Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khoa học, hiệu quả trong dạy học mạch kiến thức số học nhằm nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mục tiêu dạy học ở bậc Tiểu học là giúp học sinh hình thành và phát triển
toàn diện nhân cách con người, đặt nền tảng vững chắc cho Giáo dục phổ thông
và thống Giáo dục quốc dân. Để đạt được mục tiêu này, các trường Tiểu học cần
có sự đổi mới toàn diện về mọi mặt, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học.
Những phương pháp dạy học kích thích được sự tìm tòi, ham học hỏi của học
sinh, rèn luyện cho học sinh tính năng động và sáng tạo đó là phương châm mà
người giáo viên cần hướng tới, chính là dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt
động của người học, tập trung vào hoạt động của người học, rèn luyện cho trẻ
em những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập Quốc Tế.
Trong các môn học ở Tiểu học, môn Toán có một vị trí hết sức quan trọng.
Môn Toán trang bị cho các em kiến thức, kỹ năng để ứng dụng trong đời sống.
Môn Toán đóng góp một phần rất quan trọng trong việc rèn luyện suy nghĩ,
phương pháp suy luận logic, pháp giải quyết vấn đề… Nó đóng góp vào việc
phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Nó đóng
góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao
động như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nề nếp
và tác phong khoa học.
Lớp Một là lớp đầu cấp ở bậc học Tiểu học. Học sinh Tiểu học nhỏ tuổi nên
việc tư duy còn hạn chế. Tư duy của các em phù hợp với tư duy trực quan hơn là
tư duy trừu tượng. Mới tới trường năm đầu, học sinh lớp Một rất bỡ ngỡ từ việc
chuyển hoạt động chủ đạo chơi sang hoạt động học tập. Đặc biệt, tư duy của trẻ
lớp Một là tư duy trực quan cụ thể, đó là kiểu tư duy được hình thành trong quá
trình trẻ vui chơi. Ở lứa tuổi này, các em rất dễ xúc cảm, thích cái đẹp, cái mới
lạ, tích cực ham muốn gần gũi với thiên nhiên, nhạy cảm với các hoạt động văn
học nghệ thuật như: sách, truyện, tranh ảnh, vật thật, phim ảnh, kịch, múa…Bởi
vậy, việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học, đặc biệt là đồ dùng trực quan trong
dạy học nói chung, trong dạy học toán nói riêng là điều rất cần thiết. Đồ dùng
trực quan sinh động góp phần to lớn trong việc hình thành kiến thức, trong việc


giáo dục. Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp Một, qua thực tế dự
giờ thăm lớp của đồng nghiệp, giáo viên nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trực
quan còn có những bất cập và hạn chế. Bởi vậy, tôi suy nghĩ trăn trở tìm giải
pháp thế nào để việc dạy học Toán được tốt hơn và mong muốn giáo viên và học
sinh cần có kỹ năng trong việc sử dụng trực quan. Do đó bản thân đã tập trung
nghiên cứu đề tài: “Kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan khoa học hiệu
quả trong dạy học mạch kiến thức số học nhằm nâng cao chất lượng dạy học
Toán cho học sinh lớp 1C Trường Tiểu học Nga Bạch - Nga Sơn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu về:

1


- Cách sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học toán nói chung và mạch số
học nói riêng.
- Giúp giáo viên có kĩ năng sử dụng đồ dùng dạy học toán để nâng cao hiệu
quả giảng dạy.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu khái quát chương trình toán ở lớp 1.
- Nghiên cứu một số phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
toán ở lớp 1.
- Tổng kết, rút ra một số bài học sinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu đề
tài để giúp các đồng chí giáo viên có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng trực quan
trong quá trình giảng dạy môn toán nói chung và mạch số học nói riêng cho học
sinh lớp 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu qua các đầu sách tham khảo, trên mạng Internet. Tài
liệu sách, báo. Sách giáo viên toán lớp 1; Sách giáo khoa toán 1.

- Phương pháp nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận:
Điều tra tình hình thực tế học sinh trong lớp.
Thông qua dự giờ, thăm lớp, trao đổi với đồng nghiệp về những thuận lợi,
khó khăn khi dạy mạch số học cho học sinh lớp 1.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Tổng hợp điều tra mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học,
Kiểm tra việc học tập của học sinh, phân loại học sinh để có nội dung và
phương pháp dạy phù hợp với các đối tượng học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Sử dụng bảng biểu đối chiếu, xử lý số liệu, so sánh số liệu.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1 Tầm quan trọng của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học toán lớp 1.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Toán ở Tiểu học là rất cần thiết vì
nhận thức của trẻ từ 6 - 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hiện tượng cụ
thể, hình ảnh cụ thể. Trong khi đó, các kiến thức của môn Toán lại có tính trừu
tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp trực quan sẽ giúp học sinh có chỗ
dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, để nắm được các kiến thức
trừu tượng, phát triển năng lực tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng.
Quan niệm về cụ thể và trừu tượng chỉ có tính chất tương đối. Khi học sinh
6 tuổi học về các số tự nhiên thì khái niệm số tự nhiên là trừu tượng. Giáo viên
phải sử dụng phương tiện trực quan là những vật cụ thể như quả cam, con mèo,
ông hoa, cây... để biểu thị. Như vậy, việc dạy Toán ở Tiểu học phải dựa vào
phương tiện trực quan (ở mức độ khác nhau) và sử dụng phương pháp trực quan
là một việc rất cần thiết. Hầu hết giáo viên đã nhận thức rõ điều đó. Các đồng
2


chí đã lựa chọn sử dụng các phương pháp dạy học vào trong các tiết dạy, song

sự linh hoạt, sáng tạo chưa cao, đặc biệt là việc sử dụng đồ dùng trực quan,
phương pháp trực quan chưa được hợp lý dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa tốt.
Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp cho giáo viên
và học sinh tổ chức quá trình dạy học hợp lí, có hiệu quả. Trong quá trình đổi
mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong những điều
kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên và học sinh thực hiện mục tiêu dạy học.
Hơn nữa, đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi
năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn
luyện kĩ năng học tập và thực hành. Đồ dùng dạy học là vật chất hữu hình tưởng
như là vô tri, vô giác nhưng dưới sự điều khiển của giáo viên, đồ dùng dạy học
thể hiện khả năng sư phạm của nó: Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự
lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ học sinh động, hiệu quả hơn. Nếu việc ”Dạy chay,
dạy suông” làm cho người học thụ động, không phát huy được tính tích cực chủ
động, sáng tạo thì sự hỗ trợ đắc lực của đồ dùng dạy học sẽ là cầu nối giữa
người dạy và người học. Làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp dào tạo và làm cho
chất lượng giảng dạy và học tập được nâng cao.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Về phía nhà trường.
Nhà trường đã tạo điều kiện mua sắm đồ dùng dạy hoc cần thiết cho giảng
dạy. Trường đã có 02 bộ máy chiếu đa năng. Mỗi lớp Một đều được trang bị 01
bộ đồ dùng dạy học Toán. Học sinh được trang bị mỗi em 01 bộ đồ dùng học
Toán. Lớp học có hệ thống bảng chống loá, bảng phụ. Trường đã động viên giáo
viên tự làm đồ dùng thi sử dụng đồ dùng cấp trường.
Chương trình toán hiện nay có cấu trúc đồng tâm, lôgic, thuật ngữ Toán học
chính xác, rõ ràng, phù hợp với tư duy trẻ. Vì vậy học sinh dễ tiếp thu kiến thức
mới và áp dụng để làm bài tập. Sách giáo khoa mới có các kênh hình rất đẹp,
sinh động gần gũi với đời sống của trẻ (ước tính kênh hình nhiều gấp đôi kênh
chữ và số).
Tuy đồ dùng dạy học môn Toán lớp Một được trang bị nhiều nhưng chưa

đáp ứng hết sự phù hợp với từng bài dạy, chưa đủ để phục vụ nhu cầu cần thiết
cho môn Toán.
* Thực trạng về giáo viên.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy tại trường Tiểu học Nga Bạch, bản thân
tôi thấy được những ưu điểm cũng như một số tồn tại khó khăn cần được khắc
phục khi sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học Toán 1 mạch số học như sau:
Hầu hết giáo viên đã nhận thức được tác dụng của các phương pháp dạy
học nói chung và phương pháp trực quan nói riêng, song để vận dụng và thực
hiện như thế nào cho có hiệu quả thì đây là một vấn đề đang cần tìm hướng giải
quyết, bởi vì nếu sử dụng không đúng các phương pháp sẽ vô tình làm cho chất
lượng giờ học kém đi, phi khoa học.

3


- Hầu hết giáo viên đã ý thức được sự cần thiết của việc sử dụng trực quan
trong dạy học Tiểu học nói chung và trong dạy học Toán 1 nói riêng nên họ đã
lựa chọn sử dụng ở đa số các tiết dạy.
- Đồ dùng được sử dụng trong tiết dạy đơn giản, gần gũi với học sinh.
- Trong các tiết toán, một số giáo viên vẫn quan niệm học sinh lớp 1 chủ
yếu nhận biết số và tính toán cộng, trừ là được nên bỏ qua phần trực quan mà
giới thiệu luôn số và phép tính. Vì vậy dẫn đến học sinh tiếp thu kiến thức máy
móc, không hiểu bản chất vấn đề nên chóng quên kiến thức.
- Chưa nghiên cứu kĩ để hiểu ý đồ của SGK nên đôi khi sử dụng đồ dùng
trực quan trong tiết dạy không khoa học, hợp lí, vì vậy hiệu quả giờ dạy chưa
cao.
- Chưa tuân thủ các yêu cầu căn bản khi sử dụng đồ dùng trực quan.
- Chưa có sự linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng phương pháp trực quan cũng
như sử dụng đồ dùng trực quan
- Sử dụng phương tiện trực quan giống nhau dẫn đến sự nhàm chán đối với

học sinh. Đôi khi giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan một cách hình thức, đối
phó.
- Một số giáo viên chưa ý thức được tầm quan trọng của việc sử dụng trực
quan hoặc còn ngại sử dụng đồ dùng.
* Thực trạng về học sinh:
- Hầu hết học sinh có hứng thú học tập trong các giờ học có sử dụng đồ
dùng trực quan.
- Học sinh lớp 1 còn rất nhỏ, việc tiếp thu kiến thức ở bậc học mới gặp khó
khăn đặc biệt là thời gian đầu năm học mới.
- Một số học sinh khi được giáo viên giới thiệu kiến thức bằng đồ dùng trực
quan thấy lạ thì tập trung chú ý vào đồ dùng của cô, quên nhiệm vụ học tập.
- Một số gia đình học sinh phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của các
em nên chưa chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập của học sinh trước khi đến lớp. Vì
vậy đã ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của học sinh.
- Học sinh lớp một chưa mạnh dạn trao đổi ý kiến với cô giáo. Vì vậy có
vấn đề chưa hiểu không dám trao đổi với giáo viên dẫn đến hổng kiến thức.
* Kết quả của thực trạng trên.
Năm học 2017-2018 tôi được phân công phụ trách lớp 1C, bản thân chưa
có nhiều kinh nghiệm nên chÊt lượng học sinh không đạt được như mong muốn
qua thực tế nghiên cứu và khảo sát chất lượng đầu năm thu được kết quả như
sau:
Số HS Điểm 9-10
SL
TL
34em
5 14,7%

Điểm 7- 8
SL
TL

7
20,5%

Điểm 5- 6
SL
TL
14
44,3%

Điểm dưới 5
SL
TL
7
20,5%

4


Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, học sinh đạt điểm 9, điểm 10 còn hạn
chế, điểm dưới 5 còn nhiều .Khi dạy bài mới, việc sử dụng trực quan đã có song
chưa được chú trọng, tôi thấy học sinh đã thích học môn Toán nhưng kết quả
chưa cao. Điều đó chứng tỏ rằng bản thân các em cần có sự hướng dẫn tỉ mỉ của
giáo viên, tự mình sử dụng trực quan để tìm ra kiến thức và củng cố kiến thức.
Muốn nâng cao chất lượng dạy học, làm thế nào để học sinh tiếp thu bài tốt mà
không nặng nề đối với học sinh? Tôi thấy việc sử dụng trực quan trong giờ dạy
học Toán cần phải có sự chuẩn bị nỗ lực của cả thầy và trò, có biện pháp,
phương pháp sử dụng hợp lý, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để nâng cao
chất lượng dạy học môn Toán thì mới đạt được hiệu quả.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Nắm vững bản chất dạy học trực quan và một số yêu cầu

khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học.
1.1. Nắm vững bản chất của việc sử dụng đồ dùng trực quan:
Dạy học trực quan (hay còn gọi là trình bày trực quan) là phương pháp dạy
học sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước,
trong và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, khi củng cố, hệ thống hóa và kiểm
tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Phương pháp dạy học trực quan được thể hiện dưới
hình thức là minh họa và trình bày.
Những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa như bản mẫu, bản đồ, bức
tranh, tranh chân dung, hình vẽ trên bảng,...
Trình bày thường gắn liền với việc trình bày thí nghiệm, những thiết bị kĩ
thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí nghiệm là
trình bày mô hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận về
mặt sư phạm. Nó là cơ sở, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức - học tập
của học sinh, là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Thông qua sự trình bày của
giáo viên mà học sinh không chỉ lĩnh hội dễ dàng tri thức mà còn giúp học tập
được những thao tác mẫu của giáo viên, từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo,...  6
1.2. Vận dụng linh hoạt quy trình sử dụng đồ dùng trực quan.
Giáo viên phải nắm rõ qui trình thực hiện khi sử dụng đồ dùng trực quan để
sử dụng linh hoạt và phù hợp trong các tiết dạy toán:
+ GV treo những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa hoặc giới thiệu
về các đồ vật ... và nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của học sinh.
+ GV trình bày nội dung các đồ dùng trực quan đó.
+ GV yêu cầu một số học sinh trình bày lại, giải thích.
+ Từ những chi tiết, thông tin học sinh thu được từ phương tiện trực quan,
giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu học sinh rút ra kết luận khái quát về vấn đề mà đồ
dùng trực quan cần chuyển tải.  6
Như vậy, việc hiểu bản chất của việc sử dụng đồ dùng trực quan giúp cho
giáo viên nắm vững hơn phương pháp dạy học, cách sử dụng đồ dùng dạy học
một cách triệt để và có hiệu quả cao trong các giờ dạy toán.
1.3. Một số lưu ý khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học toán.

5


1.3.1. Lựa chọn cách sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp với từng giai
đoạn học tập của học sinh Tiểu học.
Ở trường Tiểu học, khi sử dụng dạy học trực quan không thể không có
các đồ dùng dạy học toán. Ở đầu năm lớp 1, các đồ dùng dạy học toán thường là
các vật thực (bông hoa, lá cây, quả cà chua, viên bi…), các tranh ảnh về các vật
gần gũi với học sinh (cây, quả, hoa, dụng cụ gia đình, các vật nuôi…), các mô
hình, vật tượng trưng (các hình hình học bằng bìa, bằng gỗ mỏng, bằng nhựa để
học sinh học số, các hình chấm tròn, các hạt tính trên bàn tính, que tính…).
Ví dụ: Khi dạy bài “Số 7”, để giúp học sinh hình thành biểu tượng số 7,
giáo viên sử dụng bộ đồ dùng dạy học toán như sau:
Vì đây là giai đoạn đầu lớp 1 nên giáo viên chọn đồ dùng gần gũi với các
em. Giáo viên yêu cầu học sinh lấy 6 con gấu, sau đó lấy thêm 1 con gấu nữa,
hỏi tất cả có mấy con gấu. Học sinh đếm thêm 1 trên các con gấu để biết được
là: có 6 con gấu thêm 1 con gấu được 7 con gấu.

6

1
7

Tiếp tục như thế, giáo viên cho học sinh thực hiện với quả cam, hình tròn,
ngôi sao…để biết các vật trên đều có số lượng là 7 và số 7 được biểu diễn như
thế nào.

6

1


7
Đến cuối năm lớp Một thì sử dụng đồ dùng trực quan ở mức độ tư duy
trừu tượng hơn. Giáo viên có thể sử dụng chấm tròn, hình vuông, que tính....để
6


phù hợp với sự phát triển của các em. Ví dụ khi dạy bài: Phép trừ trong phạm vi
6, giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học như sau.

/
6–1= 5

/
6–5=1

Mục đích của việc sử dụng các đồ dùng dạy học Toán như trên, tôi muốn
tạo ra cho các em chỗ dựa trực quan để dạy học các nội dung Toán học trừu
tượng, khái quát. Tôi lựa chọn và làm các đồ dùng dạy học tập trung phục vụ
cho việc dạy học các nội dung Toán học. Đồ dùng phải phản ánh rõ ràng dấu
hiệu, bản chất của nội dung dạy học và phải phù hợp với từng giai đoạn phát
triển tâm sinh lí lứa tuổi. Mặt khác, song song với đồ dùng trực quan của giáo
viên, tôi đã tổ chức, hướng dẫn cho các em hoạt động đồng thời trên bộ đồ dùng
học tập của từng cá nhân học sinh với mục đích tạo biểu tượng tốt nhất cho học
sinh.

7


GV đang giúp đỡ HS lớp 1C – Trường Tiểu học Nga Bạch sử dụng đồ dùng


8


GV sử dụng đồ dùng vào tiết dạy Toán ở lớp 1C - Trường Tiểu học Nga Bạch
Lúc đầu, học sinh lớp tôi lúc đầu còn bỡ ngỡ với việc sử dụng đồ dùng học
tập. Nhưng do có hoạt động định hướng của giáo viên, các em đã không những
không còn xa lạ với việc sử dụng đồ dùng học tập nữa mà còn sử dụng chúng
để tìm tòi, học hỏi kiến thức mới của môn Toán một cách thành thạo.
1.3.2. Sử dụng đồ dùng dạy học Toán đúng lúc, đúng mức độ, không lạm
dụng.
Đồ dùng trực quan hỗ trợ cho học sinh nắm vững kiến thức mới và hỗ trợ
cho việc phát triển tư duy trừu tượng, nhưng không vì thế mà luôn luôn sử dụng
trong suốt cả tiết học. Giáo viên phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách.
- Đúng lúc, đúng chỗ: Là phải biết sử dụng đồ dùng nào vào dạy kiến nào,
đồ dùng phải phản ánh được lôgic của kiến thức.
- Đúng cách: Đúng quy trình khi sử dụng đồ dùng dạy học (đúng các thao
tác).
Tôi hướng dẫn cho học sinh phải suy nghĩ tự tìm ra kết quả chứ không thụ
động, cứ quên là lại xòe que tính, hình tròn để tính. Vì thế trong mỗi giờ học
Toán, học sinh lớp tôi không còn thấy khó khăn, trở ngại trong việc làm tính,
tính nhẩm. Một số em trước đây khi cộng trừ các số trong phạm vi 10 còn rất
chậm. Các em thường xuyên phải dùng que tính để tìm kết quả. Nhưng giờ đây,
với các phép tính cộng trừ trong phạm vi 100, các em có thể nhẩm và viết ngay
được kết quả.
Là giáo viên dạy lớp 1, lớp nhỏ nhất trong trường Tiểu học nên trong giờ
học toán nói chung, trong dạy mạch số học nói riêng, tôi đã tổ chức hướng dẫn
cho học sinh sử dụng các đồ dùng học tập bằng tất cả các giác quan tay cầm,
mắt nhìn, tai nghe... để nhận biết, tìm tòi phát hiện kiến thức mới.
- Ví dụ: Khi dạy bài số 6, để biết cấu tạo của số 6, tôi hướng dẫn học sinh:

+ Lấy 6 que tính cầm trên tay rồi tách thành 2 nhóm tùy ý.
+ Cho học sinh báo cáo kết quả, trao đổi ý kiến để tìm các phép tính.
(6 gồm mấy và mấy)
+ Hệ thống lại: 6 gồm 5 và 1, 6 gồm 4 và 2...
Với cách làm như trên, bản thân tôi thấy học sinh được tự tay thực hành
trên đồ dùng, tự óc mình phán đoán để tìm ra kiến thức mới, các em nắm rất tốt
cấu tạo số, không những bài số 6 mà còn ở các bài học số về sau, nó cũng tạo
tiền đề vững chắc cho việc dạy cộng trừ sau này.
Mặc dù sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học có nhiều lợi thế,
nhưng tôi đã biết sử dụng có mức độ, thường thì tôi chỉ sử dụng trong lúc dạy
bài mới, khi hình thành kiến thức mới, còn khi luyện tập thực hành, chỉ khi nào
cần thiết lắm tôi mới sử dụng trực quan để hỗ trợ củng cố kiến thức đã học.
* Ví dụ: Khi hình thành bảng cộng trong phạm vi 6, tôi hướng dẫn học sinh
sử dụng đồ dùng học tập, như que tính, hình tròn..., để tìm ra kết quả phép cộng,
nhưng khi đã thuộc bảng cộng rồi thì cố gắng không dùng que tính, không dùng
đốt tay để làm tính mà tập nói ngay kết quả phép tính, chỉ khi nào học sinh quên
công thức thì mới dùng que tính, đốt ngón tay... để hỗ trợ trí nhớ.
9


Với việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học một cách hợp lí
như vậy, tôi thấy rằng học sinh lớp tôi tự tin hơn nhiều khi tính toán, không bị lệ
thuộc quá nhiều vào đồ dùng trực quan mà vẫn nhẩm ngay được kết quả một
cách nhanh chóng.
Giải pháp 2: Nghiên cứu, lựa chọn đồ dùng trực quan để sử dụng phù
hợp với từng giai đoạn phát triển tâm sinh lí học sinh và từng dạng bài cụ thể
2.1. Một số đồ dùng trực quan thường sử dụng trong dạy học toán lớp 1.
- Đồ dùng là các vật thật như cái bút, bông hoa, viên phấn, viên bi...
- Mô hình các đồ vật như các mô hình hình tam giác, hình tròn, con chim
nhựa...

- Tranh ảnh dùng để biểu thị sự vật.
- Que tính, hạt tính...
- Phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video…
Đồ dùng trực quan dùng trong dạy học toán lớp 1 rất phong phú và đa
dạng. Song để sử dụng một cách có hiệu quả, người giáo viên phải biết lựa chọn
đồ dùng phù hợp giai đoạn phát triển tâm sinh lý học sinh và phù hợp với từng
dạng bài cụ thể.
2.2. Phân loại các dạng toán của mạch số học ở lớp 1.
Việc phân loại các dạng Toán của mạch số học lớp 1 là rất cần thiết, bởi vì
nó giúp giáo viên định hướng được phương pháp cũng như sử dụng lọai đồ dùng
trực quan nào cho phù hợp với từng dạng Toán. Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy
phần số học của lớp 1 được chia làm 2 dạng đặc trưng:
a. Hình thành khái niệm số:
- Dạng các số từ 1 đến 10 (8 tiết)
- Dạng các số từ 10 đến 100 (9 tiết)
b. Dạy phép toán
- Bảng cộng, trừ các số trong phạm vi 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10
- Phép cộng không nhớ trong phạm vi 100
- Phép trừ không nhớ trong phạm vi 100.  3
Nội dung số học là nội dung được giảng dạy xuyên suốt trong chương trình
toán lớp 1. Nội dung này chiếm thời lượng tương đối lớn và là chìa khóa cho
chương trình toán. Dạy tốt nội dung toán học lớp Một là hình thành cơ sở then
chốt ban đầu về kiến thức toán cho học sinh.
Giải pháp 3: Nâng cao hiệu quả cách sử dụng đồ dùng trực quan khi
dạy hình thành khái niệm số.
3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy hình thành số có một chữ số.
Khi dạy các số từ 0 đến 10, chúng ta không dạy theo một mô tuýp nhất
định. Không phải bài nào cũng sử dụng trực quan giống nhau mà phải biết linh
hoạt, tránh tình trạng lạm dụng, nhàm chán cho cả giáo viên lần học sinh. Dạy
các số từ 0 đến 10 được chia làm 7 tiết. Lúc đầu mới làm quen với số, nội dung

chương trình được tách ra: Dạy gộp các số từ 1 đến 5, dạy từng tiết các số từ 6
đến 10. Vì các số từ 1 đến 5 có thể coi là số trực giác, tôi đưa ra một số đồ vật có
số liệu từ 1 đến 5, hướng dẫn học sinh thao tác trên phương tiện trực quan ở
10


mức độ trừu tượng hóa tăng dần để hình thành khái niệm số từ 1 đển 5. Hình
thành khái niệm số thông qua phép đếm.
- Ví dụ: Tiết 6 các số 1, 2, 3. Để hình thành các số từ 1 đến 3, tôi dùng các
đồ dùng trực quan gần gũi với cuộc sống của các em để hình thành khái niếm số
tôi tiến hành 2 bước:
+ Bước 1: Tôi hướng dẫn cho các em quan sát các nhóm chỉ có một phần,
từ cụ thể mô hình bức tranh một bạn gái, một ngôi nhà, một chấm tròn... Mỗi lần
tôi cho học sinh quan sát một nhóm đồ vật, tôi nêu: Có một bạn gái, một ngôi
nhà, một hình tròn..., và cho học sinh nhắc lại “ Có một bạn gái”...

+ Bước 2: Tôi hướng dẫn học sinh nhận ra đặc điểm chung của các nhóm
đồ vật và nêu: Một bạn gái, một ngôi nhà, một chấm tròn... đều có số lượng là
một. Ta dùng số 1 để chỉ số lượng của mỗi nhóm đồ vật đó, số một được viết
bằng con số một, tôi viết lên bảng: “ 1”. Tương tự để hình thành số 2 và số 3 tôi
cũng giới thiệu các nhóm đồ vật có số lượng 2, 3 để học sinh tự giác đếm trên
hình ảnh số lượng của nhóm đồ vật. Sau đó tôi hướng dẫn học sinh rút ra số mới
được hình thành: 2 và 3.
- Sang dãy số từ 6 đến 10 thì không thể dạy gộp mà phải dạy riêng từng bài
từ số 6 đến số 10. Số 0 được dạy sau số 9 để chuẩn bị dạy số 10, ở dạng bài này
tôi dùng phương pháp đếm thêm 1, chứ không phải đếm các số cùng một lúc
như hình thành khái niệm số 1, 2, 3.
- Cụ thể: Khi dạy bài hình thành số 6, tôi yêu cầu học sinh lấy 5 que tính
rồi lấy thêm 1 que tính nữa để được tất cả 6 que tính. Tương tự tôi cho học sinh
thực hiện với các nhóm đồ vật khác và cuối cùng học sinh nhận ra các nhóm đồ

vật đều có số lượng là 6 và dùng chữ số 6 để biểu diễn.
Để hình thành khái niệm các số từ 7 đến 10 tôi cũng dùng phương pháp
trực quan như dạy bài số 6 nhưng mức độ trừu tượng hóa cao dần, chủ yếu dựa
vào kênh hình để hình thành khái niệm số. Làm được như vậy tôi thấy rằng học
sinh không những nắm vững cấu tạo số mà còn kích thích óc sáng tạo, suy luận
của học sinh khi tìm tòi kiến thức mới.
3.2. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy hình thành các số có hai chữ số.
Khi dạy hình thành các số có hai chữ số, tôi sử dụng phương pháp trực
quan với hình thức khác. Tôi nắm được đặc trưng khi hình thành các số từ 10
đến 100 khác với hình thành các số từ 0 đến 10 ở chỗ: Hình thành số qua phép
gộp chứ không phải đếm tổng thể hay đếm thêm 1. Bởi vì hình thành số lớn thì
không thể đếm nhiều mà phải gộp lại để đỡ cồng kềnh khi sử dụng trực quan.
11


- Ví dụ: Hình thành số 12, tôi hướng dẫn học sinh lấy một bó một chục
que tính sau đó lấy thêm 2 que tính nữa gộp lại để biết có bao nhiêu que
tính.

Tôi yêu cầu học sinh dùng các bó que tính nêu ý kiến của mình, tiếp đó tôi
ghi lên bảng cấu tạo thập phân, gắn với cách viết, cách đọc số như sau:
Chục
1

Đơn vị
2

Đọc
Mười hai


Viết
12

Kết luận: Khi hình thành số có hai chữ số cho học sinh, giáo viên phải dạy
thật kĩ bài dạy đầu tiên. Đây là bài điểm tựa cho học sinh. Sử dụng trực quan
đúng và phù hợp học sinh sẽ rất dễ nhớ số và ghi nhớ rất lâu. Nó sẽ trở thành
đường mòn trong trí nhớ các em.
Giải pháp 4: Sử dụng hiệu quả đồ dùng trực quan giúp học sinh học tốt
dạng toán về phép cộng, phép trừ trong phạm vi 10 và 100.
4.1. Dạy phép cộng trừ trong phạm vi 10
Khi dạy phép cộng trừ trong phạm vi 10 là phạm vi nhỏ nên tôi cho các
thực hành bằng phương tiện trực quan chính ngay trong bộ đồ dùng cá
nhân. Hướng dẫn cho học sinh thao tác và tự tìm kết quả. Tôi hướng dẫn cho tất
cả học sinh đều hiểu chứ không hướng cho các em thuộc lòng nhưng không hiểu
bản chất của phép cộng đó.
Ví dụ: Khi dạy phép cộng trong phạm vi 5. Tôi yêu cầu các em lấy 4 hình
tròn, lấy thêm 1 hình tròn nữa. Hỏi có tất cả mấy hình tròn?
Qua thao tác bằng vật thật, các em vận dụng được các giác quan: tay cầm,
mắt nhìn... để biết được 4 hình tròn thêm 1 hình tròn nữa là 5 hình tròn, từ đó tự
ghép được phép tính 4 + 1 = 5. Tương tự tôi giúp các em thực hiện với các đồ
dùng khác để lập bảng cộng trong phạm vi 4.
Khi đồ dùng của các em trùng với đồ dùng học tập của giáo viên và với
sách giáo khoa thì việc tiến hành hình thành phép cộng, phép trừ thuận lợi hơn.
Nhưng khi phương tiện trực quan của các em không giống với giáo viên thì tôi
đã linh động thay đổi đồ dùng dạy học của mình để phù hợp với học sinh, điều
đó đã giúp các em tự tin hơn khi sử dụng đồ dùng, các em sử dụng ngay bộ đồ
dùng của mình để tìm ra kết quả.
12



4.2. Dạy phép cộng trong phạm vi 100:
Dạy phép cộng trừ trong phạm vi 10 để làm tiền đề cho việc dạy phép
cộng trừ trong phạm vi 100. Cũng như với phép cộng trừ trong phạm vi 10, dạy
phép cộng trừ trong phạm vi 100 tôi cũng dùng phương tiện trực quan để giúp
học sinh lập được phép cộng hay phép trừ.
- Ví dụ: Bài phép cộng trong phạm vi 100 (cộng không nhớ)
Tôi hướng dẫn học sinh lấy 35 que tính, 30 que là bó que tính mỗi bó 1
chục que tính đặt ở bên trái, còn 5 que tính rời đặt ở bên phải. Sau đó lấy tiếp 24
que tính tách số chục và số đơn vị tương tự như trên, đặt ở bên dưới số 35 theo
số chục và số đơn vị.

Để biết được kết quả là bao nhiêu, tôi giúp các em gộp các số chục lại: 3
chục cộng với 2 chục bằng 5 chục, gộp 5 que tính rời với 4 que tính rời bằng 9
que tính. Cuối cùng tính 5 chục que tính và 9 que tính là 59 que tính. Mặt khác
tôi dùng trực quan để phân tích cấu tạo thập phân của số như sau:
Chục
3
+
2

Đơn vị
5

5

9

4

Ngoài sử dụng phương pháp trực quan bằng đồ dùng trực quan, tôi còn

thực hiện phương pháp trực quan bằng cách hướng dẫn thuật toán đặt tính và
tính theo cột dọc theo các bước sau: GV trình bày lên bảng (vừa nói vừa viết)
- Viết số thứ nhất 35
- Viết số thứ hai 24 (sao cho số chục thẳng số chục, số đơn vị thẳng số đơn vị)
- Viết dấu + và gạch ngang phép tính
+ Thực hiện từ phải sang trái tức là cộng từ hàng đơn vị rồi mới đến hàng chục

13


Từ việc biết cách sử dụng linh hoạt phương pháp trực quan cho từng dạng
Toán nêu trên, tôi cảm thấy giờ học toán lớp tôi rất sôi nổi và có chất lượng, một
số học sinh yếu Toán bây giờ đã làm thành thạo các phép tính cộng trừ có liên
quan đến số, không cần nhiều đến sự hỗ trợ của các phương tiện trực quan khi
thực hành luyện tập, không còn rụt rè e ngại mỗi khi học toán nữa.
Tuân thủ các yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp trực quan là một
việc làm vô cùng cần thiết không thể bỏ qua được. Vì đồ dùng trực quan, nếu sử
dụng đúng lúc, đúng chỗ, sử dụng hợp lí, khoa học thì sẽ đem lại kết quả tốt nhất
cho người người học đặc biệt là với học sinh Tiểu học, còn nếu chúng ta làm
ngược lại, sử dụng sai, làm lệch lạc các nguyên tắc cơ bản khi sử dụng phương
pháp trực quan trong dạy học thì nó sẽ có tác dụng không tốt đến cho người học,
đặc biệt là trực quan để hình thành biểu tượng ban đầu về số cho học sinh. Vì
thế, Giáo viên khi sử dụng phương pháp trực quan phải đúng lúc, đúng chỗ và
phù hợp với nội dung bài.
Lưu ý:
Như trên đã nói, đồ dùng trực quan nếu lạm dụng quá nhiều sẽ làm mất khả
năng tư duy, sáng tạo của học sinh. Vì vậy ở giai đoạn phải sử dụng các đồ vật
cụ thể (vật thực, vật tương trưng) củng phải chuyển dần từ vật “cụ thể” sang vật
“ít cụ thể hơn”. Chẳng hạn, khi giới thiệu về số lượng của số 3, lúc đầu tôi cho
học sinh lấy 2 bông hoa, rồi lấy thêm một bông hoa nữa để được 3 bông hoa, sau

đó tôi lại cho học sinh lấy 2 que tính, rồi lấy thêm một que tính nữa để được 3
que tính, tiếp đến lấy 1 chấm tròn, rồi lấy 1 chấm tròn, rồi lấy 1 chấm tròn nữa
để được 3 chấm tròn. Từ 3 bông hoa đến 3 que tính, rồi đến 3 chấm tròn đã có
sự chuyển dần từ vật cụ thể sang vật có tính tượng trưng hơn và điều quan trọng
là học sinh từ đó nhận ra được cái chung của các nhóm đồ vật đó là “ba” (số
lượng đều là 3).
Sử dụng đồ dùng như vậy sẽ phát huy được tư duy của học sinh từ cụ thể
sang trừu tượng, giúp học sinh phát triển được óc tư duy sáng tạo trong học toán.
Giải pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng điện tử nhằm
nâng cao chất lượng dạy học và gây hứng thú cho học sinh học tập môn
Toán.
Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực giáo dục đã hỗ
trợ tích cực trong dạy học môn Toán. Cụ thể trong thiết kế các tiết dạy giáo án
điện tử, giáo viên đã sữ dụng các hình ảnh sinh động, gần gũi với các em... đã
đem đến sự hứng thú, tích cực khám phá, lĩnh hội kiến thức mới cho học sinh.
Như khi dạy bài “Phép trừ trong phạm vi 6” giáo viên đưa hình ảnh có 6 con vịt
ở dưới ao, sau đó có 1 con vịt đi lên bờ, hỏi dưới ao còn lại trên cành mấy con
vịt?

14


6-1=5
Lúc này các em không còn phải tư duy trừu tượng mà đã tri giác hình ảnh
hai con chim vỗ cánh bay đi, như vậy sẽ dễ dàng thấy ngay kết quả của bài toán.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Toán đã đem lại hiệu quả
đáng kể trong các tiết dạy. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý xác định đó chỉ là
phương tiện hỗ trợ dạy học, tuỳ theo từng bài dạy để sử dụng sao cho linh hoạt
hợp lý, tránh lạm dụng quá mức cần thiết nếu không sẽ mang lại hiệu quả giáo
dục không như mong muốn.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và thực hiện sử dụng có
hiệu quả các phương pháp dạy học và đặc biệt là phương pháp trực quan, vào
thời điểm cuối tháng 3 năm học 2017-2018, tôi đã tiến hành khảo sát hoc sinh
lớp mình trực tiếp giảng dạy và đã thu được kết quả như sau:
Số HS
34 em

Điểm 9- 10
SL
TL
16
47,0%

Điểm 7- 8
SL
TL
11 % 32,5

Điểm 5- 6
SL
TL
7
20,5%

Điểm dưới 5
SL
TL
0 0 %


Nhìn vào kết quả bài thực nghiệm, tôi thấy rằng chất lượng dạy học được
nâng lên rõ rệt, học sinh thành thạo kĩ năng sử dụng đồ dùng và kĩ năng làm
toán nên đạt điểm 7-8 trở lên tương đối cao, kh«ng cßn học sinh nào đạt
điểm dưới 5. Như vậy có thể đánh giá được rằng những đề xuất mà tôi đưa ra là
khá phù hợp. Nhìn chung học sinh nắm được bài học, có ý thức học tập hơn và
ham thích học môn Toán.
Đánh giá quá trình học tập của lớp: có tới gần 80% học sinh trong lớp luôn
đạt điểm khá giỏi ở môn Toán, tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng dần sau mỗi kì kiểm
tra. Bản thân tôi được nhà trường đánh giá là luôn có sáng tạo trong các giờ dạy
Toán, luôn đạt giờ giỏi trong mỗi kì thao giảng, dự giờ thăm lớp.

15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Môn Toán là bộ môn rất quan trọng trong chương trình Tiểu học, nó góp
phần hình thành óc tư duy sáng tạo, sự độc lập suy nghĩ của mỗi cá nhân học
sinh. Chính vì vậy, để nâng cao phương pháp dạy học Toán nói chung, mảng số
học nói riêng, người giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, cần chú ý rèn luyện cho học sinh
thao tác sử dụng đồ dùng học tập một cách thành thạo, dựa trên các phương thức
trực quan mà tự mình chiếm lĩnh các tri thức mới. Người giáo viên sử dụng
phương pháp trực quan trong dạy học đúng cách, khoa học, hợp lý thì giờ học sẽ
đạt kết quả cao, tâm lý các em trong giờ học sẽ được thoải mái, nhẹ nhàng. Chất
lượng môn Toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung đã được nâng lên rõ
rệt là nhờ vào sự dày công tìm tòi, nghiên cứu đề tài của người giáo viên.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy toán, giáo viên cần lưu ý một số
vấn đề sau:
- Nếu sử dụng đồ dùng trực quan không khéo sẽ làm phân tán chú ý của học

sinh, dẫn đến học sinh không lĩnh hội được những nội dung chính của bài học.
- Khi sử dụng đồ dùng trực quan, đặc biệt là khi quan sát tranh ảnh, các phim
điện ảnh, phim video, nếu giáo viên không định hướng cho học sinh quan sát sẽ dễ
dẫn đến tình trạng học sinh sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng.
- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ
dùng trực quan tương ứng thích hợp. Vì vậy, cần xây dựng một hệ thống đồ
dùng trực quan phong phú, phù hợp với từng bài học.
- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực quan.
- Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng trực quan của học sinh.
- Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đảm bảo kết hợp lời nói với việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng
thời rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và sử dụng đồ
dùng trực quan.
- Tùy theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có các
cách sử dụng khác nhau. Loại đồ dùng trực quan treo tường, dán bảng được sử
dụng nhiều nhất trong dạy học hiện nay là vật mẫu, hình ảnh ,... Trước khi sử
dụng chúng cần chuẩn bị thật kĩ (nắm chắc nội dung, ý nghĩa của từng loại phục
vụ cho nội dung nào của giờ học,...). Trong khi giảng cần xác định đúng thời
điểm sử dụng đồ dùng trực quan.
Trong giờ học Toán phải thường xuyên sử dụng ngôn ngữ, thuật ngữ Toán
học một cách chính xác, thường xuyên quan tâm giúp đỡ các em trong quá trình
học, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các em, nắm vững đối tượng học sinh.
Ngoài ra giáo viên phải thường xuyên học hỏi, nâng cao kiến thức, trau dồi
chuyên môn để góp phần hoàn thiện hơn chất lượng giờ dạy.
16


3.2. Kiến nghị
1. Đối với đội ngũ giáo viên: Tích cực đổi mới phương pháp dạy học,
quan tâm đầu tư về quỹ thời gian, chú ý việc tự làm đồ dùng dạy học để phục vụ

giảng dạy..
2. Đối với Phòng Giáo dục đào tạo: Mở các chuyên đề về SKKN để tạo điều
kiện cho giáo viên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
* Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân năng lực, trình độ còn hạn
chế vì vậy những đề xuất, biện pháp tôi đã nêu ở trên sẽ không tránh khỏi sai
sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, cũng như của
các đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Yên Thị Hạnh

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Mai Thị Bích Hợp

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học - Nhà xuất bản GD
2. Sách giáo viên Toán lớp 1- Nhà xuất bản GD.
3. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 1(tập 1) - Nhà xuất bản GD
4. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 1(tập 2) - Nhà xuất bản GD
5. Sách giáo khoa Toán 1.
6. Nguồn Intonet - Phương pháp dạy học trực quan.


18


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Bích Hợp
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Nga Bạch- Nga Sơn.

TT
1
2
3
4

5

6

Tên đề tài SKKN
Biện pháp làm tốt công tác
chủ nhiệm
Biện pháp nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt lớp 1
Tổ chức trò chơi học tập
trong môn Toán lớp 1
Nâng cao chất lượng học
Toán cho học sinh lớp 1

thông qua việc tổ chức trò
chơi học tập
Nâng cao chất lượng học
Toán cho học sinh lớp 1
thông qua việc tổ chức trò
chơi học tập
Nâng cao chất lượng học
Toán cho học sinh lớp 1
thông qua việc tổ chức trò
chơi học tập

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Cấp huyện

B


2007-2008

Cấp huyện

B

2008-2009

Cấp huyện

A

2014-2015

Cấp tỉnh

C

2014-2015

Cấp tỉnh
( Bảo lưu)

C

2014-2015

Cấp tỉnh
( Bảo lưu)


C

2014-2015

19


MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang
1
1
2
2
2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1.Cơ sở lí luận của vấn đề
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

Giải pháp 1: Nắm vững bản chất dạy học trực quan và một số yêu
cầu khi sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học.
Giải pháp 2: Nghiên cứu, lựa chọn đồ dùng trực quan để sử dụng
phù hợp với từng giai đoạn phát triển tâm sinh lý học sinh và từng
dạng bài cụ thể.
Giải pháp 3: Nâng cao hiệu quả cách sử dụng đồ dùng trực quan
khi dạy hình thành khái niệm số.
Giải pháp 4: Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy phép cộng, trừ
trong phạm vi 10 và 100.
Giải pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin tạo bài giảng điện tử
nhằm nâng cao chất lượng dạy học và gây hứng thú cho học sinh
học tập môn Toán.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục SKKN đã đạt giải các cấp

2
3
5
5
10
10
12
14
15
16
16

17

20


21



×