Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CHO TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.18 KB, 95 trang )

ĐAI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA: CÔNG TÁC XÃ HỘI

CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2015

Tên công trình:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CHO TRẺ EM CÓ
HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT

Sinh viên thực hiện:
Chủ nhiệm: Nguyễn Thùy Linh, Lớp K06, Khóa 2012- 2016
Thành viên: Lê Thị Nga (1256150053), Lớp K06, Khóa 2012- 2016
Lê Thị Nga (1256150054), Lớp K06, Khóa 2012- 2016
Người hướng dẫn: Thạc sĩ Tạ Thị Thanh Thủy, Giảng viên, Giáo vụ Khoa Công tác
xã hội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn


MỤC LỤC
Mở đầu............................................................................................................................................1
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................................................................1
1.1 Tình hình thế giới....................................................................................................................1
1.2 Tình hình trong nước..............................................................................................................2
2. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................................4
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................................5
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu..................................................................................6
5. Giả thiết nghiên cứu.....................................................................................................................7
6. Ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn................................................................................................8
7. Phương pháp................................................................................................................................9
8. Kết cấu bài nghiên cứu..............................................................................................................10


Chương 1: Thực trạng dạy và học tại lớp học tình thương Bà Mười.....................................11
1.1 Thực trạng dạy học...................................................................................................................11
1.2 Thực trạng học của học sinh....................................................................................................15
1.3 Nhận định của quản lý trường.................................................................................................21
Chương 2: Thực trạng dạy và học tại lớp học tình thương ấp Tân Lập................................24
2.1 Thực trạng dạy học..................................................................................................................24
2.2 Thực trạng học của học sinh....................................................................................................27
2.3 Nhận định của quản lý trường.................................................................................................29
Chương 3: Đánh giá về quá trình dạy và học..............................................................................32
3.1 Cơ sở khoa học trong việc đánh giá quá trình dạy và học có hiệu quả....................................32
3.2 Nguyên nhân của việc dạy và học không hiệu quả..................................................................35
Kết luận và kiến nghị...................................................................................................................42

1. Kết luận.....................................................................................................................................42
2. Kiến nghị...................................................................................................................................44
2.1 Đối với giáo viên và tình nguyện viên..................................................................................44
2.2 Đối với học sinh....................................................................................................................48
2.3 Đối với phụ huynh học sinh..................................................................................................49
Các biên bản phỏng vấn sâu.......................................................................................................52
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................................92


MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
1.1 Tình hình thế giới:
Cuộc sống càng phát triển thì con người có nhu cầu sống ngày càng cao hơn.
Trong đó nhu cầu học tập là yếu tố quan trọng cho đời sống và hoạt động của con người
tiến tới sự văn minh và hiện đại hơn.
Tác giả Daniel Fung- Li Zhong Yinh trong cuốn “Khi trẻ đối mặt với những khó
khăn trong học tập”


[3]

- NXB Tri Thức (2009) đã đưa ra những vấn đề từ tổng quan đến

chuyên sâu, từ những khái niệm cơ bản như học tập là gì? Bộ não có giúp ích gì cho trẻ
trong quá trình học tập? các nhân tố nào ảnh hưởng tới quá trình học tập của trẻ?...đến
những đặc cụ thể của những trẻ có khó khăn trong học tập như không có khả năng học
tập, rối loạn học tập,vv…Đồng thời giúp phụ huynh có những hiểu biết nhất định nhằm
đánh giá đúng khả năng của con em mình, từ đó tạo cho trẻ điều kiện học tập, sinh hoạt
phù hợp, tránh tạo sức ép những căng thẳng không cần thiết, có những định hướng trong
tương lai phù hợp với khả năng của con em mình. Mặt khác, trong cuốn sách này, tác giả
cũng đưa ra những giải pháp giúp giáo viên có cơ sở định hướng, đánh giá sơ bộ về đối
tượng học sinh, từ đó có chương trình học tập phù hợp nhất cho những em gặp phải
những khó khăn trong học tập.Về phía các thầy cô giáo, những thông tin trong cuốn sách
này cũng có thể giúp các thầy cô có cơ sở định hướng, đánh giá sơ bộ về đối tượng học
sinh, từ đó có chương trình học tập phù hợp nhất cho những đối tượng này.

1


1.2 Tình hình trong nước:
Theo tài liệu “ Báo cáo tình trạng trẻ em nghèo đa chiều tại Việt Nam” đã đưa ra
những nội dung quan trọng như sau: Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong việc thực hiện mục tiêu phát triển thiên nhiên kỉ về xóa bỏ tình trạng nghèo đói
cùng cực. Mức sống dân cư đang ngày một nâng cao và nghèo đói có xu hướng giảm dần.
Tuy nhiên mức sống tăng và nghèo đói giảm không đồng đều giữa các vùng trong cả
nước.
Tỷ lệ trẻ em nghèo đa chiều có sự khác biệt giữa khu vực nông thôn và thành thị,
các vùng, các nhóm dân tộc và nhóm tuổi. Trong tổng số khoảng 6,34 triệu trẻ em thì có

tới 5,67 trẻ em sống ở khu vực nông thôn, 2,17 triệu trẻ em sống ở khu vực Đồng Bằng
Sông Cửu Long, 2,26 triệu trẻ em dân tộc thiểu số, và trên 0,75 trẻ em ở độ tuổi 15. Mặc
dù trẻ em sống trong các hộ gia đình có chỉ tiêu bình quân cao ít có nguy cơ rơi vào
nghèo đa chiều vẫn còn 6,5% trẻ em sống trong các hộ gia đình giàu rơi vào nghèo đa
chiều. Những nguyên nhân dẫn đến trẻ em nghèo đa chiều là do y tế, nước sạch và vệ
sinh, nhà ở và giáo dục, khiến trẻ em sống trong tình trạng thiếu thốn.
Nội dung của tài liệu cung cấp những kiến thức về tình trạng trẻ em nghèo ở Việt
Nam, và những yếu tố quan trọng dẫn đến tình trạng đó, giúp hiểu rõ hơn về vấn đề
nghèo đói của trẻ em để áp dụng vào đề tài nghiên cứu.
Giáo dục là một vấn đề quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước. chính vì vậy nó trở thành một đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu
và đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này:
Đề tài: “Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh trường Phổ thông
dân tộc nội trú tỉnh Cao Bằng”. Đề tài đã khảo sát và phân tích định lượng để tìm hiểu
những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh dân tộc thiểu số khi theo học
tại trường. đề tài cũng đã phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tác động đến kết quả học
tập của học sinh và đưa ra các giải pháp nâng cao kết quả học tập. Đề tài có sử dụng các
mô hình ứng dụng của Bratti và Staffolani…
Đề tài: “Những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh trường THPT
Marie curie” quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của đề tài là tìm hiểu động cơ
học tập, những yếu tố ảnh hưởng đến động cơ học tập và đề ra một số biện pháp nhằm
hình thành động cơ học tập của các em học sinh. Đề tài có sử dụng một số quan điểm phi
2


Mác-xít về động cơ, một số quan điểm tâm lí học Mác-xít và các thuyết về động cơ…
Nghiên cứu của tác giả Huỳnh Quang Minh (2010) “Các yếu tố tác động đến kết quả học
tập của sinh viên chính quy trường Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh”. Đề tài đề
cập đến các vấn đề về nhà ở, kinh tế gia đình của sinh viên, việc đi làm thêm của sinh
viên, các hình thức học nhóm, tự học và thời gian học trên lớp của sinh viên.

Những đề tài nghiên cứu trên thể hiện tình hình giáo dục của các trường học ở Việt Nam
và tìm ra những ưu điểm cũng như nhược điểm trong vấn đề dạy và học. Để áp dụng có
hiệu quả vào trong đề tài nghiên cứu về phương pháp dạy và học cho trẻ.
Từ những thông tin, tài liệu trên đã cung cấp những kiến thức quan trọng, giúp cho đề tài
nghiên cứu có cơ sở lí luận để áp dụng vào đề tài nghiên cứu có hiệu quả tốt hơn.

3


2. Lí do chọn đề tài:
Từ lâu hệ thống trường học đã phát triển khá mạnh để đáp ứng nhu cầu học tập của
học sinh. Nhưng ít ai lại quan tâm tới số lượng các em nhỏ không có điều kiện đi học. Đó
có thể là những trẻ em nghèo, những trẻ em đường phố và cả trẻ em mồ côi… Các em
sống và luôn mong muốn sẽ có được cơ hội tới trường học, để biết được cái chữ, để có
bạn bè như bao đứa trẻ khác. Nhưng cuộc sống mưu sinh lại cướp đi của các em cái
quyền được đến trường, để rồi đẩy các em vào cái bộn bề của cuộc sống bon chen của đất
thị thành. Đối với các em dù chỉ là được bập bẹ con chữ cũng là niềm vui lớn. Hiểu được
điều đó, một số bộ phận những người có tấm lòng đã tự đứng ra mở các lớp học tình
thương với sứ mạng là mang con chữ tới cho các em nhỏ, để các em có thể hiểu được cái
tên mình, biết đọc sách vở và hiểu hơn đạo làm người.
Ở địa chỉ đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận Tây, Quận 7, thành phố Hồ
Chí Minh và Đông Hòa, Dĩ An, Bình Dương đã có các lớp học tình thương như vậy ra
đời như để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh có được ánh sáng cuộc đời. Trường học với
tên gọi rất đỗi thân thương gần gũi "Trường tình thương Bà Mười" do bà Mười thành lập,
“Lớp học tình thương ấp Tân Lập” do ông Tư Phê thành lập. Ông bà là những người đã
đứng ra lo cho những đứa trẻ nghèo từ mấy chục năm về trước, đều muốn đem con chữ
tới với những đứa nhỏ thiếu thốn, đem tình yêu thương cùng với những những điều răn
dạy của một con người có đạo đức. Tuy nhiên, lớp học tình thương là một hình thức tổ
chức học tập khá mới nên ít được nhiều người quan tâm. Dù họ có biết tới lớp học này thì
sự giúp đỡ của họ cũng là tạm thời chứ không lâu dài. Đặc biệt là lực lượng giảng dạy tại

trường không có một sự thống nhất và xuyên suốt có thể đến với các em rồi đi trong chốc
lát, làm cho việc học tập và dạy gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì thế trong một khoảng
thời gian ngắn được thực tập tại trường tình thương Bà Mười và khảo sát thực tế tại Lớp
học tình thương ấp Tân Lập, nhóm thực hiện đề tài đã hiểu hơn được những khó khăn cả
trong việc dạy và học. Nhưng lớp học vẫn cố gắng duy trì để có thể giúp đỡ những em
nhỏ. Chính vì thế đề tài này được tiến hành nghiên cứu để có thể tìm hiểu rõ hơn tình
trạng dạy và học tại trường, từ đó có thể đưa ra một số biện pháp giúp đỡ để nâng cao
thêm chất lượng của việc dạy và học.

4


3. Mục tiêu và nhiêm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục tiêu khái quát:
Tìm hiểu về thực trạng của việc dạy và học tại các lớp học tình thương.
3.2.Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu quá trình dạy và học cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
- Những yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến chất lượng dạy và học cho các em
- Nhu cầu và động cơ học tập của các em
- Đề xuất mô hình, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học cho trẻ có hoàn cảnh
đặc biệt.

5


4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu:
4.1 Đối tượng:
Thực trạng dạy và học của trường tình thương Bà Mười, lớp học tình thương ấp Tân Lập
4.2 Khách thể:
- Nghiên cứu chính: Việc dạy học của thầy cô tại lớp học tình thương và việc học tập của

các em nhỏ.
- Nghiên cứu phụ: Phụ huynh học sinh, những người sống quanh trường.
4.3 Phạm vi nghiên cứu:
- Trường tình thương Bà Mười, địa chỉ Huỳnh Tấn Phát, Phường Tân Thuận Tây,Q7.TP
Hồ Chí Minh.
- Lớp học tình thương ấp Tân Lập.

6


5. Giả thiết nghiên cứu:

- Trường tình thương Bà Mười và Lớp học tình thương ấp Tân Lập hiện đang thiếu
đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn.
- Số lượng học sinh của của hai trường đang giảm nghiêm trọng.
- Phương pháp dạy và học của cả hai trường chưa có hiệu quả và cần có giải pháp
khắc phục.

7


6.Ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn:
6.1 Ý nghĩa lý luận:
Cung cấp lý luận về vấn đề giáo dục tại các lớp học tình thương trong đó có việc dạy và
học.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn:
- Giúp cộng đồng có cái nhìn sâu sắc hơn về phương pháp dạy và học đối với các trường
tình thương
- Đề tài cũng là tài liệu tham khảo cho các cá nhân, ban ngành có nhu cầu quan tâm đến
đề tài này...


8


7. Phương pháp:
7.1 Phương pháp luận:
Dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về di vật biện chứng: con người có
những nhu cầu cơ bản cần được đáp ứng trong đó có nhu cầu học tập.
7.2 Các phương pháp nghiên cứu và kĩ thuật điều tra:
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính: công cụ phỏng vấn sâu gồm:
+ Tại trường tình thương Bà Mười: 12 cuộc trong đó 7 cuộc cho trẻ, 2 cuộc cho
giáo viên trẻ, 2 cuộc cho học sinh và 1 cuộc cho người quản lý.
+ Tại lớp học tình thương ấp Tân Lập: 9 cuộc, trong đó 6 cuộc cho trẻ, 2 cuộc cho
sinh viên đang thực tập tại lớp học, 1 cuộc cho người quản lý trường.
- Ngoài ra, đề tài còn kết hợp nghiên cứu tư liệu sẵn có và quan sát.

9


8. Kết cấu bài nghiên cứu:
Mở đầu
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1 Tình hình thế giới
1.2 Tình hình trong nước
2.Lý do chọn đề tài
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5. Giả thiết nghiên cứu
6. Ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn
7. Phương pháp

8. Kết cấu bài nghiên cứu
Chương 1: Thực trạng dạy và học tại lớp học tình thương Bà Mười
1.1 Thực trạng dạy học
1.2 Thực trạng học của học sinh
1.3 Nhận định của quản lý trường
Chương 2: Thực trạng dạy và học tại lớp học tình thương ấp Tân Lập
2.1 Thực trạng dạy học
2.2 Thực trạng học của học sinh
2.3 Nhận định của quản lý trường
Chương 3: Đánh giá về quá trình dạy và học
3.1 Cơ sở khoa học trong việc đánh giá quá trình dạy và học có hiệu quả
3.2 Nguyên nhân của việc dạy và học không hiệu quả
Kết luận và kiến nghị
9. Kết luận
10. Kiến nghị
2.1 Đối với giáo viên và tình nguyện viên
2.2 Đối với học sinh
2.3 Đối với phụ huynh học sinh
Các biên bản phỏng vấn sâu
Tài liệu tham khảo
10


Chương 1:
Thực trạng dạy và học tại lớp học tình thương Bà Mười:
1.1 Thực trạng dạy học:
Lớp học được thành lập từ năm 1999 cho tới nay đã được 15 năm hoạt động,
nhưng đội ngũ giáo viên còn thiếu. Hầu như chỉ có khoảng một đến hai giáo viên đứng
lớp dạy các em, số còn lại đều dựa vào lực lượng tình nguyện viên của các trường Đại
học- Cao đẳng ở gần đó tới dạy.

Các thầy cô ở lớp học Bà Mười hầu như là những thầy cô đều đã đi dạy lâu năm,
có kinh nghiệm trong việc dạy học. Thầy cô đến với các em bằng tình yêu thương và sự
cảm thông cho hoàn cảnh của các em nên luôn cố gắng để có thể giúp đỡ được các em hết
sức có thể. Cô N.- chủ nhiệm lớp 2 và lớp 3 nói: “Cô thương những đứa trẻ ở đây vì
chúng không có đủ điều kiện và cuộc sống sung sướng như những đứa trẻ khác, chưa lễ
phép trong cách ăn nói, vì vậy cô muốn dạy để thay đổi cuộc sống tâm hồn của các em,
để có thể giúp các em, gia đình và xã hội. Cô còn sức khỏe thì cô còn dạy trong những
ngôi trường như thế này để giúp đỡ các em. Dù điều kiện dạy học khó khăn, lương thấp
nhưng cô luôn nghĩ mình không thể giúp các em về vấn đề tiền bạc thì có thể truyền đạt
kiến thức để giúp các em.” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 10). Trải qua nhiều trường học,
cuối cùng cô vẫn quay trở về với ngôi trường này bởi cô biết nơi đây các em đang rất cần
có những người dạy dỗ. Cô muốn dùng cái tâm của nghề dạy học để dìu dắt các em, đưa
các em tới với những con chữ, những kiến thức. Không những thế cô còn muốn dạy cho
các em những bài học làm người, sống là một con người có đạo đức và có thể giúp ích
cho xã hội. Cô nói: “Có chứ (cô cười tươi). Có em tính như du đãng nhưng bản thân cô
lại muốn thay đổi các em, cô muốn dạy các em không chỉ dạy cái chữ mà còn dạy cả các
em đạo đức làm người. Cũng có nhiều em học tốt điểm cao làm cho cô vui”. ( Biên bản
phỏng vấn sâu số 10). Cô muốn những điều cô đang làm có thể giúp được điều gì đó cho
các em và cho các em và cho xã hội.
Tuy nhiên bản thân cô là một người của thế hệ trước và việc cô sử dụng các
phương pháp dạy học hiện nay thì không có. Điều này cũng hạn chế rất nhiều việc tiếp
thu bài học của các em. Cô nói với chúng tôi: “Nói tới phương pháp dạy học thì cô không
có phương pháp gì cả, cô chỉ dùng tình cảm để truyền đạt kiến thức cho các em thôi. Các
em là những trường hợp khá đặc biệt, không được học nhiều môn học và kiến thức có
11


được cũng không nhiều nên cũng khó áp dụng phương pháp dạy chính quy. Cô thì chỉ
biết nắm bắt hoàn cảnh của từng em để có thể giúp đỡ các em ham học, để có thể khi
cứng khi mềm mà dạy các em” (Biên bản phỏng vấn sâu số 10). Cô không có một

phương pháp dạy chuyên nghiệp mà chỉ soạn bài trong sách giáo khoa, dạy lại cho các
em và yêu cầu các em làm bài tập. Phương pháp mà cô đang áp dụng là truyền thống và
đã được sử dụng rất nhiều năm nay. Đối với những học sinh ở đây, các em có hoàn cảnh
khá đặc biệt và việc các em đi học cũng thế nên nếu không thu hút được các em tới lớp,
có thể các em sẽ bỏ học hoặc ngại đi học. Dù vậy thì cô cũng có một số cách dạy mang
lại hiệu quả khá là tốt: “ Cô chỉ nghĩ bây giờ dạy các em hiểu nếu các em không hiểu thì
cô đưa ra cách dạy khác thôi . Như có những câu hỏi mà các em không hiểu thì có thể
thay đổi hình thức câu hỏi cho các em nhìn vô dễ trả lời hơn.
Khi cô hỏi thì mấy đứa ngại không trả lời sợ sai thì cô hỏi: Các em đọc kỹ bài
đang học, đọc kỹ câu hỏi , mỗi đoạn thì gắn với câu nào sau đó đọc cho cô nghe thử rồi
cô giảng và tự trả lời”.( Biên bản phỏng vấn sâu số 10). Cô áp dụng cách dạy như thế này
có thể cho các em vừa rèn cách làm bài, rèn chữ và điểm cao hơn khi làm bài chính thức
vì không bỡ ngỡ khi gặp phải bài tập. Phần nào các em còn yếu thì cô cho các em làm
chăm chỉ phần đó hơn, vừa học và vừa rèn luyện: “ Các em làm biếng đọc bài thì bắt nó
đọc. Làm văn thì làm ra giấy nháp, đọc cho cô nghe sửa bài sau đó mới chép vào vở. Nếu
dư thời gian thì cô cho làm bài ngày mai vào vở nháp để các em hăng hái khi học bài
mới. Các em mà làm sai thì cô phớt lờ, khi hết giận thì cô giảng giải cho các em hiểu,
những con điểm cao sẽ giúp các em có tinh thần học tập hơn, từ đó các em sẽ cố gắng
phấn đấu để học tập”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 10). Những cách dạy của cô tuy chưa
có khoa học nhưng đang giúp rất nhiều cho các em trong việc học. Cô đang từng ngày
đưa kiến thức đến với các em để các em có thể thực hiện được ước mơ của mình sau này.
Dù điều kiện dạy và học như vậy nhưng cô luôn yêu thương các em, xem đó là động lực
để có thể tiếp tục giúp đỡ các em. Cô tâm sự dù các em có hư hoặc không nghe lời nhưng
đối với cô đó mới là những em cần phải dạy dỗ. Động lực của cô chính là những lúc học
sinh nghe lời, chính là những con điểm 9, điểm 10 mà các em có được. Hy vọng cô sẽ
tiếp tục dùng cái tâm của mình để có thể duy trì việc dạy học mang con chữ và kiến thức
về cho các em.

12



Ở trường tình thương Bà Mười có một sự đóng góp vô cùng lớn của các bạn tình
nguyện viên tới dạy học. Các bạn đã đóng vai trò vô cùng quan trọng với số lượng tình
nguyện viên hiện tại là 26 người, trước kia thì có tới 70 người gồm các trường đại học
như: Nguyễn Tất Thành, Tôn Đức Thắng, Công Nghiệp, Hành Chính Marketing, Tự
Nhiên, Bách Khoa, Huslip, Kiến Trúc, Kinh Tế, Giao Thông Vận Tải…Các bạn đang
dùng sức trẻ của mình để đóng góp cho xã hội, để mang tình yêu thương, kiến thức và cả
đạo đức làm người đến cho các em.
Các bạn biết tới trường tình thương này thông qua việc đọc được thông tin trên
Facebook, xem clip trên Youtube hay do bạn bè giới thiệu, sau đó gặp quản lý và đăng ký
vào dạy học. Tình nguyện viên ở đây tới từ nhiều trường khác nhau các bạn cũng học từ
nhiều ngành khác nhau. Chỉ có một số ít trong các bạn là đi dạy đúng chuyên ngành của
mình đó là giáo viên. Vì thế việc giảng dạy đối với các bạn cũng không theo một phương
pháp khoa học nào mà nó chỉ xuất phát từ tình thương đối với các em.
Như chị H- một tình nguyện viên đã dạy ở trường tình thương được 10 tháng, chị
nói ban đầu cũng chỉ là tới dạy với các em, không ngờ sau đó lại có thể ở lâu và gắn bó
với các em đến như vậy. Khi được hỏi phương pháp mà chị đang áp dụng để dạy các em
là gì thì chị chỉ cười và nói: “Mình coi trong giáo án, tìm trên mạng, người ta hướng dẫn
sao thì mình làm vậy (cười). Và hầu như thì mình đưa bài tập luôn, khi nào có lý thuyết
mà nó cần thiết thì mình dạy lý thuyết trước. Mà nói lý thuyết thì các em nó không có
hiểu đâu, khi mình đưa vào bài tập thì các em mới hiểu được”. (Biên bản phỏng vấn sâu
số 11). Bản thân chị cũng không phải là một giáo viên, chị chỉ áp dụng những kiến thức
mà mình biết, học hỏi thêm trong sách vở và internet để giảng dạy các em. Thực sự chị
cũng không biết phương pháp dạy học của mình có đúng hay không, chị chỉ biết các em
có thể tiếp thu được những gì mà chị đang dạy. Nhưng chị cũng khá sáng tạo khi thay đổi
cách dạy liên tục để các em có thể tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả nhất. Chị được
phân công dạy lớp 1 nên công việc khá là khó khăn, các em thuộc đủ mọi lứa tuổi, mỗi
em một hoàn cảnh nên chị phải cố gắng để các em ai cũng có thể học được. Chị nói: “Tùy
đứa nhanh chậm à bạn. Lớp 1 có nhiều độ tuổi khác nhau, với lại có đứa nó học một lớp
mấy năm rồi, nên nói là hiểu liền, còn có đứa thì coi như không học mẫu giáo luôn, nên

13


không thể hiểu những gì mình nói được, phải dạy nhiều lần mới được”.( Biên bản phỏng
vấn sâu số 11). Chị đã dựa vào trường hợp từng em để có thể truyền đạt kiến thức cho các
em, để dù là những em học tập thời gian lâu hay mới vào học cũng có thể theo kịp được.
Lúc đầu mới tới dạy thì chị đã sử dụng cách dạy là cho các em làm bài tập mà không
giảng, cách này đã không mang lại hiệu quả cao, các em làm bài tập rất kém, không thể
tiếp thu được kiến thức. Chị nói: “ Hồi trước mình đưa tập cho mấy đứa làm luôn, không
có giảng gì hết. Thấy mấy em nó không hiểu nên mình mới chuyển qua giảng, dạy như
vậy cho đến bây giờ luôn”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 11). Chị đã chuyển từ việc không
giảng dạy tới việc giảng dạy và điều đó mang lại hiệu quả khá tốt. Các em đã chăm chú
và cố gắng học tập hơn. Cũng như những tình nguyện viên khác, chị tới với lớp học bằng
tình thương dành cho các em. Những khó khăn có thể làm cho chị cảm thấy nản nhưng
chị đã cố gắng để có thể tìm ra nguồn cảm hứng cho mình: “(gãi đầu, cười) Mình tự tạo
cảm hứng cho mình thôi (cười). Các em lười, đôi khi mình nản nên phải tự tạo cảm hứng
thôi, chứ nghỉ thì đâu có ai dạy nữa đâu bạn. Thật sự thì mình không thích con nít, không
biết chơi với nó thế nào cả, nên chỉ có la hét cho mấy đứa nó sợ thôi. Bây giờ hiền rồi đó
bạn, chứ hồi trước không đứa nào chịu nghe lời đâu, làm dữ nó mới sợ”. ( Biên bản
phỏng vấn sâu số 11). Đó là những lời tâm sự rất thật của chị khi chia sẻ với chúng tôi,
chị đã dùng cách dạy như ông bà ta đã dạy “ Thương cho roi cho vọt”. Nhưng điều đó đã
làm cho tụi nhỏ chịu học và càng gần gũi với chị hơn. Đến với lớp học tình thương là thế
nhưng các tình nguyện viên cũng không thực sự hoạt động lâu được với các em, hầu như
được một thời gian đầu, khi các bạn bận công việc hoặc không muốn tiếp tục việc dạy
học nữa thì lại rời đi. Lúc đó lớp học sẽ bị rơi vào tình trạng khá là bất ổn khi các em sẽ
phải học với những người mới, với những cách dạy và phương pháp mới. Chị nói có ý
định không dạy ở trường tình thương này nữa: “Mình có ý định là khi nào đủ người thì
mình đi. Tại vì là có người thì mình truyền lại rồi mới đi được, mình để cho người ta dạy,
mình chỉ truyền đạt lại kinh nghiệm, hay khi người ta cần mình giúp gì thì mình giúp cho
họ”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 11). Đội ngũ tình nguyện viên tới trường là rất lớn

nhưng số lượng thật sự gắn bó lại không nhiều vì thế lớp học gặp rất nhiều khó khăn khi
vừa thiếu nhân sự lại vừa thiếu những người có chuyên môn và tác phong của ngành sư
phạm.

14


1.2 Thực trạng học của học sinh:
Lớp 1 hiện tại có 11 em tham gia học tập, các em có rất nhiều hoàn cảnh khác
nhau và cũng có nhiều độ tuổi khác nhau. Hầu như tuổi của các em lớn hơn so với lứa
tuổi đáng ra đang theo học lớp 1. Các em tới lớp theo học bắt đầu học viết và bập bẹ
những chữ cái, viết những câu chính tả.
Lý do khiến cho các em muốn đi học chỉ đơn giản là có bạn bè, nhưng đó cũng là
động lực để các em tới trường: “ Dạ có! Vì đi học được gặp nhiều bạn, có bạn chơi nữa
đơn giản”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 1). Đến với lớp học các em biết được nhiều thứ
mới,được học kiến thức, được thầy cô quan tâm dạy dỗ: “ Dạ…thầy cô dạy rất vui, khi
nào em hỏi gì là thầy cô lại chỉ cho em luôn”.( Biên bản phỏng vấn sâu số 1). Dù các em
chỉ học bằng những phương pháp đơn giản nhưng các em lại cảm thấy đó là niềm vui và
là động lực để tiếp tục đi học. Nhưng các em khá lười trong việc học và làm bài, hầu như
cách học của các em là nghe lời thầy cô giảng sau đó làm bài tập theo yêu cầu. N.H (học
sinh lớp 1) nói: “Ở trên lớp thầy cô cho bài tập rồi hướng dẫn cho em làm bài. Về nhà em
không có học”. (Biên bản phỏng vấn số 1). Cách học trên lớp của các em lớp 1 khá là thụ
động khi luôn dựa vào thầy cô giáo, còn về nhà gia đình các em lại ít quan tâm muốn
giao phó trách nhiệm cho nhà trường. Chính những việc như vậy đã làm cho các em lười
học hơn. Và không những thế thầy cô ở trường còn ít khi ra bài tập cho các em: “ Thế
thầy cô có cho bài tập về nhà để em làm không?" NĐPV: Dạ lâu lâu cũng có cô”. ( Biên
bản phỏng vấn sâu số 1). Làm cho các em không có tâm lý học tập chuẩn bị bài và học
bài trước khi tới lớp. Và việc các em đi học không đầy đủ cũng làm cho việc học của các
em có kết quả không cao: “Em nghỉ học hoài, vì em bị bệnh, nhiều hôm tại không có ai
đưa em đi học thì em nghỉ”. (Biên bản phỏng vấn sâu số 1). Việc các em nghỉ học nhiều

cũng làm cho việc tiếp thu kiến thức có nhiều hạn chế, các em không thể theo kịp bài vở
với các bạn khác trong lớp. Sẽ gây cho các em cảm giác chán nản và vào lớp thì khó có
thể học tập tốt được. Nên các em khi đi học chăm chỉ và cố gắng lắng nghe trong lớp thì
kết quả học tập của các em sẽ khá hơn. Nhưng khi được hỏi các em có muốn hoc lên lớp
15


hay không thì hầu như đều muốn học lên lớp cao hơn : “Có ạ! Em muốn được lên lớp 2,
vì em thích học lớp cao hơn, biết được nhiều điều hơn”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 1).
Đối với lớp 1 các em đang còn khá nhỏ những suy nghĩ cũng khá đơn giản chỉ biết việc
đi học thì vui có bạn bè được tới trường lớp. Nên bản thân các thầy cô cũng nên chú ý tới
việc dạy làm sao để tạo ra niềm vui cho các em có thể đến lớp một cách chăm chỉ hơn.
Đối với lớp 2 thì hiện tại các em có 3 em là đi học chuyên cần, số lại có hôm đi
hôm nghỉ nên việc quản lý các em trong việc học cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là việc
nâng cao chất lượng giảng dạy. Khi được hỏi về về việc em có muốn đi học không thì hầu
như các em được phỏng vấn đều trả lời là có: “ Đi học em được quen nhiều bạn mới, biết
được thêm nhiều điều. Em có ước mơ làm bác sĩ đi học để sau này có tương lai." (Biên
bản phỏng vấn sâu số 2). Đối với các em việc đi học dần quan trọng hơn khi xem đó vừa
là niềm vui và cũng là điểm xuất phát đầu tiên để các em đến được với ước mơ của mình.
Còn Sang (học sinh lớp 2) thì lại trả lời câu hỏi một cách khá thực tế và chi tiết: “Có cô
ơi, đi học vui lắm, em biết thêm được nhiều bạn mới, em biết viết chữ và làm toán nữa.
Em còn được học bài hát nữa đó cô”. (Biên bản phỏng vấn sâu số 3). Đó đều là những
động lực để các em tới lớp, để có thêm niềm vui bù đắp vào những gì mà các em phải
chịu thiệt thòi. Khi chúng tôi hỏi về phương pháp giảng dạy của thầy cô thì các em đều
trả lời: “Cô dạy rất hay, dễ hiểu, không bao giờ đánh em cả”. (Biên bản phỏng vấn sâu số
2).Các em không thể trả lời chi tiết về cách dạy của thầy cô nhưng luôn nói đến sự quan
tâm, giúp đỡ tận tình của thầy cô, đó có lẽ là phương pháp mà thầy cô đang áp dụng để
dạy cho các em có hoàn cảnh đặc biệt như thế này. Em S. (lớp 2) cũng nói: “Cô giảng dễ
hiểu lắm, vì cô giảng từ từ xong đoạn nào không hiểu thì em hỏi cô cũng giảng lại cho
em nữa”. (Biên bản phỏng vấn sâu số 3). Cách dạy của cô chậm rãi làm cho các em có

thể nắm được kiến thức, dùng tình cảm để dạy dỗ các em. Cô luôn ân cần dạy dỗ điều đó
sẽ làm cho các em có chăm chỉ và cô gắng học tập hơn. Bản thân các em ai cũng muốn
mình được lên lớp cao hơn để tiếp tục việc học. Em N (học sinh lớp 2) cũng trả lời: “Em
muốn học lên lớp cao, vì sau này có tương lai. Em muốn học tới đại học để sau này làm
bác sĩ”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 2). Còn S thì lại nói: “( cười) Có cô ạ, em nghĩ nếu
học ở lớp cao hơn thì em có thể biết thêm nhiều thứ mới, em sẽ được ra trường lớn hơn
để học”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 3). Đó có thể là những lý do khiến các em đi học và
cố gắng để có thể lên lớp, ước mơ học để làm bác sĩ như N và cũng có ước mơ thật đơn
16


giản như S- tất cả đang làm cho các em tốt hơn và cố gắng học tập hơn. Nhưng đôi lúc
cách dạy của các cô lại mang lại hiệu quả không cao, hầu như chỉ là giảng dạy và thực
hành trên lớp còn về nhà thì ít khi quan tâm. Hỏi về vấn đề ra bài tập đối với các em thì
có em nói là có, có em lại nói là thỉnh thoảng thôi. Như thế sẽ làm cho các em lười học và
không hề chú ý tới bài vở khi thời gian nghỉ học nhiều: NĐPV “ Cô không thường xuyên
ra bài tập về cho em. Có hôm cô ra thì chỉ có mấy bài thôi ạ." NPV: Em thấy cô ra bài có
khó không, em có làm được không?" NĐPV: "Bài tập cô ra dễ, em có thể tự làm mà
không cần sự giúp đỡ của ai đâu ạ. Có hôm em được điểm 10 nữa cơ”.( Biên bản phỏng
vấn sâu số 2). Và mức độ cô ra bài cũng không phải là khó đối với các em, đó cũng là
một điều tốt cho các em cố gắng khi tự học ở nhà. Em S cũng nói về việc cô ra bài tập về
nhà: “ Thỉnh thoảng cô mới ra thôi ạ, không thường lắm." NPV: "Bài tập cô ra có dễ
không và em có thể làm được chứ?". NĐPV: "Dạ cũng không khó lắm, em cũng có thể
tự làm được nhưng có lúc điểm cao có lúc điểm lại thấp”. ( Biên bản phỏng vấn sâu số 3).
Đối với các em việc tự học ở nhà nếu không có người kèm cặp thì rất khó cho việc tự
học. Hầu như khi ở nhà các em không tập trung vào việc học hoặc không dành thời gian
cho việc học bài. N nói: “Ở trên lớp thì em nghe cô giáo giảng và em làm bài tập. Còn
khi về nhà thì em học từ 5h tới 6h, em tự học một mình và ngày nào cũng vậy”. ( Biên
bản phỏng vấn sâu số 2). Còn đối với S: “Ở trên lớp thì em nghe cô giảng sau đó làm bài
tập, chỗ nào không hiểu thì em lên hỏi cô. Còn khi về nhà em ít học lắm, tại em ngại làm

bài khi không có người giảng bài, các anh chị và bố mẹ em đi làm hết”. ( Biên bản phỏng
vấn số 3). Các em hầu như không chú trọng cho việc học ở nhà nên kết quả học tập
không cao. Các em chỉ có thời gian học tập trong trường mà thôi. Hình thức mà các em
đang học không hiệu quả cho lắm.
Còn đối với các em lớp 3 thì việc học cũng bị rập khuôn do các em cũng học
chung với một cô giáo lớp 2. Hiện tại lớp học chỉ có khoảng 5 em nhưng các em đi học
không thường xuyên, hôm đi hôm nghỉ nên kết quả học tập thường không cao. Chúng tôi
đã phỏng vấn một em học khá tốt ở lớp 3 đó là N.Y thì được biết em chịu khó học tập và
có dành thời gian. Em nói: “Bài tập dễ phù hợp với khả năng của em ạ, em muốn làm bài
tập về nhà thường xuyên để nhớ được kiến thức mà cô dạy cho việc học”. ( Biên bản
phỏng vấn sâu số 5). Em đã chịu khó dành thời gian cho việc học và làm bài tập để có thể
áp dụng những kiến thức mà cô đã dạy trên lớp: “Ở trên lớp thì em siêng nghe cô giáo
17


giảng sau đó làm bài tập nếu không hiểu thì em lên hỏi cô. Còn ở nhà thì em học 2 đến 3
tiếng ạ, em đọc bài và làm bài tập. Em thường học từ 5h tới 7h, lúc mà em mới đi học về
đó cô”. Em đã có một phương pháp tốt cho việc học điều đó đã mang lại cho em một kết
quả tốt để em có thể tiến tới ước mơ sau này của mình là có thể làm ca sĩ hoặc là họa sĩ.
Cùng với đó là sự chăm chỉ cần cù và lòng ham học đã cho em thêm nghị lực để cố gắng
học tập: “Em không nghỉ học bao giờ đâu ạ. Vì em rất thích đi học, đi học có các bạn và
em còn được học bao nhiêu là bài hay nữa” (Biên bản phỏng vấn sâu số 5). Chính nhờ
cách học như vậy đã đem lại cho em những con điểm cao và những món quà khuyến học
từ thầy cô.
Nhưng cũng cùng một cách dạy của cô, các bạn khác trong lớp lại không có được kết quả
học tập cao như vậy bởi chưa có một phương pháp học tập đúng. K (học sinh lớp 3) có
kết quả học tập không cao , thời gian mà em dành cho việc học tập ở nhà hầu như không
có, chỉ là có hứng thú thì em học, không thì thôi: “ Ở lớp thì em chỉ có nghe cô giáo
giảng rồi làm bài thôi. Về nhà em không học, em dạy em của em học thôi. Rãnh lắm thì
em mới làm bài tập thôi, em sợ làm sai cha la hay không đọc được bài” ( Biên bản phỏng

vấn sâu số 4). Thời gian em dành cho việc học là không có, bản thân em không có sự chủ
động trong việc học. Không những thế thời gian mà em tham gia các buổi học trên lớp
còn thất thường: “Có khi thì em bị bệnh, có khi em có việc bận, có khi em đi chơi game”
( Biên bản phỏng vấn sâu số 4). Điều đó cũng làm cho em bị hạn chế rất nhiều trong việc
tiếp thu kiến thức mới mà cô đang giảng dạy, em sẽ bị hổng kiến thức khi cô giảng bài
mới cho các em. Vì thế khi cô ra bài tập về nhà thì em rất khó có thể làm tốt: “Bài tập rất
dễ và em có thể làm được.( Cười) Nhưng điểm thì hên xui lắm cô, vì làm bài tập ở nhà
không có người giảng” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 4). Các em đã hoàn toàn bị thụ động
bởi cách học đó, khi luôn dựa dẫm vào thầy cô.
Nhưng trong bản thân các em vẫn luôn có những ước mơ để thúc đẩy cho việc học tập
được tốt hơn, K thì có ước mơ: “Muốn chứ, vì em muốn lên lớp nuôi gia đình. Học lớp
lớn để em đi làm ca sĩ. Em muốn học từ lớp 1 tới lớp 13 luôn” ( Biên bản phỏng vấn sâu
số 4), còn của N.Y thì: “ Có (suy nghĩ một hồi) vì để sau này em còn thực hiện được ước
mơ của mình” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 5). Đó cũng là nguồn động lực giúp các em
phấn đấu học tập thật tốt.
Lớp 4 là khối là khối lớp cao nhất ở trường tình thương Bà Mười nhưng số lượng
18


cũng chỉ có 4 em. Hầu như các em luôn phải vùa học vừa giúp đỡ gia đình nên không thể
tập trung hết tâm trí vào việc học được. Điều đó cũng hạn chế rất nhiều tới kết quả học
tập của các em. Các em hầu như đều học theo phương pháp của thầy cô đó là nghe giảng
dạy trên lớp và làm bài tập. Khi chúng tôi hỏi các em về việc học tập trên lớp và ở nhà thì
lần lượt các em trả lời: “Có bài về nhà thì em làm. Khi nào thi thì em học, còn bao nhiêu
hổng (học)” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 6). “Ở trường em nghe thầy cô giảng bài, thầy
cô cho bài tập thì em làm, về nhà có bài tập thì em làm, tranh thủ lúc rãnh thì em đọc bài
trong sách, tại em đi bán buổi sáng nên cũng không có thời gian cô à” ( Biên bản phỏng
vấn sâu số 7). “ Ở trên lớp thì em ngồi nghe thầy cô giảng bài, làm bài tập trong sách, bài
tập thầy cô cho. Còn ở nhà em ít khi học bài lắm, vì em phải làm việc với em cũng không
thích học” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 8). Hầu như các em đều chịu khó nghe giảng trên

lớp và làm bài tập nhưng lại không chịu rèn luyện kiến thức ở nhà nên kết quả học tập có
phần không tốt. Do bản chất ở tuổi các em đang ham chơi hơn, ham học lại không có
người kèm cặp và quan tâm thường xuyên nên các em buông xuôi. Điều đó đã làm cho
kết quả học tập của các em không được tốt. Ở lớp 4 thì việc nghỉ học vô lý do có phần
giảm so với các khối lớp khác: “NPV: Vậy em có hay nghỉ học không. Thích đi học nên
nghỉ học ít lắm đúng không? (cười)"
NĐPV: "Đúng rồi á cô. Bị bệnh em mới nghỉ à, nói chung là có lí do hết cô” ( Biên bản
phỏng vấn sâu số 6). Em Phong (học sinh lướp 4) chịu khó đi học hơn, chỉ nghĩ khi có lý
do nên việc tiếp thu được kiến thức cô giảng trên lớp có thể giúp em làm bài tập một cách
tốt hơn. Còn với Nhi thì việc học của em còn phụ thuộc vào gia đình : “ Khi nào mẹ bắt
em ở nhà trông em trông cháu thì em nghỉ, em chỉ đi học được buổi chiều thôi, buổi sáng
em đi bán vé số rồi” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 7). Điều đó làm cho việc học của em
gặp nhiều hạn chế, khi em đang cố gắng nhưng lại không nhận được sự giúp đỡ từ phía
gia đình. Còn với B thì: “Ưm…Em cũng hay nghỉ học ạ! Vì nhiều hôm nhà em có việc
bận, em bị bệnh nên em nghỉ học” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 8). Bảo khá là lười học
nên em thường xuyên nghĩ học, điều đó làm cho em có cảm giác ngại khi không theo
được các bạn. Dẫn tới kết quả học tập của em không được cao so với các bạn trong lớp.
Lớp 4 có lẽ là lớp lớn nên được thầy cô quan tâm hơn trong việc học, đối với việc ra bài
tập về nhà cho các em thì khá thường xuyên. Các em nói khi được hỏi về việc cô giao bài
tập cho các em: “: Có chứ cô. Ngày nào chẳng có bài về nhà cô” ( Biên bản phỏng vấn
19


sâu số 6). Còn với N thì: “Dạ có, đặc biệt là môn Toán, có bài thường xuyên luôn. Em
không làm là bị đánh” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 7). B thì: “ Dạ có! Mấy bài tập về nhà
có bài khó có bài dễ, bài nào dễ em mới làm được, khó quá sao em làm” ( Biên bản
phỏng vấn sâu số 8). Thầy cô dạy lớp 4 chủ động hơn trong việc giao bài tập cho các em
về làm, điều đó giúp ích rất nhiều trong việc rèn kiến thức của các em. Hơn nữa thầy cô
cũng có một số biện pháp đối với các em không làm bài thì: Bị ăn gậy, viết bản kiểm
điểm… nên các em cũng có sự chịu khó hơn so với các khối lớp khác.

Và lớp 4 thì các em cũng đã lớn nên thầy cô cũng áp dụng những biện pháp dạy khá là
bạo lực để các em có thể chịu khó học tập hơn. Nên kết quả học tập của lớp 4 có nhiều
tiến bộ hơn.
Nhìn chung tình hình học tập của các em đang gặp rất nhiều khó khăn cả về phương pháp
học tập, phong cách giảng dạy của thầy cô. Nhưng các em cũng có những cố gắng tích
cực để việc học có những chuyển biến tích cực.

20


1.3 Nhận định của quản lí trường:
Khi nhận định về việc dạy ở trường chị P (quản lí) cho biết hiện tại cơ sở có được
2 nguồn nhân lực đang tham gia giảng dạy: “Em hãy xác định, đội ngũ giáo viên bao
gồm: một là giáo viên được mời về, hai là tình nguyện viên, trong tình nguyện viên có
hai loại, tình nguyện viên nòng cốt (có lịch cụ thể, đi thường xuyên), và tình nguyện viên
đến rồi đi, thích thì dạy, không thích thì thôi” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 12). Điều này
hạn chế rất nhiều trong việc phân công công việc giảng dạy và thống nhất cách dạy ở
từng khối lớp, điều này làm cho việc dạy không có hiệu quả cao.Hầu như dù là giáo viên
hay tình nguyện viên dạy chính ở đây cũng có rất nhiều khó khăn. Chị P phân tích: “Thứ
nhất là về giáo viên được mời. Cái khó khăn của mấy cô là các cô đã lớn tuổi,mình chỉ có
thể mời được giáo viên lớn tuổi thôi, không mời được giáo viên trẻ , vì cái lòng nhiệt tình
của giáo viên trẻ thì cao mà tiền lương lại thấp, không đáp ứng được cho họ. Còn giáo
viên lớn tuổi thì sự nghịch ngợm của trẻ làm cho họ mệt mỏi, không quản lý được nên
cũng có thể ảnh hưởng tới chất lượng dạy của các cô (bên cạnh đó lương không cao nên
không thu hút được nhiều giáo viên, đặc biệt là giáo viên có chuyên môn. Cô giáo dạy
một buổi thì một tháng tối đa chỉ có 800 ngàn, còn giáo viên dạy 2 buổi thì hơn một triệu,
thật sự là lương không hề cao.
Thứ hai là về tình nguyện viên nòng cốt. Từ trước đến giờ, chị chưa có bất kỳ một sự hỗ
trợ nào cho tình nguyện hết. Tiền xăng xe, tiền ăn uống, nghỉ ngơi…nên cũng gây khó
khăn cho họ. Tình nguyện viên nòng cốt hiện giờ ở xa lắm, không có ở gần đây” ( Biên

bản phỏng vấn số 12). Những điều chị chia sẻ là hoàn toàn hợp lý khi đội ngũ giáo viên
gặp rất nhiều khó khăn thì chất lượng giảng dạy cũng bị hạn chế đi. Các giáo viên mà chị
mời về đều là những người đã dạy học khá lâu, tuổi cũng lớn nên phương pháp dạy học
không thể linh hoạt và theo kịp giới trẻ hiện nay được. Điều đó sẽ làm cho việc học của
21


các em gặp rất nhiều khó khăn. Chị đã khẳng định một lần nữa những khó khăn có thể
ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng giảng dạy: “Theo chị thấy thì tình nguyện viên nòng cốt
dạy tương đối tốt, tại vì ngay từ đầu đã đăng ký là tình nguyện viên nòng cốt thì phải có
trách nhiệm. Thêm một trường hợp nữa là có rất nhiều người đăng ký dạy, thích thì đi
dạy, không thích thì thôi, nên tạo ra rất nhiều khó khăn. Khó khăn ở đây là có quá nhiều
người dạy, nên có rất nhiều phương pháp dạy, cách truyền đạt kiến thức khác nhau, hôm
nay một tình nguyện viên, ngày mai một tình nguyện viên khác làm cho các em khó tiếp
thu dẫn đến việc dạy và học đều không có hiệu quả. Thêm một điểm nữa là khi có tình
nguyện viên mới đến, các em nó tò mò, nó tìm hiểu về giáo viên mới nên không có tập
trung cho việc học." (Biên bản phỏng vấn sâu số 12)
"Hai giáo viên được mời thì chị không hỏi, nhưng Bà Mười có nói là 2 cô có kinh nghiệm
hơn 10 năm rồi, các cô này dạy tiểu học trong khuôn viên quận 7, nghĩa là trong các dự
án, như là dự án Cầu Hàn vậy đó, nói chung là các dự án mà đi dạy các lớp học tình
thương thì các cô dạy, 2 cô này có kinh nghiệm 10 năm rồi” (Biên bản phỏng vấn sâu số
12). Chị phân tích khá kỹ những khó khăn mà cơ sở đang gặp phải,thực sự chị hiểu được
những khó khăn mà cô và các tình nguyện viên đang gặp phải. Không những thế, điểm
mấu chốt ở đây mà chị nói đó chính là do tình nguyện viên tới dạy rồi lại nghỉ lưng
chừng làm cho các em phải cùng một lúc học tập với phương pháp của nhiều người,
không tập trung vào một phương pháp chủ đạo. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả
học tập của các em. Đối với chị, chỉ cần các cô và tình nguyện viên làm hết lòng vì các
em, dùng cái tâm và tình thương đối với các em là được rồi. Dù các cô không có những
phương pháp dạy học hiệu quả cho lắm thì việc các cô chịu dạy các em với mức lương
khá là thấp thì đã hiểu tình thương mà cô dành cho các em. Còn đối với tình nguyện viên

thì các bạn đã vượt qua mọi khó khăn nhất là vấn đề vật chất để có thể mang kiến thức về
cho các em. Đó là những điều mà chị thấy được ở trường tình thương này từ khi vào quản
lý.
Chị cũng nói về phương pháp dạy học của các cô, đó là dạy đúng theo chương
trình của bộ giáo dục đề ra, để các em có thể theo kịp chương trình như những bạn học ở
trường chính quy. Chị nói: “ Đúng rồi đó em, các giáo viên dạy theo chương trình của Bộ
Giáo dục hoàn toàn. Các cô có soạn giáo án viết tay đàng hoàng” ( Biên bản phỏng vấn
sâu số 12). Đó là một cách dạy đúng để cho các em không bị bỡ ngỡ khi ra trường lớn.
22


Chị cũng khá thường xuyên yêu cầu các cô ở cơ sở thay đổi cách dạy để các em có hứng
thú hơn hoặc có ý chí để học tập hơn. Chị cho biết: “Có chứ em. Lâu lâu chị cũng yêu
cầu các giáo viên thay đổi phương pháp. Ví dụ như lớp 1 theo thời gian, chị yêu cầu cô
giáo dạy viết chữ to 5 ô ly, sau đó nhỏ dần lại, lúc đầu cho viết bút chì sau đó dần dần rèn
cho các em viết bút mực, nghĩa là tiến bộ dần dần. Còn lớp 2 và lớp 3 do chỉ có một giáo
viên mà phải quản lý 2 lớp nên cô giáo dạy theo phương pháp linh động, sao cho các em
hiểu bài nhanh nhất” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 12). Vậy là cô cũng đã có những cách
dạy khá là hiệu quả cho công việc học tập của các em, nâng cao được kết quả học tập
theo từng thời gian. Chị cũng đã linh hoạt trong việc cho thêm các môn phụ đạo để các
em có thể vừa được học và lại còn được vui chơi giải trí:
“NPV: Ngoài 2 môn Toán và Tiếng việt mình có đưa thêm môn nào vào nữa không chị?"
NPV: "Có em, chị có đưa thêm môn Anh văn và môn Vẽ. Vì thời gian có ít nên không
thể cho học nhiều môn được. Và còn thiếu giáo viên, thiếu thiết bị, bất cập rất nhiều thứ
vậy nên kiến thức lịch sử, kiến thức xã hội của các em rất kém."
NDPV: "Vậy chị đã có những giải pháp nào để khuyến khích các em học tập không ạ?"
NPV: "Thứ 7 thì chị có tổ chức những buổi sinh hoạt theo chủ đề như: Mỹ thuật, hát, thể
dục thể thao, tổ chức sinh nhật…để khuyến khích các em có tinh thần học tập hơn. Hồi
trước thì hàng ngày khi các em học bài xong thì chị phát bánh kẹo nhưng chỉ có các em
nào chăm ngoan thôi. Nhưng chị đâu có bánh kẹo mà phát hoài như vậy, sau này có các

tổ chức người ta tới, có phát quà thì chị giữ ít lại lâu lâu chị cũng phát” ( Biên bản phỏng
vấn sâu số 12). Chị dùng việc học và chơi kết hợp như vậy cũng là một phương pháp hiệu
quả giúp các em rất nhiều trong việc học. Như vậy đến trường đối với các em không chỉ
là chỉ có phải học bài vở mà còn là nơi vui chơi và thể hiện tài năng như vẽ, hát.
Còn khi đánh giá về việc học của các em thì chị cũng đã nhìn thấy được một số lý do
khiến cho các em có kết quả học tập không cao. “ Trẻ ở đây thì nghịch, rất là nghịch,
không phải ai cũng làm cho tụi nó sợ. Ba mẹ thì không quan tâm hoặc ít có ai quan tâm
con mình học ở đâu, làm gì, khi nào về, chỉ biết con mình cắp sách đi là biết đi học chứ
cũng chẳng cần biết có đi học hay không. Về số lượng học sinh tăng thì tăng không nhiều
nhưng lại giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do gia đình. Có em phải xuống tới nhà năn nỉ đi
học nhưng cũng không đi. Do bản thân nó không chịu học, hoàn toàn là do ý thức của các
em thôi” ( Biên bản phỏng vấn sâu số 12). Chị nói các em ở đây nghịch và đôi lúc rất hư
23


×