chăm sóc do ơng bà đã già
yếu nên khơng quán xuyến được việc học hành của các cháu.
Do đặc điểm tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nên việc học
hành của các em nếu không có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu
quả cao.
Về cơ sở vật chất của nhà trường: Tuy nhà trường đã có đủ phịng học nhưng
trang thiết bị phục vụ cho cơng việc giảng dạy cịn chưa đảm bảo. Điều đó làm ảnh
hưởng khơng nhỏ đến việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, dẫn đến
hiệu quả giảng dạy nói chung chưa cao.
2.3. Kết quả khảo sát thực trạng.
Từ những thực trạng nêu trên tơi đã khảo sát kĩ năng giải tốn của học sinh
khối lớp 2. Đó là lớp 2A (lớp thực nghiệm) và 2B là (lớp đối chứng). Kết quả cụ
thể như sau:
Lớp

Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A
31
7
22,6%
14
45,2%
10
32,3%
2B
30
10
33,3%
13
43,3%
7
23,4
Trong số những em chưa hồn thành bài làm của mình thì một trong những
lỗi mà các em thường hay mắc phải đó là: Đặt câu lời giải chưa hồn chỉnh, câu lời
giải khơng đúng với yêu cầu của bài ra, nghĩa là còn có những em đặt câu lời giải
khơng có từ chìa khóa của bài. Các em cịn hay nhầm lẫn danh số của kết quả tính.

Ngồi ra trình bày bài chưa khoa học. … Trong số những bài làm của các em mắc
phải các lỗi như vừa nói trên thì bài làm của một học sinh dưới đây nói lên thực
trạng đó.

6


Từ những thực trạng được nêu trên để dạy cho học sinh giải tốn có lời văn
đạt hiệu quả tốt hơn, giúp các em học sinh có hứng thú trong học tập, nâng cao
chất lượng giáo dục trong nhà trường tôi xin đưa ra một số giải pháp thực hiện
như sau:
3. Một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 Trường Tiểu học Nga Thái giải tốn có
lời văn.
3.1. Giải pháp 1. Phối hợp tốt với phụ huynh học sinh để thống nhất biện
pháp giáo dục.
* Phối hợp thông qua cuộc họp phụ huynh đầu năm học.
Vào đầu năm học, theo kế hoạch của nhà trường, tôi thường mời phụ huynh đến
trường để họp. Trước khi họp tôi đã chuẩn bị trước nội dung, trong đó nội dung
quan trọng nhất là làm thế nào để phụ huynh thấy được việc chuẩn bị chu đáo sách
vơ, đồ dùng học tập cho con trước khi đến trường hay thường xuyên nhắc nhở các
em để các em có ý thức tốt trong học tập chính là đã góp phần khơng nhỏ để giáo
viên nâng cao chất lượng nói chung và nâng cao chất lượng dạy học giải tốn có lời
văn nói riêng.
Bởi như chúng ta đều biết học sinh lớp 2 đến trường cịn phụ thuộc hồn tồn
vào sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cơ. Các em chưa có ý thức tự giác
học tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tích cực học tập cho các em là một yếu tố
7


không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn. Vì thế trong cuộc họp, tơi

trao đổi với các bậc phụ huynh phải thường xuyên quan tâm nhắc nhở để các em có
ý thức trong việc chuẩn bị bài ở nhà, chuẩn bị đầy đủ sách, vở, đồ dùng học tập
trước khi đến trường. Có như thế các em mới có thể tiếp thu và làm bài chu đáo.
Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của nhiều
em chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “ Hai không” của ngành giáo dục và
giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh
dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp và những yêu cầu
cần thiết giúp các em học tập như: Mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng – cách hướng
dẫn các em tự học ở nhà, đặc biệt nhất là đối với các ông bố vào buổi tối cố gắng
bớt đi một chút thời gian chuyện trò với bạn bè, tắt (vặn nhỏ đài, ti vi) dành thời
gian nhắc nhở, quan tâm cho các em học tập….Rất mừng là đa số phụ huynh đều
nhiệt liệt hoan nghênh biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh còn đang vướng
mắc nhiều về cách dạy học cho các em – Sách giáo khoa mới còn nhiều kí hiệu, các
lệnh, yêu cầu của sách, phụ huynh chưa rõ yêu cầu bài tập; nhiều gia đình người mẹ
bận việc mà người bố ngại hướng dẫn con nên việc học của con cái chưa được tập
trung chú ý. Riêng trong phần bài tập của sách Tốn, tơi hướng dẫn phụ huynh cách
dạy các em luyện nêu miệng các đề tốn, luyện nói và trả lời câu lời giải của bài
tốn.
Tóm lại: Cuộc họp gặp gỡ phụ huynh đầu năm tôi đã trao đổi thống nhất
biện pháp giáo dục học sinh như quan tâm nhắc nhở các em ý thức học tập như
chuẩn bị chu đáo sách, vở, đồ dùng học tập. Trao đổi để phụ huynh nhắc nhở các
em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài. Dành cho các em một góc học tập thật
yên tĩnh để ngồi học tiếp thu bài tốt hơn. Trao đổi để phụ huynh hướng dẫn con em
biết cách đọc hiểu văn bản nhất là hiểu rõ nội dung của dạng toán: giải tốn có lời
văn. Đồng thời tơi cũng nêu những hạn chế của các em khi giải tốn có lời văn như
do đọc chưa lưu loát nên chưa hiểu kĩ yêu cầu của bài dẫn đến nhiều lỗi trong bài
làm: câu lời giải chưa hồn chỉnh, có em câu lời giải chưa đúng yêu cầu bài ra.
Tất cả các nội trên được phụ huynh đồng tình ủng hộ. Trong quá trình học tập các
em ln chăm chỉ, phát huy tốt tinh thần học tập như phát biểu và xây dựng bài
thường xuyên. Kết quả học tập của em ngày càng cao.

* Gặp gỡ trực tiếp với phụ huynh có học sinh cá biệt.
Cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt, những
trường hợp này do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học, và do điều kiện
gia đình cịn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho giáo viên, cho
8


nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này hầu hết đều có con là học sinh
cá biệt. Đối tượng này tơi tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại nhà. Các gia đình này phần
lớn trình độ văn hố của bố mẹ cịn thấp, thậm chí họ khơng biết cách dạy con như
thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “ Học bài đi” rồi con học gì, làm gì ở bàn
học bố mẹ cũng khơng hay…Đối với những em này, tôi phải hướng dẫn nhiều hơn
ở lớp để về nhà các em tự học. Một số học sinh thiếu Sách giáo khoa và Vở bài tập,
tôi gặp gỡ trao đổi với phụ huynh, động viên họ mua sách ( sách cũ cũng được) tạo
điều kiện cho con em học tập; tôi trực tiếp kêu gọi những em học sinh cũ ( lớp 2
năm ngoái) ủng hộ số sách cũ của các em cho nhà trường để nhà trường giúp đỡ
những em có hồn cảnh gia đình khó khăn. Cịn vở bài tập tơi cho phơ tơ lại cho
những em thiếu, vì khơng có vở bài tập các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi làm
bài tập nhất là trong khi kĩ năng đọc, viết chưa thành thạo song lại còn hay trêu
chọc bạn trong giờ học như: em Thái, em Thanh, em Xuân, em Kiều Anh, em Mạnh

Tóm lại: Cuộc gặp gỡ những phụ huynh có học sinh cá biệt cũng như gặp gỡ
trực tiếp những học sinh này tôi đã thuyết phục được họ trong việc quan tâm chăm
sóc con cái học hành. Điều đó thể hiện thông qua việc kiểm tra sách vở, đồ dùng
học tập của các em. Hằng ngày, các em chuẩn bị chu đáo sách, vở, đồ dùng học tập.
Các em thường xuyên phát biểu ý kiến xây dựng bài. Học bài và làm bài đầy đủ.
3.2. Giải pháp 2. Rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong giờ Tiếng việt làm nền
tảng cho việc đặt câu lời giải trong giải tốn có lời văn lớp 2.
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải tốn thì chúng ta
khơng chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ tốn mà một yếu tố khơng kém phần quan

trọng đó là luyện kĩ năng nghe, nói, đọc viết trong giờ Tiếng việt.
Theo chương trình SGK mới đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập giải tốn có
lời văn. Ở lớp 1 u cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu tiếp câu hỏi để
hồn chỉnh đề tốn, tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản và chưa yêu cầu lời giải
hay, chính xác. Trong khi thời gian dành cho cả tiết học là không quá 40 phút, với
nhiều yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn luyện nhiều. Vì vậy,
khi lên lớp 2 những tuần đầu khi học đến phần giải tốn có lời văn, nhiều em lúng
túng kể cả một số em có lực học khá. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn các em nêu
đề tốn, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, sự trau chuốt
lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các em
ở những tiết tốn có bài tốn giải tơi thường dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn
kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình thành kĩ năng.
9


Ví dụ: u cầu học sinh đọc đề tốn ở trang 11 SGK Tốn 2.
“ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi
cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”.
Sau đó yêu cầu các em thực hiện các bước tiếp theo như sau:
- Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài tốn:
Lớp 2A có :
18 học sinh.
Lớp 2B có :
21 học sinh.
Hỏi có tất cả : ….
học sinh?
Qua đó giúp cho các em hiểu rõ ràng hơn về bài toán, biết được mối quan hệ
giữa các yếu tố có trong bài tốn.
- Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là:

- Học sinh nêu miệng phép tính:
18 + 21 = 39 (học sinh)
Tiếp đó, học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề tốn bằng lời sau
đó nêu cách giải rồi tự giải. Ở dạng bài này, giáo viên cũng cần cho học sinh luyện
nêu miệng đề toán nhiều lần để các em ghi nhớ nội dung bài tốn.
Ví dụ: Bài tập 2 (trang 25 - SGK tốn 2)
An có:
11 bưu ảnh.
Bình nhiều hơn An: 3 bưu ảnh.
Bình có:
…bưu ảnh?
Tơi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề tốn bằng lời theo
u cầu.
Học sinh: An có 11 bưu ảnh. Bình có số bưu ảnh nhiều hơn số bưu ảnh của An
là 3 cái. Hỏi Bình có tất cả bao nhiêu bưu ảnh?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng:
Bình có tất cả số bưu ảnh là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Trình bày bài giải:
Bài giải
Bình có tất cả số bưu ảnh là:
11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Đáp số: 14 bưu ảnh.
Chính vì vậy, để các em mạnh dạn tự tin khi phát biểu, trả lời . Vì thế người
giáo viên cần phải: ln ln gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các
trò chơi học tập, được trao đổi, luyện nói, luyện viết nhiều trong các giờ học Tiếng
Việt giúp các em có vốn từ nhất định để giao tiếp, để vận dụng trong việc giải toán
10


có lời văn; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn

mà khơng rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý nhiều đến kĩ
năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chỗ giúp học sinh
có kĩ năng nghe, hiểu được những yêu cầu mà các bài tập nêu ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải tốn có lời văn thành thạo, tơi ln ln chú ý
rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học Tiếng
Việt, bởi vì học sinh đọc thơng, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ
đề và tìm cách giải tốn một cách thành thạo. Các em có đọc thơng, đọc lưu lốt thì
các em mới hiểu được bài tốn cho biết gì ?; bài tốn u cầu làm gì ?. Mối quan hệ
giữa các yếu tố trong bài là gì ?. Từ đó các em mới làm đúng theo yêu cầu bài ra.
Trong thực tế, nhờ rèn tốt 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết mà việc học giải tốn có lời
văn học sinh làm bài dễ dàng hơn. Các em trình bày câu lời giải hồn chỉnh. Cũng
do đọc bài tốn trơi chảy nên các em khơng cịn nhầm lẫn danh số ở kết quả tính.
3.3. Giải pháp 3. Áp dụng các bước giải vào giải tốn có lời văn.
Để giúp học sinh nắm được yêu cầu bài toán, học sinh hiểu được cách giải bài
tốn có lời văn. Trước hết, tơi đã nghiên cứu chương trình Tốn lớp 2 mới, thường
được cho dưới các dạng bài như sau:
Lớp 2A có 15 học sinh gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3
bạn. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai?
Tháng trước tổ em được thưởng 6 quyển vở, tháng này tổ em được thưởng
nhiều hơn tháng trước 5 quyển vở. Hỏi tháng này tổ em được bao nhiêu quyển vở ?
Nhưng dù ở hình thức nào, dạng nào tôi cũng tập trung luyện cho học sinh
các kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài tốn, tìm cách giải bài tốn và kĩ năng trình bày
bài giải, được tiến hành cụ thể qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán.
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá
quan trọng nói lên những tình huống tốn học bị che lấp dưới cái vỏ ngơn từ thơng
thường như: “ ít hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả”…
Nếu trong bài tốn có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng
dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài tốn đang
làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề tốn bằng cách đặt câu hỏi đàm thoại:

“ Bài toán cho biết gì? Bài tốn hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán…
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu cịn chậm, tơi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội
dung, yêu cầu của đề tốn. Qua đó học sinh hiểu được u cầu của bài toán và dựa
11


vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài tốn
rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài tốn.
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép cộng” nếu
bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” (Tuy nhiên cũng có bài tốn có từ khóa “nhiều hơn”
nhưng lại phải làm tính trừ) hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt”
hoặc “ tìm phần cịn lại” hay là “ít hơn” (Tuy vậy cũng có bài tốn có từ khóa “ít
hơn” nhưng lại phải làm tính cộng) …
Ví dụ:
Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây
cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải tốn thơng qua các câu hỏi
gợi ý như:
+ Bài tốn cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam)
+ Bài tốn cịn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây)
H: Bài tốn hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam)
H: Muốn biết vườn nhà Hoa có mấy cây cam em làm như thế nào? (làm tính trừ)
H: Lấy mấy trừ đi mấy? (17 – 7)
H: Vậy 17 – 7 bằng bao nhiêu? ( 17 – 7 = 10 )
Tóm lại: Với u cầu bài tập trên thì “ít hơn” là làm phép tính trừ. Nhưng

đối với dạng bài tập sau trong bài tốn cũng có từ chìa khóa là “ít hơn” nhưng
chúng ta lại phải hướng dẫn học sinh làm phép tính cộng.
Chẳng hạn: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Mai có ít hơn vườn nhà Hoa 7
cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vơ cùng
quan trọng và khó khăn nhất đối với học sinh lớp 2. Chính vì vậy việc hướng dẫn
học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó khăn lớn đối với người
dạy. Tùy từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn cách hướng dẫn sau:
Từ câu hỏi của bài toán: Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?

12


Tôi hướng dẫn học sinh chuyển từ câu hỏi sang câu khẳng định (đó chính là câu lời
giải): Vườn nhà Hoa có số cây cam là (bỏ từ để hỏi đi và đưa thêm từ chỉ lượng
vào trước danh từ Cây cam. (Hoặc câu lời giải có tất cả số cây cam là)
Vườn nhà Hoa có số cây cam là:
17 – 7 = 10 (cây cam)
Đáp số: 10 (cây cam).
Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em lựa
chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp.
Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em suy
nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp
với câu hỏi của bài tốn đó.
Tóm lại: Để có câu lời giải đúng và hay cần hướng dẫn học sinh cách đặt như sau:
Hướng dẫn học sinh chuyển từ câu hỏi sang câu khẳng định (đó chính là câu lời
giải).
Ví dụ: Từ câu hỏi của bài tốn: Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
Vườn nhà Hoa có số cây cam là (bỏ từ để hỏi đi và đưa thêm từ chỉ lượng vào

trước danh từ
Bước 3: Trình bày bài giải:
Như chúng ta đã biết, các dạng tốn có lời văn học sinh đã phải tự viết câu lời
giải, phép tính, đáp số.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp
mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước
tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định.
Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau
gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân),
câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 đến 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu
có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 đến 3 chữ, cuối
phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần
vở bên phải ( có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính
(khơng phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tơi thường xun trình bày
bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó
học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó, tơi còn thường xuyên chấm
bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước lớp những

13


học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại bài làm
của mình để các bạn cùng học tập…
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tơi cũng ln ln nhắc
nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp
giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự
thành cơng trong vấn đề giải tốn có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực
tiếp các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải tốn có lời văn, tơi đã cho học sinh

làm một số dạng bài tập giải tốn có lời văn như sau:
Ví dụ 1: Nam có 6 lá cờ, Hùng có 9 lá cờ. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu lá cờ?
Khơng cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay cách làm như sau:
Tóm tắt
Bài giải
Nam có:
6 lá cờ.
Cả hai bạn có số lá cờ là:
Hùng có:
9 lá cờ.
6 + 9 = 15 ( lá cờ)
Cả hai bạn: … lá cờ?
Đáp số: 15 lá cờ.
Ví dụ 2: Hải có 15 hịn bi, Hải cho bạn 6 hòn bi. Hỏi Hải còn lại bao nhiêu hịn bi?
Học sinh lớp tơi thực hiện như sau:
Tóm tắt
Bài giải
Hải có:
15hịn bi.
Hải cịn lại số hịn bi là:
Cho bạn:
6 hòn bi.
15 – 6 = 9 (hòn bi)
Còn lại: … hòn bi?
Đáp số: 9 hòn bi.
Sau mỗi bài tập học sinh làm tôi đều chấm, chữa bài của các em nhằm củng cố,
khắc sâu kiến thức cho các em.
Chẳng hạn như ở ví dụ 2 vừa nêu trên, sau khi học sinh trình bày bài trên bảng lớp
tơi cho học sinh đó nêu cách làm của mình bằng cách tôi đặt hệ thống câu hỏi
ngược từ dưới lên như:

H: Vì sao để biết được Hải cịn lại bao nhiêu hịn bi em lại thực hiện phép tính trừ:
15 – 6 để có kết quả là 9 hịn bi.
HS: Vì lúc đầu Hải có 15 hịn bi và Hải đã cho bạn 6 hòn bi. Nên để biết được Hải
còn lại bao nhiêu hòn bi em đã thực hiện phép tính trừ:15 – 6 và kết quả là 9 hịn bi.
* GV chốt: như vậy trong bài tốn có mối quan hệ như “lúc đầu có”; “cho đi”;
“hỏi cịn lại” thì thực hiện “phép tính trừ”
H: Bạn nào nhận xét câu lời giải và cách làm của bạn vừa nêu trên ?
H: Bạn nào có câu lời giải khác mà vẫn phù hợp với yêu cầu của bài toán ?

14


Tóm lại: Nhờ có các bước giải rõ ràng như trên và với phương pháp dạy theo
đổi mới phương pháp dạy học hiện nay mà học sinh lớp tôi tiếp thu bài ngày một
tiến bộ. Đối với việc học giải tốn có văn các em đã biết trình bày câu lời giải một
cách hồn hảo. Thực hiện phép tính đúng, chính xác kết quả. Trình bày bài sạch sẽ,
khoa học. Chữ viết của các em cũng đẹp.
3.4. Giải pháp 4. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ
năng giải tốn.
Bậc tiểu học có đặc điểm riêng về tâm sinh lý lứa tuổi nên việc chấm chữa kịp
thời của giáo viên đối với trẻ là rất phù hợp, nó tác động ngay tới hành động của
trẻ. Chấm chữa kịp thời của giáo viên trong giờ học toán là rất quan trọng. Qua
chấm chữa, giáo viên nắm được tình hình chất lượng tiếp thu bài học và bản thân
học sinh cũng tự thấy mình hiểu chỗ nào, chỗ nào chưa hiểu.
Cụ thể trong tiết tốn tơi đã thường xuyên thực hiện như sau :
Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyết các bài tập
trong "Vở bài tập tốn 2". Tơi ln cố gắng đảm bảo 100% học sinh trong lớp làm
đầy đủ các bài tập theo yêu cầu.
Đối với học sinh có khả năng hồn thành tốt bài tập thì dễ dàng, cịn đối với
học sinh có khả năng hồn thành hoặc chưa hồn thành bài tập thì để làm đúng

100% số bài tập ngay tại lớp là khó khăn. Vì vậy trong q trình học sinh đang làm
bài tập, tơi đã quan sát việc làm bài của số học sinh này nhiều hơn, kịp thời phát
hiện những chỗ sai để uốn nắn học sinh theo dõi bài chữa trên bảng, biết chỗ sai để
học sinh tự chữa ; có thể dùng một vài câu hỏi nhỏ gợi ý.
Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học
sinh sai thì tơi u cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa thế nào ?
Thường thì tơi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh làm
được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tơi đã củng cố cho học sinh đó và đồng thời
chữa chung cho nhiều em khác.
Cịn gặp bài khó, học sinh lúng túng, tôi dùng câu hỏi gợi ý hoặc dùng học
sinh có khả năng hồn thành tốt bài tập tham gia chữa bài.
Trong tiết tốn, thời gian có hạn, tơi chú ý chấm chữa cho học sinh có khả năng
hoàn thành hoặc chưa hoàn thành bài tập và chú ý tới những lỗi sai mà học sinh
mắc nhiều.
Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm
tốn đúng, chủ động giải. Tôi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách :

15


+ Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như: Tên đơn vị, kết quả ... vào ngay trong vở
"Bài tập toán 2", lỗi lớn như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào
vở tốn khác do lớp quy định. Sau đó tơi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa
của học sinh, học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có
những học sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được tôi kiểm tra triệt để, cuối cùng
phải chữa đúng mới thôi.
+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài,
tơi u cầu học sinh ngồi việc chữa đúng cịn phải trình bày lưu lốt, sạch đẹp, rõ
ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh
nhớ rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng tốn khó học sinh rất ít sai sót.

Tóm lại: Thơng qua việc chấm, chữa bài thường xun cho học sinh theo
thông tư Số: 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của BGDĐT về việc
đánh giá học sinh Tiểu học. Tôi nhận thấy rằng, việc việc chấm, chữa bài mơn Tốn
nói chung và dạng tốn về giải tốn có lời văn nói riêng giúp cho các em phát huy
tốt được các ưu điểm của mình và khắc phục nhanh chóng những thiếu sót về mặt
kiến thức, những kiến thức của các em được bổ sung và khắc sâu thường xuyên
nhờ việc chấm chữa bài đúng quy định. Chẳng hạn như khi chữa bài tôi nhận xét kĩ
từng câu lời giải. Khen các em nếu các em đặt câu lời giải đúng, bổ sung, chỉnh sửa
cho các em nếu câu lời giải của các em chưa đầy đủ ... Về phép tính, kết quả của
phép tính hay ghi đáp số cho bài giải tôi cũng nhận xét rất tỉ mỉ cho các em để các
em phát huy hết khả năng của bản thân và sửa những sai sót (nếu có).
3.5. Giải pháp 5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện . Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý
từng học sinh mà cứ q khen sẽ khơng có tác dụng kích thích. Đối với những em
chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tơi ln ln chú ý nhắc nhở, gọi các em
trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tơi tuyên
dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với
những em hồn thành tốt phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tơi
mới khen.Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong
lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tâp.
Ngồi ra, việc áp dụng các trị chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố
khơng kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học tập, mong
muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta
đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp hai nói riêng có trí thơng minh
16


khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. đó là tiền đề tốt cho việc phát
triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt,

căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển
hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan cịn chưa hồn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ
thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó
trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì địi hỏi người giáo
viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học:“ Lấy học sinh làm
trung tâm.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong
mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2 – 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ
bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng
thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã
học….
Tóm lại: Trong q trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý đến
việc tổ chức các trị chơi tốn học nhằm khuyến khích học sinh, tạo hứng thú trong
học tập. Cũng nhờ giải pháp này mà học sinh lớp tôi trong mỗi giờ học các em luôn
hào hứng, tinh thần phấn khởi, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.
4. Kết quả thực hiện SKKN:
Vào đầu tháng 4 năm học 2017 – 2018 tôi đã khảo sát kỹ năng giải tốn có
lời văn của học sinh lớp 2A do tôi trực tiếp chủ nhiệm, giảng dạy và lớp 2B là lớp
đối chứng.
Kết quả đạt được như sau:
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
SL

TL
2A
31
17
54,8%
14
45,2%
0
0
2B
30
8
26,7%
15
50,0%
7
23,3%
Từ kết quả khảo sát nêu trên, tôi thấy rằng số học sinh hồn thành tốt dạng
tốn về Giải bài tốn có lời văn tỉ lệ được nâng lên rõ rệt. Một số lỗi trong bài làm
của học sinh như đã nêu ở phần khảo sát thực trạng đầu năm đến nay đã khơng cịn
nữa mà thay vào đó là những bài làm có câu lời giải đầy đủ. Bài làm trình bày rõ
ràng, sạch
đẹp. Trong số những bài làm rất hoàn hảo như đã nêu trên thì bài làm của một học
sinh dưới đây là một minh chứng tiêu biểu như thế.

17


18



III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
* Sự cần thiết của việc hướng dẫn học sinh lớp 2 giải tốn có lời văn.
Việc dạy – học giải tốn có lời văn là vấn đề quan trọng trong việc dạy học
tốn nói chung và dạy học ở dạng này nói riêng. Tơi nhận thấy việc dạy cho học
sinh giải tốn có lời văn thành thạo khơng phải là khó song cũng không phải là dễ,
làm cho học sinh hiểu được mục tiêu quan trọng của nó đó là cơ sở ban đầu cho
việc tiếp tục học tập của các lớp trên.
Việc giải tốn có lời văn một cách thành thạo giúp các em phát triển tốt tư
duy toán học, là cầu nối để các em tiếp cận với các dạng tốn giải có lời văn ở mức
độ khó hơn đối với các lớp tiếp theo.
* Kinh nghiệm của bản thân sau khi nghiên cứu đúc rút sáng kiến:
- Phải có cái nhìn tổng quát về chương trình, đặc biệt là phần giải tốn có lời
văn gồm những dạng nào. Để từ đó xây dựng bài giảng trên cơ sở khắc phục những
nhược điểm, kế thừa và phát huy những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền
thống để nâng cao chất lượng dạy học.
- Khi dạy nên tổ chức cho học sinh tiến hành các hoạt động học tập “bằng tay”
địi hỏi mỗi học sinh tự suy nghĩ tìm tịi. Nhờ đó mà giáo viên có thể biết được
năng lực của từng học sinh, cũng như các em có chịu suy nghĩ (làm việc ) hay
không qua hoạt động “bằng tay” của các em. Nguồn thông tin phản hồi từ học sinh
này sẽ giúp cho giáo viên tiếp tục quá trình dạy học một cách thuận lợi. Hình thức
dạy học này thúc giục 100% học sinh suy nghĩ (làm việc) để tự mình chiếm lĩnh
kiến thức mới.
- Khi lập kế hoạch phải dự tính trước được lỗi học sinh thường mắc phải, từ đó
có cách chữa lỗi. Trong giờ học không nên nặng nề, không nên gay gắt với những
học sinh thường mắc lỗi, nhẹ nhàng để học sinh thấy n tâm.
- Người giáo viên phải thực sự có lịng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với
lương tâm trách nhiệm của người thầy.
Trong q trình giảng dạy phải ln nắm bắt, đúc rút những vướng mắc, khó

khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.
Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần chú ý
nhiều đến kĩ năng: nghe - đọc – nói – viết trong môn Tiếng việt. Luyện kĩ năng hỏi
Đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thơng hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời
giải cho bài toán.
19


Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần, mỗi
dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo
viên trong mọi lúc của giờ học.
Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều
hình thức hoạt động học tập.
Người giáo viên cần phải ln ln có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức để
đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn thế, người giáo viên phải
dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tịi trong các tài liệu có liên quan, tham
gia tích cực vào các lớp nghiệp vụ do ngành, trường tổ chức. Điều quan trọng nhất
trong dạy học là: Lịng u nghề và trình độ chun mơn của mỗi giáo viên.
2. Kiến nghị: Không
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nga Thái, ngày 20 tháng 4 năm 2018
HIỆU TRƯỞNG
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Thoa


20


Mẫu 1 (2)

V. DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thoa
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Nga Thái

TT
1.

Tên đề tài SKKN
Biện pháp rèn chữ viết cho
học sinh lớp 1

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Ngành GD cấp
huyện

Kết quả
đánh giá
xếp loại

(A, B, hoặc C)

C

Năm học
đánh giá xếp
loại
2012-2013

2.
3.
--------------------------------------------------

21



×