Tải bản đầy đủ (.doc) (162 trang)

ĐẶC điểm của TIỂU THUYẾT có TÍNH CHẤT tự TRUYỆN TRONG văn học VIỆT NAM THẾ kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.27 KB, 162 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN VĂN TỔNG

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM


HUẾ - 2019


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN VĂN TỔNG

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 62.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
TS. TÔN THẤT DỤNG


TS. HÀ NGỌC HÒA

HUẾ, 2019
i


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Tôn Thất Dụng và TS. Hà Ngọc Hòa - những
người Thầy đã tận tâm giúp đỡ, dẫn dắt tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Vô cùng biết ơn quý Thầy Cô khoa Ngữ văn trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế và Viện Văn học đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong học tập,
nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Khoa học, Đại học Huế; Phòng
Đào tạo Sau đại học trường Đại học Khoa học Huế; Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào
tạo Phú Yên; Lãnh đạo Trường THPT Nguyễn Trường Tộ đã động viên, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian qua.
Xin cảm tạ cha mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạn bè…
đã chia sẻ cùng tôi suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Nguyễn Văn Tổng

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.
Nguyễn Văn Tổng

iii



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.............................................................................................................. i
Lời cảm ơn................................................................................................................ii
Lời cam đoan ...........................................................................................................iii
Mục lục..................................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu

3

3

2.2. Nhiệm vụ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu

4


4. Phương pháp nghiên cứu

5

4

4.1. Phương pháp tiểu sử 5
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại

5

4.3. Phương pháp liên ngành 5
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu 5
5. Đóng góp của luận án 5
6. Cấu trúc luận án

6

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới được giới thiệu ở Việt Nam

7

1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam

8

1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể
1.3.1. Giai đoạn trước 1945


16

16

1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975

20

1.3.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX 24
1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài
iv

28


1.4.1. Đánh giá về tình hình nghiên cứu

28

1.4.2. Hướng triển khai đề tài 29
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH
CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX
2.1. Giới thuyết về thể loại

31

31

2.1.1. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện


31

2.1.2. Quan niệm về tự truyện 35
2.1.3. Quan niệm về tiểu thuyết tự truyện

37

2.1.4. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong mối quan hệ với các thể loại tương cận
39
2.1.5. Cơ sở hình thành tiểu thuyết có tính chất tự truyện 43
2.2. Diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện thế kỷ XX

48

2.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945 48
2.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975

52

2.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX 55
CHƯƠNG 3. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ CẢM QUAN HIỆN THỰC VÀ
CON NGƯỜI

58

3.1. Hiện thực cuộc đời qua chiêm cảm của người trong cuộc

58


3.1.1. Hiện thực được tái hiện theo dòng hoài niệm59
3.1.2. Hiện thực qua cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm
3.1.3. Hiện thực qua góc nhìn phản tư

69

3.2. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật

75

64

3.2.1. Từ con người thực đến nhân vật tự trình bày 75
3.2.2. Từ con người thực đến nhân vật hồi cố, chiêm nghiệm
3.2.3. Từ con người thực đến nhân vật phản tư

79

87

CHƯƠNG 4. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
96
4.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật 96
v


4.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong và sự thay đổi
điểm nhìn


96

4.1.2. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong
4.2. Ngôn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện 111
4.2.1. Ngôn ngữ kể và sự hòa phối giữa kể - tả - bình luận 111
4.2.2. Ngôn ngữ gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp) 116
4.3. Giọng điệu trần thuật

119

4.3.1. Giọng trữ tình, hoài niệm

120

4.3.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm 126
4.3.3. Giọng tự trào, giễu nhại129
KẾT LUẬN 136
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO

141

PHỤ LỤC

vi

103


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thuật ngữ tiểu thuyết tự truyện (tiếng Pháp gọi là autofiction, tiếng Anh/
Mỹ gọi là autobiographical novel), đến nay không còn quá xa lạ trong đời sống văn
học. Thuật ngữ này được biết đến lần đầu tiên vào năm 1977, khi Serge Doubrovsky
“đã sáng chế thuật ngữ ghép hai từ auto (chính mình) và fiction (hư cấu) dính liền
với nhau” [20, tr.34]. Trên thế giới, tiểu thuyết tự truyện bắt đầu nở rộ từ thế kỷ XX,
gắn liền với những tên tuổi lớn như: Ch. Dickens (với David Copperfil), M. Gorki
(Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi), L. Tolstoy (Thời thơ ấu,
Thời niên thiếu, Thời thanh niên), Aragon (Gã dân quê), Claude Simon (Điền viên,
Cây keo), M. Duas (Người tình)... Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nó đã trở
nên quen thuộc với mọi đối tượng độc giả cũng như được mọi người trong giới
nghiên cứu, phê bình văn học thừa nhận. Vì, ngay trong cách định nghĩa về thể loại,
giới nghiên cứu, phê bình cũng không đồng nhất: có tài liệu thì định nghĩa tiểu
thuyết tự truyện là tự truyện viết dưới dạng trần thuật qua bút pháp hư cấu; có tài
liệu thì định nghĩa tiểu thuyết tự truyện là Truyện trong đó tác giả vừa là người kể
vừa là nhân vật, họ cùng chia sẻ chung một danh hiệu với nhau, còn tên gọi thì
chứng tỏ đó là tiểu thuyết …[20, tr. 34 - 35]. Ở Việt Nam, đến nay, tiểu thuyết tự
truyện vẫn chưa có được một danh xưng thể loại cụ thể. Tuy nhiên, trong hành trình
sáng tạo nghệ thuật, rất nhiều nhà văn đã sử dụng yếu tố tự truyện làm chất liệu
trong tiểu thuyết. Từ những thử bút ban đầu của các nhà văn ở chặng đường nửa đầu
thế kỷ XX như Tản Đà, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Lan Khai... cho đến những
cây bút sáng tác ở đô thị miền Nam: Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Duyên Anh, Võ
Hồng, Túy Hồng… Đặc biệt, từ sau thời kỳ đổi mới, con số những tiểu thuyết có
tính chất tự truyện xuất hiện khá đầy đặn trên văn đàn, tạo thành một dòng chảy
mạnh mẽ. Rất nhiều những cây bút đã sử dụng yếu tố tự truyện như một thủ pháp
nghệ thuật để cách tân, làm mới tiểu thuyết.
Như vậy, có thể nói, dù chưa thực sự trở thành “thương hiệu” cụ thể của
vii



một nhà văn nào, và trong sự nghiệp sáng tác của từng nhà văn, tiểu thuyết có tính
chất tự truyện cũng xuất hiện khá khiêm tốn, con số những tác phẩm được xếp vào
hàng kết tinh nghệ thuật cũng chưa thể sánh bằng với sự lớn mạnh của tiểu thuyết.
Song, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thực sự là một thực thể đang hiện hữu
trong đời sống văn học Việt Nam. Sự hiện diện của nó với tư cách là một tiểu loại
tiểu thuyết là điều hoàn toàn không thể phủ nhận.
Mặc dù đã hiện diện từ lâu trong đời sống văn học và nó vắt mình qua hai thế
kỷ, nhưng vẫn còn đó tâm lý nghi ngại: liệu ở Việt Nam đã có tiểu loại tiểu thuyết
có tính chất tự truyện? Đây cũng là vấn đề tạo không ít áp lực cho người nghiên
cứu, nhưng đồng thời cũng kích thích sự hứng khởi khi đến với tiểu loại tiểu thuyết
này. Bởi, chúng tôi đang khảo sát và nghiên cứu một tiểu loại “rồi đây sẽ phát triển
thế nào, biến hóa ra sao? Chỉ có thời gian mới trả lời được câu hỏi này” [20, tr. 40].
1.2. Những thập niên gần đây, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ngày
một nhiều. Cùng với đó là những nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện
cũng nhiều hơn. Song, dù có thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình
nhưng xung quanh nó vẫn còn ngổn ngang nhiều vấn đề: từ cách định danh, tiêu chí
nhận diện đến đặc điểm tiểu loại... vẫn còn là vấn đề chưa được giới nghiên cứu đi
đến sự thống nhất. Ra đời vào những thập niên đầu thế kỷ XX, nhưng rõ ràng trong
hệ thống thể loại tiểu thuyết Việt Nam, nó vẫn là “đứa con sinh sau”, và nhịp lưu
chuyển của nó vẫn còn trong quá trình vận động không ngừng, huống hồ nó cũng chỉ
mới được lưu tâm nhiều ở những năm gần đây. Những bài báo, tham luận, những
nghiên cứu trực tiếp về tiểu loại, cùng với một số luận văn, luận án đi vào nghiên cứu
một giai đoạn cụ thể nào đó vẫn chưa thể khái quát được toàn diện về tiểu loại này.
Đây cũng là trở ngại lớn cho những người yêu thích tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
Đọc một tác phẩm mà trong công trình nghiên cứu này thì xếp vào hàng tự truyện,
hoặc tiểu thuyết, còn ở công trình kia thì lại cho là “tự truyện bất thành”, hoặc một
hồi ký, giả tự truyện... khiến người đọc không khỏi phân vân.
Nhìn trên phương diện lý thuyết về tiểu loại cũng như thực tế sáng tác, tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đang bỏ
ngỏ, đòi hỏi cần phải có một sự tiếp tục. Đây cũng chính là lý do để chúng tôi chọn

viii


“Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX” làm
đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra sự vận động, quá trình phát triển cũng như những
thành tựu đạt được cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, góp phần làm rõ hơn
diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một tiểu loại khá giàu tiềm năng
đang trong quá trình vận động.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt
Nam thế kỷ XX, tác giả luận án đặt mục tiêu nhận diện, lý giải những đặc điểm
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam suốt chiều dài của
thế kỷ XX.
Mục tiêu cụ thể
- Thông qua khảo sát tư liệu, nhận diện quá trình vận động và phát triển của
tiểu thuyết có tính chất tự truyện, bước đầu xác lập cơ sở lý thuyết về tiểu loại tiểu
thuyết này.
- Phân tích, lý giải đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên những
nét đặc trưng cơ bản: từ nguyên mẫu nhà văn - đề tài - nhân vật, mối quan hệ giữa
sự thật và hư cấu trong tác phẩm.
- Phân tích, lý giải những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự truyện
dựa trên những phương thức thể hiện: người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu. Trên cơ
sở đó, làm rõ hơn gương mặt tiểu loại cũng như những đóng góp của tiểu thuyết có tính
chất tự truyện trong việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết.
2.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa các hướng nghiên cứu, tiếp cận tiểu thuyết có tính chất tự
truyện đã có, phân tích, lý giải nhằm làm rõ hơn những chỗ còn bỏ ngỏ và xác định
hướng nghiên cứu cụ thể.
- Xác định rõ tiền đề cơ sở cho sự phát triển của tiểu thuyết có tính chất

tự truyện.
- Khái quát một cách thật ngắn gọn về đối tượng nghiên cứu trong mối tương
quan tổng thể đời sống văn học Việt Nam và các lý thuyết vận dụng trong quá trình
ix


nghiên cứu.
- Phân tích quá trình hình thành, phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện dựa trên mối quan hệ giữa hiện thực cuộc đời tác giả và thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm qua các chặng đường khác nhau nhằm tìm ra quy luật vận động và
những đặc điểm cơ bản trong nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện của tiểu
thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam thế kỷ XX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận án là những tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đặc biệt, luận án sẽ đi vào khảo sát những tiểu
thuyết có tính chất tự truyện hiện lên khá rõ nét. Cụ thể là những tác phẩm tiêu biểu
sau: Giấc mộng lớn (Tản Đà), Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Dã tràng (Thiết
Can), Bốc đồng (Đỗ Đức Thu), Chiếc cáng xanh (Lưu Trọng Lư), Ngậm miệng, Hai
người điên giữa kinh thành Hà Nội (Nguyễn Bính), Mực mài nước mắt (Lan Khai),
Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Sống mòn (Nam Cao), Hoa bươm bướm và Người về đầu
non (Võ Hồng), Trường cũ (Duyên Anh), Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Tôi nhìn tôi
trên vách (Túy Hồng), Vòng tay học trò (Nguyễn Thị Hoàng), Thời xa vắng (Lê
Lựu), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Chuyện kể năm
2000 (Bùi Ngọc Tấn), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt
Nam trong thế kỷ XX, bao gồm những tác phẩm ra đời từ đầu cho đến hết thế kỷ
XX. Chọn mốc thời gian từ đầu cho đến hết thế kỷ XX, bởi chúng tôi nhận thấy
rằng đây là một giai đoạn mà tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã góp phần rất lớn

vào quá trình phát triển của tiểu thuyết Việt Nam theo hướng hiện đại.
Luận án tập trung nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
Việt Nam thế kỷ XX trên các phương diện cơ bản: Cách định danh tiểu loại; tiền đề
cơ sở hình thành; sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện qua các chặng
đường khác nhau; các phương thức thể hiện của tiểu loại tiểu thuyết này.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tổng hợp, đánh giá một cách khách quan những vấn

x


đề chung, liên quan đến lý thuyết về tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học
Việt Nam. Đồng thời, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chú trọng đến đặc
điểm nổi bật nhất của tiểu loại tiểu thuyết này trong mối quan hệ với các thể loại
văn học khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp tiểu sử
Chúng tôi vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm tìm hiểu tác phẩm thông qua
mối quan hệ giữa tác giả và văn bản nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Đây là một
trong những phương pháp quan trọng giúp cho luận án có thêm cơ sở để tìm hiểu
dấu ấn tự truyện cũng như mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu trong tiểu thuyết.
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi chọn lựa phương pháp này để tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhằm
thống kê, phân loại, hệ thống hóa và chọn lựa tài liệu.
4.3. Phương pháp liên ngành
Nhằm để có một góc nhìn sâu hơn về tính chất tự truyện trong tiểu thuyết
Việt Nam thế kỷ XX, chúng tôi sẽ vận dụng một số lí thuyết về văn hóa học, thi
pháp học và tự sự học.
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Với phương pháp này, luận án hướng đến “giải mã” những đặc trưng của tính
chất tự truyện trong tiểu thuyết và khu biệt giữa tự truyện trong tiểu thuyết với các

loại hình tiểu thuyết khác. Qua đó, luận án chỉ ra những nét đặc sắc của đặc điểm tự
truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX.
5. Đóng góp của luận án
- Từ việc hệ thống hóa lý luận về tiểu thuyết có tính chất tự truyện, luận án
đưa ra những kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để khái quát một số khái niệm
mang tính đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
- Định rõ những đặc trưng về mặt lý luận của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện, lấy đó làm nền tảng cơ sở để soi rọi vào tác phẩm nhằm thấy được những
nét đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
- Là một công trình nghiên cứu chuyên biệt, hệ thống về tiểu loại tiểu thuyết
có tính chất tự truyện nhằm hướng đến tái hiện toàn bộ gương mặt của tiểu loại này
xi


trong cả hành trình một thế kỷ (thế kỷ XX).
- Khẳng định rõ vai trò, vị trí của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong quá
trình vận động và phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của Luận án sẽ được triển khai thành các chương cụ thể sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện
trong văn học Việt Nam thế kỷ XX
- Chương 3: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ
XX - Nhìn từ cảm quan hiện thực và con người
- Chương 4: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ
XX - Nhìn từ phương thức thể hiện

xii



CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới được giới thiệu ở Việt Nam
Tự truyện trong nguyên ngữ Hy Lạp là autos (chính mình), bios (cuộc đời),
và graphein (viết), nghĩa là “viết về chính cuộc đời mình”. Cách kết hợp ba thành tố
này tạo thành autobiography trong tiếng Anh và sau đó được sử dụng trong tiếng
Pháp autobiographie, nhưng cách viết này trở thành một thuật ngữ thông dụng ở
Châu Âu từ giữa thế kỷ XIX.
Những tác phẩm tự truyện đầu tiên trên thế giới bắt đầu xuất hiện từ thời cận
đại ở Tây Âu. Tuy nhiên, danh từ tự truyện chính thức được sử dụng phải đợi đến
cuối thế kỷ XVIII, khi mà thể loại này bắt đầu nở rộ ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Những
tài liệu nghiên cứu đầu tiên về thể loại tự truyện xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ
XX với những chuyên khảo của Anna Robson Burr (1909), Wayne Shumaker
(1926), A.M.Clark (1935). Dần về sau này, mặc dù tự truyện chưa tạo được sự lưu
tâm của giới phê bình nhưng nó vẫn tồn tại với tư cách một thể loại độc lập và nhiều
nhà nghiên cứu cũng đã phác thảo được những nét cơ bản, xem nó như một thể loại
riêng biệt. Trong số đó, phải kể đến Những điều kiện và giới hạn của Tự truyện
(1956) của Georges Gurdorf, Tự thú và Tự truyện (1955) của Stephen Spendes. Ở
hai công trình này, nhà phê bình đã chú ý đến sự tồn tại độc lập của tự truyện với
vai trò là một thể tài đứng bên cạnh những thể loại văn học khác. Nhưng phải đợi
đến năm 1960, khi chuyên luận Phác thảo và Sự thật trong Tự truyện (Design and
Truth in Auubiography) của Roy Pascal ra đời thì tự truyện mới bắt đầu được
nghiên cứu như “một hoạt động sáng tạo”. Trong chuyên luận này, Pascal đã đặt ra
vấn đề: khởi điểm một tự truyện, tác giả tự truyện liệu có đi theo đúng sự thật mà
mình đã trải qua? Có hay không cái gọi là phác thảo trong trải nghiệm của con
người nếu đây không phải là một sự áp đặt vô lí cho sự thật [164]. Đến thập niên
70, nhà phê bình văn học người Mỹ James Olney trong một công trình nghiên cứu

1



về tự truyện của mình đã viết: “Chính sự chuyển hướng sang cái “tôi” khi đã có
được nhận thức về sự tồn tại của nó sẽ định hình và quyết định bản chất của tự
truyện và trong quá trình ấy sẽ vừa khám phá vừa sáng tạo lại mình - đã khởi đầu
cho chủ đề tự truyện trong những cuộc tranh luận” [163]. Từ những nghiên cứu về
cái tôi trong tự truyện ấy, những năm về sau, đặc biệt là khoảng ba thập niên cuối
của thế kỷ XX, thể loại tự truyện được giới phê bình chú ý nhiều và thể loại này
gần như trở thành một trong những thể loại trung tâm, được soi chiếu dưới nhiều
góc độ khác nhau.
Trong ba thập niên cuối của thế kỷ XX, cùng với sự nở rộ của thể loại tự
truyện, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học không còn xem tự truyện thuộc hàng
“ngoại biên” nữa mà soi ngắm nó qua nhiều chiều kích khác nhau trong vai trò của
một thể loại văn học. Chính nhờ thế mà cả một hệ thống lí luận thể loại cũng được
định hình một cách rõ nét. Và một trong số đó phải kể đến Hiệp ước Tự thuật (Le
Pacte Autobiographique) (1975) của Philippe Lejeune. Hiệp ước này ra đời mang
theo một định nghĩa về thể loại, kèm theo đó là những ranh giới và bảng biểu, sơ đồ
cụ thể để phân biệt tự truyện với những thể loại khác. Tuy nhiên, cũng trong những
năm cuối của thập niên 70, cùng với “sự tuyên xưng cái chết của tiểu thuyết”, và
khi Michael Sprinker tuyên bố “sự chấm dứt của tự truyện” thì các nhà hậu cấu trúc
luận khẳng định “văn bản của tự truyện có đời sống riêng của nó, thoát ly khỏi tính
quy chiếu và khi đó cái tôi chỉ còn là vấn đề của văn bản” [64, tr. 23]. Nhưng trong
khoảng hai thập niên cuối thế kỷ XX, khi thể tự truyện ngày một thêm phong phú,
vấn đề nghiên cứu về tự truyện lại được xuất hiện trở lại khá đầy đặn mà xem chừng
như những lí thuyết về tự truyện từ trước đó và cả Hiệp ước tự thuật của Philippe
Lejeune gần như không thể theo kịp đà phát triển đa dạng của thể tự truyện. Nhiều
nhà nghiên cứu tập trung đi vào khám phá thế giới tự truyện từ lĩnh vực tâm lí sáng
tạo và dân tộc học, từ văn hóa và tâm lí học nghệ thuật…
1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở
Việt Nam

Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, khi trang tiểu thuyết mang bóng dáng
tự truyện xuất hiện với gương mặt đầy lạ lẫm, thì giới học thuật của Việt Nam đã
2


bắt đầu chú ý đến bước đi của nó. Trong số các công trình nghiên cứu, Nhà văn
hiện đại của Vũ Ngọc Phan có lẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về tự truyện
dưới góc nhìn thể loại. Từ hướng tiếp cận này, Vũ Ngọc Phan đã có những phát hiện
khá ấn tượng: “Tự truyện là một loại văn tuy không mới ở nước người, nhưng rất
mới ở nước ta. Gần đây có mấy nhà văn đem những việc của mình ra viết, nhưng họ
chưa có can đảm đề là tự truyện, họ “tiểu thuyết hóa” ít nhiều cuộc đời của họ và đề
là tiểu thuyết” [103, tr. 95]. Dần về sau, đặc biệt là chặng đường sau năm 1986, khi
mà quan niệm và tư duy nghệ thuật thay đổi, tạo điều kiện cho sự xuất hiện của
khuynh hướng tự truyện ngày một nhiều đã thu hút được sự chú ý của các nhà
nghiên cứu, phê bình văn học. Có lẽ vì thế nên những công trình nghiên cứu về
khuynh hướng này cũng ngày một nở rộ.
Theo Phong Lê, “Để nhớ về một quá khứ chưa xa, về một vùng hiện thực
khuất nẻo, khó có ai biết, nhưng đã được viết với tư cách người trong cuộc, nên khó
có ai viết thay, là Chuyện kể năm 2000, 2 tập (2000) của Bùi Ngọc Tấn, trong nối
dài về trước với Tuổi thơ im lặng (1987) của Duy Khán, Cát bụi chân ai (1992) và
Chiều chiều (1999) của Tô Hoài… Cũng có thể xếp vào đây Thượng đế thì cười
(2003) của Nguyễn Khải - một tiểu thuyết gần như tự truyện. Với Tô Hoài, Nguyễn
Khải - những tên tuổi quan trọng của văn học hiện đại, thì điều quan trọng không
chỉ là chuyện được kể, mà còn là giọng kể, cách kể” [66, tr. 52]. Cùng chung quan
điểm với Phong Lê, Nguyễn Văn Long trong Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau
1975 cho rằng, xuất phát từ tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật của
văn học những năm cuối 80, đầu những năm 90 trong văn học Việt Nam đã phát
triển mạnh mẽ khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Đây chính là lúc văn học trở
về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, vì thế, “Trong văn xuôi những năm 90 và
vài năm lại đây… Hồi kí - tự truyện lên ngôi…” [73].

Nghiên cứu về truyện và tự truyện của Phan Bội Châu, khi luận bàn về sự
phát triển của thể tự truyện, Hoàng Đức Khoa nhận thấy trong bối cảnh văn hóa
trung đại vốn nặng quan phương, khép kín nên khả năng con người tự ý thức về
mình và hướng tới khám phá, thể hiện từng số phận thực sự không dễ. Chính những
thay đổi trong đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân nửa phong kiến, cùng với
3


quá trình tư sản hóa những năm nửa đầu thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đến đời
sống văn học. Đây chính là bối cảnh ra đời tự truyện của Phan Bội Châu. Theo tác
giả, tự truyện là truyện do các nhà văn viết về cuộc đời mình nhằm những mục đích
khác nhau… Cũng chính trong thể loại này, tất cả những biến cố, sự việc, nhân vật
… đều được lấy từ cuộc đời thực của tác giả, không có sự hư cấu thêm, hoặc nói
cách khác là không có sự hư cấu tự do [61, tr. 119 - tr. 128].
Sự lưu tâm một cách nồng nhiệt cho thể tự truyện ngày một đậm đặc hơn
trong những năm về sau, đặc biệt là khi thể tự truyện ngày một lấn sâu vào đời sống
văn học từ sau 1986. Tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, nhà nghiên cứu
Bích Thu đã trình bày ý kiến của mình về tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện.
Với Bích Thu thì người đọc hôm nay muốn “được tiếp xúc với những tiểu thuyết
tâm lý mà ở đó, nhân vật tự bộc lộ tư tưởng, chính kiến qua dòng chảy của nhận
thức, mọi hành vi, ứng xử và lời thoại ẩn sâu trong tâm trạng nhân vật và các tầng
nghĩa. Hoặc các tiểu thuyết mang tính tự truyện, vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư
cấu, vừa mang tính tiểu sử lại vừa được nghệ thuật hóa, tiểu thuyết hóa, một đặc
trưng của tiểu thuyết hiện đại, có khả năng khai thác tiềm thức qua kỹ thuật dòng ý
thức” [134, tr. 6]. Ở bài viết này, Bích Thu thực sự chú ý đến nét đặc trưng mang
tính khu biệt của tiểu thuyết mang tính tự truyện, đó là người đọc dễ dàng nhận thấy
ở tiểu thuyết mang tính tự truyện vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư cấu. Có thể nói,
chính cuộc sống thực tại của con người Việt Nam sau 1986 đã mang lại cho nhà
nghệ sĩ những quan niệm nghệ thuật về hiện thực với những khám phá mới. Và ở
đây, Bích Thu rất có lí khi cho rằng một trong những nguyên nhân làm cho tiểu

thuyết có tính tự truyện ngày một xuất hiện nhiều trong văn học những năm trở lại
đây là bởi xã hội hiện đại đề cao vai trò của cá nhân và thúc đẩy sự thức tỉnh của ý
thức cá nhân. Cái tôi trỗi dậy đòi hỏi được quan tâm đúng mức. Tiểu thuyết trở về
với con người, thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, bảo tồn giá trị của con
người trước sự lãng quên của xã hội.
Khi nghiên cứu về văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến 1995, Nguyễn Thị Bình
cũng nhận ra “những tác phẩm mang dáng dấp tự truyện như Miền thơ ấu (Vũ Thư
Hiên), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi
4


chân ai (Tô Hoài)… Với những tác phẩm này, cái tôi của người viết hiện diện rất
sắc nét qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm
nhìn hiện tại”. Từ những phát hiện ấy, Nguyễn Thị Bình đã lần tìm được dấu vết để
làm nên phần cốt lõi của các tác phẩm mang bóng dáng tự truyện đó chính là “cái
tôi” của người viết luôn gắn liền với cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì mà
chính người viết đã từng trải nghiệm trong thực tiễn cuộc sống của mình [10].
Trong một công trình nghiên cứu khác, khi khảo sát một số khuynh hướng tiểu
thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới cho đến nay, căn cứ vào cách thức xử lí chất
liệu hiện thực trong tác phẩm, Nguyễn Thị Bình cũng nhận ra được bên cạnh những
tiểu thuyết theo phong cách lịch sử hóa, tiểu thuyết tư liệu - báo chí, tiểu thuyết hiện
thực kiểu truyền thống, tiểu thuyết theo phong cách hiện thực còn có khuynh hướng
tiểu thuyết theo phong cách tự thuật. Đây có thể được xem là một trong những
khuynh hướng tiểu thuyết chính trong dòng văn học đương đại Việt Nam.
Có thể nói, chính thời kì đổi mới của đất nước từ sau năm 1986 đã làm cho
văn học Việt Nam thực sự có được sức sống mới. Gần như cảm hứng ngợi ca của
những trang văn mang đậm khuynh hướng sử thi không còn là mảnh đất lí tưởng
để các nhà văn hướng đến. Vì vậy, khi nhìn vào hiện thực của văn học chặng
đường sau năm 1986, nhà nghiên cứu Lã Nguyên xem đây là cả một bước “chuyển
mình” thật sự của văn học để tiến tới “phá cái khoanh vùng hết sức hình thức của

đề tài văn học trước kia”. Và văn học hôm nay đang hướng tới những gì đang hiện
hữu giữa cuộc sống đời thường. “Nhà văn hôm nay đang nêu tấm gương về sự
dám nghĩ, dám nói, dám thẳng thắn bày tỏ lập trường công dân của mình. Ta hiểu
vì sao văn học trong những năm gần đây dám bất chấp cả những điều cấm kỵ xưa
nay và phạm vi những vấn đề xã hội mà nó quan tâm lại rộng lớn đến như thế”
[87]. Nếu như trước năm 1975, vận mệnh sống còn của Tổ quốc luôn là lựa chọn
đầu tiên của người cầm bút, thì chặng đường sau 1975, sự thức tỉnh của ý thức cá
nhân đã chiếm thế thượng phong trên bàn cân bút lực người viết: “Việc nhận thức
đúng đắn vị trí của nhân dân trong đời sống xã hội, buộc nhà văn tìm đến chỗ
đứng phát ngôn bình đẳng với công chúng bạn đọc của mình. Đó là cơ sở nảy sinh
hình thức văn học của ý thức đối thoại thấm nhuần tinh thần dân chủ” [87]. Nhà
5


văn, nhân vật trần thuật của văn học hôm nay không mấy khi xuất hiện trong tác
phẩm ở ngôi thứ ba như con người tuy vô hình nhưng đầy quyền uy, biết hết, thấy
tất, mà thường giấu mình sau hình thức tự thú, hình thức người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất - đó là một biểu hiện của ý thức đối thoại. Nhìn thẳng vào thực tại, tỉnh
táo nhận ra mình, nói hết sự thật với người đọc, dù sự thật đó có xót xa, đau lòng
đến bao nhiêu cũng không bưng bít, giấu giếm - đó cũng là một biểu hiện của ý
thức đối thoại… Con người với tư cách là cá nhân thường bị bỏ rơi trong thế giới
của sử thi là vì thế. Sau 1975, nền văn học của chúng ta đã nhanh chóng chuyển từ
thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô, từ thế giới của cộng đồng, dân tộc và lịch sử
đến những câu chuyện về thế sự và đời tư con người. Cho nên, cá nhân con người
“đang từng bước, từng bước tiến vào vị trí trung tâm của văn học hôm nay. Cá
nhân con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, vừa là điểm xuất phát để
văn học hôm nay nhìn ra thế giới. Nó soi ngắm thế giới và định giá lịch sử qua
lăng kính và mực thước của cá nhân con người” [87].
Quan sát văn học và nền kinh tế thị trường trong mười năm cuối thế kỷ XX,
Nguyễn Phượng nhận thấy các giá trị từng một thời là niềm tin mãnh liệt của con

người Việt Nam giờ đây đứng trước thời kì đổi mới, nó đang thực sự bị lung lay dữ
dội - Điều này thể hiện rất rõ ở sự thay đổi về nhận thức về các giá trị… “cái thiêng
liêng cao cả, cái lí tưởng mặc dù nó vẫn còn sức hấp dẫn nhưng nó không phải là
đối tượng duy nhất mà người cầm bút hôm nay hướng tới”. Từ hướng tiếp cận khái
quát văn học Việt Nam khoảng 10 năm cuối thế kỷ XX, trong xu hướng “giải ảo”,
“giải thiêng” - nảy sinh từ cái nhìn “tỉnh táo”, “duy thực” đầy can đảm của các nhà
văn trong hoàn cảnh đất nước trở lại nhịp sống đời thường, con người trở về với
cuộc sống thường nhật hằng ngày, Nguyễn Phượng đã thấy được “thể loại hồi ký, tự
truyện và tiểu thuyết tự truyện lại gần như chiếm thế thượng phong trong giai đoạn
này. Công chúng dành một sự quan tâm khá đặc biệt với một số tiểu thuyết tự
truyện và hồi ký xuất hiện trong giai đoạn này như Cát bụi chân ai (1992 ) và
Chiều chiều (1999 ) của Tô Hoài, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn…” [110].
Đánh giá về tiểu thuyết trong văn học thời kì đổi mới, Mai Hải Oanh đã
không ngần ngại khi đưa ra nhận định: “Ra đời trong không khí dân chủ, tiểu thuyết
6


tự thuật thời kì đổi mới khá đa dạng. Có loại đậm chất giễu nhại như Thượng đế thì
cười, Ba người khác; có loại nói về những chua chát đời người (Chuyện kể năm
2000), có loại nói đến những cảm nhận cá nhân về điều đã trải nghiệm trong đó có
những đoạn gần với nhật kí (Chuyện của thiên tài)’’ [100, tr. 112]. Cách định dạng,
gọi tên tiểu thuyết tự thuật thời kì đổi mới của Mai Hải Oanh cần phải bàn luận
thêm, nhưng trong nhận định này người viết đã có một cái nhìn khá chuẩn xác khi
cho rằng chính thời kì đổi mới đã mang đến cho thể tiểu thuyết những diện mạo
mới, đầy sức hấp dẫn.
Trong cuộc Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002), Ma Văn Kháng đã
từng nói: “Cùng với tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết tự thuật sẽ là một thể loại được
phát triển”. Đây phải chăng là sự tiên liệu thể hiện góc nhìn đầy lạc quan của một
“người trong cuộc”? Người mà gần như hành trình viết của ông ở chặng đường từ
sau thời kì đổi mới, từ Mùa lá rụng trong vườn, đến Ngược dòng nước lũ hay Một

mình một ngựa… người đọc đều có thể nhận thấy đâu đó chất liệu đời tư của ông
gần như ngồn ngộn trên trang tiểu thuyết [57, tr. 67].
Nghiên cứu về sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kì
đổi mới, Lý Hoài Thu cũng có quan điểm tương đồng với nhà văn Ma Văn Kháng
khi cho rằng: “Nhìn vào sự vận động và phát triển của hệ thống thể loại trong văn
học thời kì đổi mới… sự thâm nhập của thể ký vào “lãnh địa” của tiểu thuyết đã tạo
nên một dòng tiểu thuyết tự truyện có sức hút lớn trong đời sống văn học đương đại.
Chính từ những vùng này, các thể loại cũ đã có thêm nhiều tố chất mới” [136].
Trong Thế kỷ tiểu thuyết, khi bàn về hiện tượng tự truyện, Nguyễn Vy Khanh
đã viết: “Ngay từ đầu thế kỷ XX đã có tự truyện với cuốn đầu tiên là Chồn cáo tự
sự của Michel Tính xuất bản năm 1910 tại Sài Gòn. Sau đó là Nguyên Hồng với
Những ngày thơ ấu (1938) và Thiết Can với Dã Tràng (1939)…”. Trong bài viết
này, Nguyễn Vy Khanh viết: “Thế kỷ XX, ít tác giả đưa cái Tôi thật vào văn
chương, có chăng cũng phải văn chương hóa, tiểu thuyết hóa… Vào giai đoạn cuối
thế kỷ mới thật sự bành trướng thể loại tự truyện nhưng vẫn tương đối ít tác phẩm
lớn vì đa phần chỉ là những hồi ký nhẹ tính văn chương” [56].
Sự đầy đặn của tiểu thuyết có tính tự truyện ngày thêm bồi đắp trong văn
7


học Việt Nam đương đại đã tạo thành một khuynh hướng. Nhờ thế nên tiểu thuyết
Việt Nam mang nhiều hương sắc mới. Trong bài viết Khuynh hướng tự truyện
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Đỗ Hải Ninh cho rằng nền văn học Việt
Nam bắt đầu từ sau thời kì đổi mới đã thực sự có những bước tiến đáng kể, đặc
biệt là sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, quan niệm về nhà
văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với chính mình. Đây
chính là tiền đề cơ sở để khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại trở nên khá phổ biến so với văn học giai đoạn 1945 - 1975. Theo Đỗ
Hải Ninh, “Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết giúp người đọc không chỉ
giải mã con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời

thật mà qua những trải nghiệm sống và sự tự thú chân thành” [97]. Với Đỗ Hải
Ninh thì mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tưởng và
bộc lộ cái tôi cá nhân. Vì vậy, có thể tìm thấy ở mỗi trang viết những trải nghiệm,
suy ngẫm và cái tôi rất riêng. Và mục đích của tự truyện là tìm hiểu một con người
có thật với lịch sử hình thành nhân cách, còn tiểu thuyết, mặc dù cũng sử dụng
nhân vật, cốt truyện đó nhưng được hư cấu hóa, hoặc được cấp cho một lớp vỏ hư
cấu. Căn cứ từ thực tiễn ấy, Đỗ Hải Ninh khẳng định: “Văn học Việt Nam từ sau
đổi mới đã có những thay đổi đáng kể trong quan niệm về hiện thực và con người,
quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với
chính mình. Đó chính là cơ sở để khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại trở nên khá phổ biến” [97]. Trong một bài viết khác, khi đi sâu
vào khai thác mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật
trong văn học Việt Nam đương đại, dù biết rằng quy luật giao thoa thể loại và
những nỗ lực cách tân nghệ thuật khiến cho việc phân biệt tự truyện và tiểu thuyết
tự thuật ngày càng trở nên khó khăn hơn, nhưng Đỗ Hải Ninh cũng đã cố gắng
luận giải vấn đề này một cách rành mạch: “Trong tự truyện, cuộc đời tác giả và
bức chân dung tinh thần của ông ta trở thành đối tượng chính, tham gia trực tiếp
vào tác phẩm như một bộ phận hữu cơ. Còn ở tiểu thuyết tự truyện, những chi tiết
tiểu sử được nhào nặn lại, câu chuyện cuộc đời được cấu trúc và sắp xếp lại, tức là
tác giả tách khỏi những yếu tố đời tư để thể hiện với một độ gián cách nhất định”
8


[99]. Vì nếu như tự truyện là dạng văn bản có tính quy chiếu, thì những tiểu thuyết
tự thuật là những hư cấu nghệ thuật dựa trên nền tiểu sử tác giả, chính đời tư của
tác giả là nguồn chất liệu cơ bản để giúp tác giả viết thành những trang tiểu thuyết.
Khi tiến hành khảo sát văn xuôi Việt Nam trong chặng đường từ sau 1990 để
lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi của các tác giả nữ, Hồ Khánh
Vân đã chỉ ra nguyên nhân khiến cho khuynh hướng viết tự truyện ngày một xuất
hiện nhiều trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong sáng tác của những cây bút nữ

là vì “tự thuật vừa là điểm nhìn, là vị trí mà từ đây, các cây bút khái quát hóa và tái
hiện đời sống hiện thực, là cảm hứng sáng tác hình thành nên thế giới của tác phẩm
từ khuynh hướng tư tưởng, nội dung phản ánh cho đến bút pháp nghệ thuật, là hệ
sinh thể hình tượng hiện hữu trên bề mặt tác phẩm” [160]. Theo Hồ Khánh Vân, các
tác phẩm viết theo lối tự truyện có “mật độ tự thuật dày đặc, gần như là một “bản
dập” của cuộc đời nhà văn. Ở đó, không khí của tác phẩm, cốt truyện, nhân vật, tình
tiết, đều sát với cuộc đời thực của tác giả và người đọc có thể nhận ra, kiểm chứng
được. Ở đó, bóng dáng nhà văn và nhân vật trung tâm như hai vòng tròn đồng tâm
và có cùng bán kính” [160].
Cùng chung hướng tiếp cận của Hồ Khánh Vân, nhưng Trần Huyền Sâm lại
tiếp cận những tác phẩm tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại dưới góc nhìn nữ
quyền. Ở góc tiếp cận này, Trần Huyền Sâm đã có những kiến giải khá thỏa đáng
khi cho rằng: “Tự thuật không phải là đặc tính riêng của nữ giới, nhưng đây là nét
ưu trội nhất làm nên bản mặt của văn phong nữ giới. Tự thuật vừa là phương tiện
vừa là đối tượng phân tích trong sáng tác nữ giới” [116]. Trần Huyền Sâm cũng
khẳng định: “Đó là phương thức để nữ giới thể hiện sự nếm trải giới tính, đồng thời
là mục đích để giải phóng những kìm hãm của bản thân” [116].
Tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở nước ta đã có cả một chuỗi
thời gian dài hình thành và phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay, so với các thể loại
khác dường như nó vẫn chưa được nhiều sự ưu ái của các nhà nghiên cứu, phê bình
văn học. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có một số tác giả chú ý khảo sát các tác
phẩm tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện nhưng nhìn chung chỉ dừng lại
ở việc kết hợp trong nhận định, đánh giá. Hoặc nếu có thì cũng chỉ dừng lại ở mức
9


khảo sát một chặng đường ngắn (Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn
học Việt Nam đương đại của Đỗ Hải Ninh), chưa có một công trình thật sự chuyên
sâu nào đi vào nghiên cứu về tự truyện và tính chất tự truyện trong tiểu thuyết Việt
Nam thế kỷ XX.

1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể
1.3.1. Giai đoạn trước 1945
Khảo sát chặng đường một thế kỷ, từ lúc những dấu vết ban đầu của tiểu
thuyết có tính tự truyện xuất hiện cho đến khi tiểu loại này hợp vào dòng chủ lưu
của tiểu thuyết Việt Nam, chúng tôi nhận thấy sự tồn tại của tiểu thuyết có tính chất
tự truyện là nhờ “sự đọc” của công chúng độc giả qua mọi thời đại, trong đó có sự
góp mặt của những siêu độc giả, những người gần như là nhịp cầu nối để đưa tiểu
loại này đến gần hơn với công chúng.
Sau đây, chúng tôi điểm lược những bài viết, những công trình nghiên cứu về
tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam giai đoạn trước 1945.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, khi Nguyên Hồng viết cuốn Những ngày thơ
ấu, Thạch Lam, một trong những cây bút chủ lực của nhóm bút Tự lực văn đoàn đã
không ngần ngại hạ bút đánh giá về Những ngày thơ ấu như sau: “nó là sự rung
động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của
một gia đình sắp tàn” [62]. Và khi chọn đưa Nguyên Hồng vào Nhà văn hiện đại,
trong phần nhận xét về Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan cũng đã quả quyết rằng
Nguyên Hồng chính là “người Việt Nam thứ nhất dám kể về gia đình mình” bằng
những dòng tự bạch chân thành: “Thầy tôi làm nghề cai ngục, mẹ tôi con nhà buôn
bán…”. Ông viết: “Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng đã cho ta biết rõ hẳn
một quãng đời quá khứ của ông. Lối tự truyện này, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga, rất thịnh
hành; nhưng ở Việt Nam ta, viết được, tôi cho là can đảm lắm” [104, tr. 126]. Đánh
giá về tác phẩm này, chủ yếu Vũ Ngọc Phan bàn về tính tự truyện như là “bản chất”
thể loại của tác phẩm qua góc nhìn so sánh. Và Vũ Ngọc Phan, một người khá thận
trọng cũng phải thốt lên: “Mới đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có
dưới mắt một quyển sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga.” [104, tr. 126].
Phải chăng Vũ Ngọc Phan đang muốn nói đến sự dũng cảm của một con người dám
10


thành thật trong việc tự thú “trần trụi” về cuộc đời mình? Cho đến những năm về

sau, và cả đến hôm nay, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng vẫn được công
chúng độc giả luôn quan tâm bằng cả niềm trân trọng.
Phan Cự Đệ, một chuyên gia nghiên cứu về Nguyên Hồng, trong phần giới
thiệu về Tuyển tập Nguyên Hồng từng bộc bạch: “Tôi nhớ lúc còn ngồi trên ghế
nhà trường trung học, một lần phải dịch ra Pháp văn một đoạn trong Những ngày
thơ ấu, cái đoạn nói về tiếng kèn. Đã bao năm qua rồi mà tôi vẫn không thể quên
được cái tiếng kèn náo nức, dồn dập, rung vang đó” [21, tr. 2]. Và khi đánh giá về
ngòi bút Nguyên Hồng trong Những ngày thơ ấu, Phan Cự Đệ đã đặc biệt chú ý
đến văn phong, yếu tố làm nên nét đặc trưng của ngòi bút Nguyên Hồng trong
Những ngày thơ ấu, đó là lối miêu tả không những tinh tế mà còn có khả năng làm
thức dậy mọi giác quan của người đọc. “Trong tập tiểu thuyết - tự truyện rất xúc
động này, Nguyên Hồng đã lắng nghe được những âm vang sâu lắng của tâm hồn,
ghi nhận được những cảm giác tinh tế tự bên trong, miêu tả một thiên nhiên đầy
thanh sắc và tất cả đều được thể hiện qua màu sắc chủ quan của cái tôi trữ tình hồn
nhiên, trong sáng…” [21, tr. 2].
Nhà phê bình Nguyễn Ngọc Thiện lại có một cách nhìn nhận khác. Ông
cho rằng Những ngày thơ ấu là một cuốn “Hồi kí tự truyện” đặc sắc. Ông viết:
“Nếu như trong văn học thế giới, người ta ghi nhận J.J.Rutxô với Những lời bộc
bạch mở đầu cho thể tài tự truyện, thì trong văn học Việt Nam hiện đại, phải
chăng chúng ta cần ghi nhận Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu đã mở đầu
cho thể tài hồi ký - tự truyện”. Về phần định danh Những ngày thơ ấu là cuốn
“hồi kí tự truyện” của Nguyễn Ngọc Thiện cần phải bàn luận thêm. Tuy nhiên,
bài viết đã chạm đến phần cốt lõi, phần làm nên sức sống vững bền của Những
ngày thơ ấu trong lòng độc giả chính là: “Giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong
tư tưởng và bút pháp nghệ thuật của tác phẩm đã khiến tác phẩm tồn tại bền
vững qua thử thách của thời gian” [132].
Tiểu thuyết Dã tràng của Thiết Can tuy không tạo nên “làn sóng” bất ngờ
trong đời sống văn học đương thời, nhưng nó cũng được Vũ Ngọc Phan lưu tâm
đến. Theo như Vũ Ngọc Phan, trong Dã tràng, “Thiết Can cũng cho ta biết cái phần
11



×