Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.88 KB, 9 trang )

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU TRÁCH
NHIỆM ĐỐI VỚI ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
THỰC TIỄN TỪ MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
ThS. Nguyễn Ngọc Toán*
1. Đặt vấn đề
Có thể nói pháp luật về tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, mà nòng cốt
là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập (NĐ 43) là công cụ rất quan trọng trong quản lý nhà
nước đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung và các trường đại học ở Việt
Nam nói riêng. Theo quy định NĐ 43 những nội dung tự chủ, tự chịu trách nhiệm
bao gồm (i) thực hiện nhiệm vụ, (ii) tổ chức bộ máy, (iii) biên chế và (iv) tài chính
và vai trò, trách nhiệm của các trường đại học trong tổ chức triển khai thực hiện
NĐ43 góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục đại học, phục vụ
sinh viên ngày càng tốt hơn.
Từ khi ban hành đến nay, NĐ 43 được các chủ thể có liên quan và các trường đại
học trên cả nước nghiêm túc tổ chức triển khai và đã mang lại những kết quả rất
đáng trân trọng, góp phần đổi mới phong cách và chất lượng giáo dục đại học. Tuy
nhiên quá trình đó cũng còn nhiều hạn chế đáng tiếc từ góc độ của các trường đại
học - chủ thể trung tâm – trong việc phát huy nội dung, tinh thần của NĐ 43 một
cách tốt nhất. Những hạn chế đó được phát hiện qua công tác thanh tra 1 đã gửi cho
các nhà quản lý giáo dục nói chung và các trường đại học nói riêng một thông điệp
là không có con đường nào khác ngoài việc tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các
quy định của pháp luật nói chung và NĐ 43 về quản lý giáo dục trong nhà trường
** Bộ môn Nhà nước và pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia, Phân viện thành phố Hồ Chí Minh
1 Trong phạm vi bài viết này một số trường được đề cập có giới hạn như Trường ĐH Huế, ĐH Nông nghiệp HN,
ĐH Kinh tế TP.HCM, ĐH Luật TP.HCM... và một số trường đại học khác.


đại học nói riêng là con đường chân chính để xây dựng môi trường giáo dục lành


mạnh, văn minh – cơ sở để phục vụ sinh viên, học viên một cách tốt nhất.
2. Kết quả đạt được trong thực hiện Nghị định số 43/NĐ-CP
Nhìn chung các trường đại học đã thực hiện tốt nhiệm vụ triển khai thực hiện NĐ
43, thể hiện trên các mặt sau:
- Thực hiện NĐ 43 và hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, trường đã xây dựng và ban
hành các quyết định để cụ thể hoá NĐ 43 và các quy định pháp luật khác.
- Công tác tổ chức bộ máy, nhân sự được quan tâm; công tác quy hoạch, tuyển
dụng và bổ nhiệm cán bộ thực hiện theo quy định của pháp luật phù hợp với thực
tế của trường; thực hiện nghiêm túc việc kiểm điểm nhận xét, đánh giá cán bộ, viên
chức; quan tâm đến công tác thi đua khen thưởng và thực hiện tốt chính sách đối
với cán bộ, viên chức và người lao động.
- Công tác tự chủ về nhiệm vụ, nhìn chung các trường tổ chức việc tuyển sinh, đào
tạo cơ bản thực hiện đúng quy định pháp luật hiện hành.
- Việc thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính được tổ chức quản lý chặt chẽ hiệu quả;
việc quản lý chi thường xuyên cơ bản thực hiện đúng quy định hiện hành của Nhà
nước và quy chế chi tiêu nội bộ của trường.
- Việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư nhìn chung đã thực hiện theo quy định
về quản lý đầu tư xây dựng và các quy định có liên quan.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nhiều trường đại học vẫn còn những hạn
chế, thiếu sót nhất định cần được khắc phục và xử lý kịp thời.
3. Hạn chế, thiếu sót trong thực hiện Nghị định số 43/NĐ-CP
Những hạn chế, thiếu sót cơ bản và chủ yếu các trường đại học thường mắc phải
là:
- Chưa thành lập Hội đồng trường theo quy định tại khoản 1 điều 33 Điều lệ trường
đại học ban hành kèm theo Quyết định 58/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Điều lệ Trường đại học (QĐ 58).


- Chưa xây dựng phương án thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy
định tại khoản 3 điều 31 Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế
và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; chưa điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
‘Quy chế thực hiện dân chủ’ theo quy định tại khoản 7 điều 31 NĐ 43; chưa điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung ‘Quy chế tổ chức và hoạt động’ theo quy định tại điểm b
khoản 2 điều 55 QĐ 58.
- Ban hành một số khoản thu, chi không đúng với quy định của Nhà nước; ban
hành văn bản quy định mức thu một số khoản học phí, lệ phí vượt mức quy định;
một số khoản thu có tính chất phí, lệ phí ngoài danh mục quy định tại Điều 19 NĐ
số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hànhPháp
lệnh Phí và Lệ phí.
Những sai phạm cụ thể trong thực hiện NĐ 43 ở các trường như sau:
- Việc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 43 tại Bộ GD&ĐT còn
chậm, nhất là việc ban hành hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật và tiêu chí, tiêu
chuẩn chất lượng. Tại 5 đơn vị (ĐH Huế, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Trường
ĐH Vinh, Trường ĐH Luật TPHCM, Trường ĐH Kinh tế TPHCM), việc ban hành
một số văn bản không phù hợp với quy định của Nhà nước hoặc căn cứ vào các
quy định đã hết hiệu lực; quy chế chi tiêu nội bộ quy định một số khoản thu, chi
không đúng quy định của Nhà nước; ban hành văn bản quy định mức thu một số
khoản phí, lệ phí vượt mức quy định; quy định một số khoản thu có tính chất phí,
lệ phí ngoài danh mục quy định tại Nghị định 57/2002 của Chính phủ.
- Trong việc tuyển sinh, đào tạo sau ĐH, một số học viên trúng tuyển chưa đảm
bảo điều kiện ngoại ngữ, kinh nghiệm công tác theo quy định (ĐH Huế, Trường
ĐH Luật TPHCM). Trường ĐH Kinh tế TPHCM đào tạo thạc sĩ kinh tế khóa K20
thời gian vượt quá quy định 1 năm theo Thông tư số 10/2011 của Bộ GD-ĐT.
Một số đơn vị tuyển sinh, đào tạo ĐH chính quy, liên thông từ CĐ lên ĐH vượt chỉ
tiêu được Bộ GD-ĐT giao. Trường ĐH Nông lâm thuộc ĐH Huế không được giao


chỉ tiêu vẫn tuyển sinh hệ liên thông CĐ lên ĐH chính quy năm 2011 (110 chỉ
tiêu); Trường ĐH Ngoại ngữ thuộc ĐH Huế mở ngành đào tạo hệ ĐH văn bằng 2

chính quy nhưng chưa được sự đồng ý của giám đốc ĐH Huế.
Trường ĐH Ngoại ngữ thuộc ĐH Huế tuyển sinh đào tạo ĐH liên thông hệ chính
quy năm 2011 nhưng tổ chức giảng dạy vào thứ 7, chủ nhật và các buổi tối các
ngày trong tuần không đúng quy định của Bộ GD-ĐT.
Trong việc tuyển sinh, đào tạo từ xa, Thanh tra Chính phủ phát hiện Trung tâm
Đào tạo từ xa thuộc ĐH Huế tuyển sinh vượt chỉ tiêu được phê duyệt: năm 2011
vượt 53,7%, năm 2012 vượt 11,48%.
- Việc liên kết đào tạo với nước ngoài hệ ĐH và trên ĐH tại các cơ sở giáo dục trên
cũng có nhiều vấn đề. Cụ thể, tại chương trình liên kết đào tạo giữa Trường ĐH
Nông nghiệp Hà Nội với Hội đồng Liên ĐH Cộng đồng pháp ngữ (CIUF) Bỉ, có 7
học viên chưa đảm bảo điều kiện ngoại ngữ.
Trường ĐH Luật TPHCM có một số học viên trúng tuyển không đạt yêu cầu về
trình độ ngoại ngữ; học viên đã tốt nghiệp đều không thực hiện việc làm luận văn
tốt nghiệp theo Quy chế đạo tạo thạc sĩ ban hành kèm Quyết định số 45/2008 của
Bộ GD&ĐT.
Trường ĐH Kinh tế TPHCM có chương trình đào tạo cao học đã được phê duyệt
20 năm nhưng chưa làm thủ tục gia hạn.
Tại Trường ĐH Kinh tế TPHCM, có chương trình đào tạo cao học được Bộ
GD&ĐT phê duyệt đến nay là 20 năm nhưng chưa làm thủ tục gia hạn chương
trình đào tạo, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện dự tuyển cho phù hợp
với chương trình đào tạo quốc tế bậc sau ĐH. Khóa 18 năm 2012 có 100% học
viên không có chứng chỉ ngoại ngữ.
Trường ĐH Kinh tế TPHCM liên kết với ĐH Victoria của Australia đào tạo cấp
bằng cử nhân kinh doanh (khóa đào tạo IBBus 3.1 năm 2012) có 34/52 học viên
không có chứng chỉ ngoại ngữ, vi phạm quy định của Bộ GD&ĐT.


- Trong việc tự chủ về tổ chức, bộ máy, kết luận thanh tra cho rằng hầu hết các đơn
vị quyết định thành lập mới các đơn vị chuyên môn trực thuộc không căn cứ vào
quy hoạch, chiến lược phát triển đơn vị; một số đơn vị không xây dựng đề án thành

lập đơn vị mới, không ban hành quy định về quy trình thành lập, đổi tên, chia tách,
sáp nhập; mô hình tổ chức chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, lẫn lộn giữa quản
lý hành chính và sự nghiệp, quản lý sự nghiệp và sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đơn cử, ĐH Huế là đơn vị sự nghiệp nhưng thực hiện một số chức năng nhiệm vụ
như một đơn vị hành chính, mô hình tổ chức nhiều cấp, hình thành nhiều khâu
trung gian. Điều này dẫn tới việc chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, có việc bỏ
sót, việc quản lý tài chính khó khăn, có lĩnh vực hoạt động chuyên môn kỹ thuật
chuyên sâu không được bộ chuyên ngành quan tâm chỉ đạo và đầu tư.
Trường ĐH Y Dược thuộc ĐH Huế, trong đó có Bệnh viện Y dược Huế là bệnh
viện thực hành, trong một thời gian dài duy trì hoạt động theo mô hình bán công
nhưng cơ chế quản lý tài chính theo cơ chế sự nghiệp tự đảm bảo chi phí chi
thường xuyên. Trường ĐH Y Dược là đơn vị đào tạo chuyên sâu về ngành y dược,
trong nhiều năm qua trong bối cảnh vừa thiếu sự quan tâm quản lý của Bộ
GD&ĐT và thiếu sự quan tâm chỉ đạo về chuyên môn, đầu tư của Bộ Y tế đã gây
khó khăn cho hoạt động của trường và Bệnh viện thuộc trường.
Ngoài ra, việc quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ tại các đơn vị sự nghiệp đều chưa thực
hiện đúng Điều lệ Trường đại học ban hành kèm theo Quyết định 58/2010 của Thủ
tướng Chính phủ, hướng dẫn của Ban cán sự đảng Bộ GD&ĐT. Nhiều trường hợp
thiếu điều kiện, tiêu chuẩn về trình độ chính trị, một số ít thiếu điều kiện về trình
độ chuyên môn. ĐH Huế quy định nhiệm kỳ bổ nhiệm cán bộ, viên chức theo
nhiệm kỳ người đứng đầu đơn vị không đúng quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Thậm chí cá biệt ở một số đơn vị sự nghiệp có viên chức giảng viên vi phạm về
phẩm chất đạo đức, vi phạm nghiêm trọng về quy chế đào tạo phải xử lý kỷ luật.
Việc kiểm điểm nhận xét, đánh giá phân loại viên chức hàng năm của một số đơn
vị thuộc Trường ĐH Vinh chưa nghiêm túc, có đơn vị thuộc Trường ĐH Nông


nghiệp Hà Nội chưa thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao
động.
Nhìn chung những sai phạm trên ở các trường là xảy ra nhiều lĩnh vực quan trọng,

chủ yếu, liên tục kéo dài nhiều năm tại các trường cho thấy việc tổ chức thực hiện
NĐ 43 chưa đạt kết quả như mong đợi. Trong thời gian tới cần có các giải pháp để
từng bước khắc phục tình trạng này.
4. Một số kiến nghị
Để khắc phục tình trạng kém hiệu quả trong thực hiện NĐ 43 nói trên ở các trường
cần những giải pháp toàn diện và lâu dài, trước mắt có thể thực hiện các giải pháp
sau:
- Một là, phát huy vai trò lãnh đạo của cấp uỷ đảng và ban lãnh đạo trường đại học
trong chỉ đạo, lãnh đạo nhà trường triển khai thực hiện thực chất các quy định pháp
luật trong quản lý giáo dục nói chung và NĐ 43 nói riêng.
Thực tế cho thấy những thiếu sót sai phạm vừa qua có nguyên nhân từ phía ban
lãnh đạo của các nhà trường đại học chưa thực sự phát huy vai trò lãnh đạo của
mình trong việc chỉ đạo xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển của
nhà trường; khi tổ chức triển khai các kế hoạch công việc chưa chú ý thường xuyên
rà soát đối chiếu với quy định của pháp luật để kịp thời điều chỉnh, dẫn đến các vi
phạm kéo dài, có hệ thống nhiều trên lĩnh vực.
- Hai là, công khai, minh bạch các hoạt động của trường đại học nhất là những
mảng công việc thuộc đối tượng điều chỉnh của NĐ 43 theo đúng quy định của
pháp luật về công khai, minh bạch trong hoạt động.
Cần chú ý công khai cho Hội đồng trường, thanh tra nhân dân của trường và toàn
thể người làm việc của nhà trường đại học, công khai trên trang mạng thông tin của
nhà trường để sinh viên có thể theo dõi và các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời
nắm bắt, điều chỉnh. Thực tế cho thấy, đến khi các sai phạm được thanh tra công bố
thì các chủ thể có liên quan trong trường đại học mới biết được các sai phạm của
các hoạt động do ban lãnh đạo hoặc các đơn vị thuộc nhà trường triển khai, nếu


chúng (các hoạt động) được công khai, minh bạch ngay từ đầu có thể đã không xảy
ra không lặp lại hoặc không bị kéo dài nhiều năm tháng.
- Ba là, tăng cường sự tự kiểm soát hoạt động của trường đại học bằng các công cụ

kiểm soát nội bộ để chủ động phòng ngừa, phát hiện và chủ động chấm dứt các
hoạt động vi phạm pháp luật.
Thanh tra nội bộ và Thanh tra nhân dân là hai đầu mối quan trọng của nhà trường
trong việc tham mưu giúp lãnh đạo nhà trường thường xuyên giám sát, kiểm tra
các mặt hoạt động của nhà trường, qua đó sẽ phát hiện những biểu hiện thiếu sót,
vi phạm pháp luật của các đơn vị khác (trong tham mưu cho lãnh đạo nhà trường
hoặc trực tiếp triển khai các hoạt động cụ thể) để kịp thời ngăn chạn và xử lý,
không để vi phạm kéo dài, có hệ thống. Các chủ thể đảm nhiệm công việc này cần
xây dựng kế hoạch cụ thể cho hoạt động tự kiểm soát của các trường hàng năm và
tổ chức thực hiện một cách thực chất các kế hoạch đã được phát hành.
- Bốn là, các cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra các
trường đại học trong quá trình hoạt động và phải theo dõi các trường khắc phục
thiếu sót được phát hiện qua thanh tra, kiểm tra.
Cần tăng cường kiểm tra chuyên đề vì thanh tra theo đoàn không phải lúc nào cũng
tổ chức được và thường mất nhiều thời gian. Khi phát hiện sai phạm phải kiên
quyết kiến nghị xử lý nghiêm túc và theo dõi đến cùng việc thực hiện các kiến nghị
đã được cấp có thẩm quyền chuẩn y.
- Năm là, cần có những nghiên cứu chuyên sâu, tổng kết việc thực hiện pháp luật
trong nhà trường đại học để có những luận giải về khoa học giúp cho cho các nhà
trường hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật đến mức tối thiểu.
Thực tế cho thấy, trong các nhà trường đại học đều là nơi hầu như có những cá
nhân có trình độ giáo dục bậc cao, nhận thức sâu sắc nhiều vấn đề xã hội, có các
đơn vị chuyên về giảng dạy pháp luật hoặc thậm chí như một trường đại học
chuyên đào tạo pháp luật … nhưng lại xảy ra những thiếu sót, sai phạm trong quá
trình thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật là khó có thể chấp nhận được./.


Tóm lại, trường đại học là nơi hội tụ của tri thức, đạo đức là nơi huấn luyện con
người kỹ năng làm việc, giáo dục con người hoàn thiện về nhân cách của công dân
sống trong nhà nước pháp quyền, do đó cần gương mẫu trong việc tổ chức thực

hiện pháp luật trong quá trình hoạt động của nhà trường đại học.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001.
2. Luật Giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Giáo dục ngày 25 tháng 11 năm 2009.
3. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự

chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
4. Quyết định 58/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành

Điều lệ Trường đại học.
5. Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 10 tháng 7 năm 2003 của Thủ tướng

Chính phủ về việc Ban hành “Điều lệ trường đại học”.
6. Thông báo số 879/TB-TTCP ngày 16/4/2015 của Thanh tra Chính phủ về

Kết luận thanh tra Trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ tại Trường Đại học Kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh.
7. Thông báo số 880/TB-TTCP ngày 16/4/2015 của Thanh tra Chính phủ về

Kết luận thanh tra Trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ tại Đại học Huế .
8. Thông báo số 878/TB-TTCP ngày 16/4/2015 của Thanh tra Chính phủ về

Kết luận thanh tra Trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện Nghị định số



43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ tại Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam).
9. Thông báo số 878/TB-TTCP ngày 16/4/2015 của Thanh tra Chính phủ về

Kết luận thanh tra Trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ tại Trường Đại học Luật
TP.HCM.



×