Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nâng cao chất lượng đài truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.89 KB, 25 trang )

Tr

ườ
n

g

Đ

ại

họ

cK

in

h

tế

H

uế

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, hệ thống đài truyền thanh cơ sở là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu
của địa phương, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ trực tiếp
của Đảng, chính quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành để
phát triển kinh tế, xã hội. Đây là cơ quan thông tin, tuyên truyền để giúp nhân dân


nắm bắt các chủ trương, chính sách của cấp trên và cấp ủy, chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, địa hình của tỉnh tương đối dốc và bị chia cắt bởi đồi núi, khí hậu nhiệt
đới ẩm gió mùa cộng với tác động của thời tiết mưa nắng thất thường, nhất là các xã
ven biển, ảnh hưởng của sự xâm nhập mặn làm cho các thiết bị của các đài truyền
thanh thường xuyên bị sét, gỉ, hỏng hóc. Đặc biệt, các xã ở vùng sâu, vùng xa thuộc
khu vực miền núi, trung du có địa hình núi cao thường xuyên bị chắn sóng, khuất
sóng, lõm sóng. Đồng thời, một số cụm dân cư sống phân tán rải rác cũng gặp
những khó khăn trong việc thu sóng phát thanh và truyền hình của tỉnh, huyện.
Công tác đầu tư, xây dựng, nâng cấp trang thiết bị của hệ thống đài truyền
thanh cơ sở có nhiều hạn chế. Hoạt động của hệ thống này thời gian gần đây phát
sinh nhiều bất cập, có địa phương sử dụng đài truyền thanh phát sóng vô tuyến, có
địa phương sử dụng phát sóng hữu tuyến, không có sự thống nhất chung. Hầu hết,
trang thiết bị của các đài truyền thanh đã lạc hậu, máy phát có công suất nhỏ đã qua
sử dụng lâu năm nên bị xuống cấp trầm trọng. Đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc
tại các đài truyền thanh cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, chưa được hưởng các
chế độ cần thiết.
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị đến năm
2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 321/QĐ-TTg ngày
2/3/2011, tỉnh Quảng Trị được xác định xây dựng sớm trở thành một trong những
trung tâm giao lưu, hợp tác phát triển với các địa phương trong nước và với các
nước trong tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, là một trong những cửa ngõ hướng ra
biển Đông của các nước và vùng lãnh thổ trên tuyến Hành lang Kinh tế Đông - Tây.
Bên cạnh đó, Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo và Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới đang đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết về phát triển hệ thống đài
truyền thanh cơ sở. Phát triển mạnh hệ thống truyền thanh cấp xã đến với đông đảo
nhân dân, trong đó có vùng dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng nội dung của
chương trình truyền thanh xã, đặc biệt là khu vực không có sóng truyền hình tỉnh”.
Trước những yêu cầu đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “ ” làm Luận văn
cao học chuyên ngành Quản lý kinh tế; với mong muốn kết quả nghiên cứu lý luận

và thực tiễn và những giải pháp đề xuất sẽ là thông tin cần thiết góp phần nâng cao
chất lượng truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích tổng thể đài truyền thanh cơ sở nhằm tìm ra những giải pháp
có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng và các yếu tố cấu thành chất lượng, hiệu quả
hoạt động của Đài Truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đến năm 2020.
2.2. Mục tiêu cụ thể

1


Tr

ườ
n

g

Đ

ại

họ

cK

in

h


tế

H

uế

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn đài truyền thanh cơ sở, chất lượng
đài truyền thanh cơ sở;
- Khảo sát và đánh giá thực trạng chất lượng đài truyền thanh cơ sở và tìm hiểu
những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân trong việc nâng cao
chất lượng đài truyền thanh cơ sở trên địa bàn để nghiên cứu;
- Đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng đài truyền thanh cơ sở.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Hệ thống đài truyền thanh cơ sở, chất lượng đài truyền thanh cơ sở, các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng đài truyền thanh cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về các nhân tố tác động đến chất lượng
đài truyền thanh cơ sở
- Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện tại địa bàn tỉnh Quảng Trị
- Về thời gian:
+ Số liệu sơ cấp được tiến hành bằng cách điều tra khách hàng từ tháng
1 năm 2016 đến tháng 5 năm 2016.
+ Số liệu thứ cấp khác phục vụ cho đề tài nghiên cứu được thu thập
trong khoảng thời gian từ năm 2013 - 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
4.1.1. Số liệu thứ cấp
Số liệu thứ cấp thu thập từ các số liệu báo cáo tổng kết đánh giá của của các

đài truyền thanh huyện và đài truyền thanh xã; từ Sở Thông tin và Truyền thông,
Niên giám thống kê và các nguồn số liệu liên quan khác.
4.1.2. Số liệu sơ cấp
Các thông tin được thu thập thông qua việc phát phiếu điều tra và phỏng vấn
trực tiếp cán bộ xã và người dân tại 141 xã phường trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và 10
đài truyền thanh huyện, thị, thành phố.
4.2. Các Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu và phân tích
- Phương phápTổng hợp, suy luận khoa học.
- Phương pháp phân tích thống kê
- Các Phương pháp phân tích định lượng và phân tích định tính
- Công cụ hỗ trợ: Toàn bộ số liệu điều tra được nhập và xử lý bằng phần mềm
Excel và SPSS 16.0
4.3. Các phương pháp khác: Phương pháp chuyên gia tham khảo, ....
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng hệ thống đài
truyền thanh cơ sở
Chương 2: Thực trạng hoạt động của hệ thống đài truyền thanh cơ sở trên địa
bàn tỉnh Quảng Trị và những vấn đề đặt ra
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng và đầu tư hệ thống đài truyền thanh
cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

2


Tr

ườ
n


g

Đ

ại

họ

cK

in

h

tế

H

uế

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỆ THỐNG TRUYỀN THANH CƠ SỞ
1.1. Lý luận về phát thanh và truyền thanh
1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm về phát thanh:
Phát thanh là một loại hình báo chí mà đặc trưng cơ bản của nó là dùng âm thanh
phong phú, sinh động (lời nói, tiếng động, âm nhạc) để truyền tải thông điệp nhờ sử
dụng sóng điện từ và hệ thống truyền thanh tác động vào thính giác công chúng.
* Khái niệm về truyền thanh

“Truyền thanh là phương thức truyền tải thông tin tiếng động, âm thanh qua
dây dẫn tín hiệu từ máy phát tổng đài đến các loa. Hệ thống truyền thanh được vận
hành bởi tập hợp các thiết bị đầu cuối từ thu âm, thu tín hiệu đầu vào sóng radio,
thiết bị khuếch đại tín hiệu âm thanh, hệ thống dây dẫn và các loa”. [16]
1.1.2. Khái quát sự phát triển của hệ thống đài TTCS Việt Nam
Đài Tiếng nói Việt Nam được ra đời từ ngày 7/9/1945. Tuy nhiên, phải đến
năm 1956, với sự giúp đỡ của Liên Xô thời kỳ đó, chúng ta mới bắt đầu xây dựng
đựơc các đài phát thanh tỉnh. Đến những năm 60 của thế kỷ XX. Hệ thống đài
truyền thanh ở nước ta đã từng bước được tăng cường số lượng và nâng cao dần
chất lượng. Nhiệm vụ chính của các đài huyện trong giai đoạn này là tiếp phát sóng
đài Trung ương, đài tỉnh và tự xây dựng các bản tin, các chương trình phát thanh để
phản ánh về công việc của các hợp tác xã; cổ vũ những phong trào thi đua lao động
sản xuất, các điển hình; phê phán thói xa hoa, lãng phí, quan liêu trong quản lý tài
sản tập thể… Do số lượng đầu báo ở ta khi đó còn rất ít nên vị trí, vai trò của các
đài TTCS là rất lớn.
Từ năm 1976, nhà nước ta đã quyết định đưa các đài truyền thanh xã, phường
vào bộ máy tổ chức của hệ thống truyền thanh 4 cấp gồm: cấp Trung ương; cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc; cấp huyện, thị xã; cấp xã, phường, thị trấn. Riêng hai cấp
sau được gọi chung bằng một thuật ngữ là “đài cơ sở”.
Chính vì thế, khái niệm “Hệ thống đài truyền thanh cơ sở” trong Luận văn này
được hiểu bao gồm: Đài truyền thanh huyện, thị xã, thành phố (gọi tắt là đài huyện)
và đài truyền thanh xã, phường, thị trấn (gọi tắt là là đài xã).
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin trong những năm
cuối của thế kỷ XX đã tạo cơ sở cho các đài huyện được trang bị những máy phát
sóng cực ngắn và kéo theo đó là sự ra đời của hàng loạt trạm truyền thanh cấp xã,
phường, thị trấn.
Có thể khẳng định, kể từ khi ra đời cho đến nay, hệ thống đài truyền thanh cơ
sở luôn là một bộ phận trong hệ thống báo chí chính trị của cả nước. Riêng đối với
khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo - nơi mà số lượng khán giả
chiếm đến 80% dân số cả nước - hệ thống này có tầm quan trọng đặc biệt.

Đài truyền thanh cơ sở là phương tiện tuyên truyền hữu hiệu của địa phương,
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; là công cụ trực tiếp của Đảng, chính
quyền địa phương trong công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành để phát triển kinh tế,
xã hội. Đây là cơ quan thông tin, tuyên truyền để giúp nhân dân nắm bắt các chủ

3


Tr

ườ
n

g

Đ

ại

họ

cK

in

h

tế

H


uế

trương, chính sách của cấp trên và cấp ủy, chính quyền địa phương. Trong sự phát
triển mạnh mẽ của các loại hình thông tin đại chúng hiện đại, hệ thống đài truyền
thanh cơ sở vẫn luôn có chỗ đứng nhờ tính hiệu quả của nó.
1.1.3. Đặc điểm về phát thanh, truyền thanh
So với truyền hình thì phát thanh thông tin nhanh hơn: Khi có một sự kiện mới
xảy ra, phát thanh chính là phương tiện để truyền tải thông tin một cách nhanh nhất
đến công chúng. Báo in bị giới hạn về diện tích trang báo, số câu chữ trong mỗi số
báo, thời gian in ấn. Báo hình (truyền hình) phải qua công đoạn quay, dựng, chỉnh
sửa thì mới ra được sản phẩm. Báo điện tử tuy nhanh hơn nhưng để cung cấp thông
tin và bạn đọc tiếp cận được thông tin đó cần có mạng Internet và thiết bị điện tử.
Trong khi đó, với các địa phương, kể cả nơi có điều kiện kinh tế, xã hội còn khó
khăn, phát thanh có thể tổng hợp và đưa tin ngay sau khi xảy ra sự kiện hoặc có thể
đưa tin trực tiếp khi mà chương trình, sự kiện đó vẫn đang xảy ra.
Độ phủ sóng rộng: So với truyền hình, phát thanh có độ phủ sóng rộng, dễ tiếp
nhận và có khả năng kích thích trí tưởng tượng. Cho đến nay, chưa có nước nào trên
thế giới, kể cả các nước phát triển nhanh như Mỹ, Anh, Pháp… từ bỏ phát thanh cả.
Có đối tượng thính giả rộng rãi: Không chỉ ở thành thị, nơi có các nguồn thông
tin phong phú và đa dạng mà ngay ở nông thôn, những nơi có trình độ dân trí chưa
cao, người dân vẫn hàng ngày gắn bó với các chương trình phát thanh và xem đó
như một người bạn thân thiết của họ. Những người không biết chữ, bị khuyết tật
(trừ thính giác) đều có thể nghe thông tin do phát thanh cung cấp. Những thông tin
họ nghe trên đài, loa phóng thanh không chỉ đơn giản là những mẩu tin về thời tiết,
thông tin có nội dung gần gũi, gắn bó với đời sống, sinh hoạt hàng ngày của họ mà
còn có nhiều thông tin quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của họ.
Truyền thanh cơ sở (TTCS) là tập hợp các thiết bị công nghệ và công cụ kỹ thuật
hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin qua tín hiệu
phát thanh.

Thông tin tín hiệu phát thanh là thông tin được tạo lập bằng phương pháp
dùng tín hiệu điều biên (AM - Amplitude Modulation) (đối hệ thống truyền thanh
hữu tuyến) hoặc bằng phương pháp điều tần (FM - Frequency Modulation) (đối hệ
thống truyền thanh vô tuyến)
Phát triển hệ thống Đài TTCS là hoạt động nghiên cứu - phát triển liên quan
đến quá trình đầu tư trang thiết bị phát thanh (thiết bị thu, phát), thiết bị sản suất
chương trình để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý tin bài, lưu trữ thông tin; phát
triển nguồn nhân lực TTCS;
Hệ thống TTCS được cấu thành bởi 2 lĩnh vực chủ yếu:
+ Cơ sở hạ tầng: là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất, truyền
đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin, bao gồm máy phát sóng phát
thanh (vô tuyến), máy tăng âm truyền thanh (hữu tuyến), máy tính sản xuất chương
trình phát thanh, hệ thống dây, loa truyền thanh, hạ tầng cột Anten phát sóng và các
trang thiết bị phụ trợ khác.
+ Nguồn nhân lực và chất lượng nội dung chương trình: Cán bộ quản lý và
phóng viên phải được tuyển dụng và đào tạo đúng chuyên ngành, có kỷ thuật, nội

4


Tr

ườ
n

g

Đ

ại


họ

cK

in

h

tế

H

uế

dung chương trình phong phú và có chất lượng, thiết thực đi vào đời sống của
nhân dân.
1.2. Chức năng, vai trò của đài truyền thanh cơ sở
1.2.1. Chức năng đài truyền thanh cơ sở
Chức năng của đài truyền thanh cơ sở thể hiện trên 4 mặt như sau:
- Chức năng thứ nhất thuộc về nhiệm vụ chính trị trung tâm là tuyên truyền,
định hướng chính trị theo quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Mọi vấn đề đều có liên quan đến chính trị và tuyên truyền có định
hướng là công cụ đắc lực để mọi người dân hiểu rõ, hiểu đúng nhằm tạo sự đồng
thuận, làm nền tảng cho ổn định chính trị.
- Chức năng thứ hai là thông tin, giải trí: Được thông tin (được biết) là nhu
cầu tự nhiên của con người. Thông tin để biết, thông tin để hiểu và nâng cao nhận
thức, trình độ. Hiện nay, cần phải làm rõ chức năng thông tin không chỉ giới hạn
trong “tin tức thời sự”, mà phải mở rộng ra mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội,
giáo dục, văn hóa, đời sống, sản xuất, pháp luật…

- Chức năng thứ ba, thực hiện nhiệm vụ kết nối trực tiếp giữa Đảng - chính
quyền với người dân: Xã hội càng phát triển, dân trí càng cao, ý thức và sự quan
tâm của người dân đối với xã hội, đối với những vấn đề nhạy cảm liên quan đến họ
và liên quan đến trách nhiệm của các cấp chính quyền cũng ngày càng nâng cao.
Thực hiện tốt chức năng kết nối sẽ đáp ứng được những yêu cầu của dân chủ hóa,
công khai hóa.
- Chức năng thứ tư, đài truyền thanh như là một công cụ điều hành trong hệ
thống điều hành xã hội. Điều này thể hiện rõ nét ở đài truyền thanh cơ sở, đặc biệt vào
những lúc cần xử lý các tình huống cấp bách như: dịch bệnh, thiên tai, xuất hiện các dư
luận bất thường… Cần xác định quan niệm như vậy để phát huy hết khả năng của đài
truyền thanh vì trên thực tế ngày càng có nhiều hệ thống điện tử được sử dụng như một
công cụ điều hành, ví dụ như mạng Internet, cầu truyền hình trực tiếp… ”.
1.2.2. Vai trò của hệ thống Đài TTCS
So với đài Trung ương và đài tỉnh, các đài TTCS có những ưu thế nổi bật là
thông tin sát thực, trực tiếp, cụ thể đến từng người dân trong địa bàn. Trong thực tế,
có những loại nội dung thông tin mà chỉ có đài truyền thanh cơ sở mới có thể đề cập
đến được một cách sâu sát, mang lại hiệu ứng trực tiếp, tức thời. Đó là những
chuyện gần gũi với đời sống thường nhật như: chuyện cấy cày, thời vụ, làng trên
xóm dưới, rồi các hoạt động như bầu cử, đại hội, hội họp, lễ hội, lễ phát động, tiêm
chủng, thông báo tình hình lũ, lụt, di tản dân cư đột xuất do thiên tai…
Có thể nói, chương trình của các đài cơ sở từ lâu đã thực sự đáp ứng được
nhu cầu của các thính giả tại những khu vực này, trở thành người bạn tâm tình chia
sẻ những buồn vui, trăn trở về mọi khía cạnh của cuộc sống; là nơi gợi mở, hướng
dẫn những mô hình, những cách thức làm ăn cho quần chúng nhân dân trong chủ
trương “xóa đói giảm nghèo”; là người thầy, người bạn trong việc nâng cao dân trí
và giao lưu văn hóa….
1.3. Chất lượng đài truyền thanh cơ sở
1.3.1. Khái niệm chất lượng đài truyền thanh cơ sở
- Khái niệm chất lượng: Từ điển tiếng Việt định nghĩa “Chất lượng: cái tạo


5




×