Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài tập học kì hình sự 1 đề 8 (8 điểm) s và v đều là đối tượng nghiện ma tuý vì cần tiền mua ma tuý nên s bàn với v rủ cháu t (13 tuổi, cháu họ của

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.59 KB, 10 trang )

Đề bài số 8:
S và V đều là đối tượng nghiện ma tuý. Vì cần tiền mua ma tuý nên S bàn
với V rủ cháu T (13 tuổi, cháu họ của S) đi Lạng Sơn chơi, rồi lừa bán T sang
Trung Quốc. Hành vi của S và V cấu thành tội mua bán trẻ em theo khoản 2
Điều 120 BLHS.
Câu hỏi:
1. Tội mua bán trẻ em Điều 120 là tội phạm có CTTP vật chất hay CTTP
hình thức? (1 điểm)
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này. (1 điểm)
3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải là đồng phạm không? Tại sao? (2
điểm)
4. Giả sử V vừa mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài
sản Điều 136, lại phạm tội mua bán trẻ em thì trường hợp phạm tội của V là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm? (3 điểm)

0


MỤC LỤC
CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÍ………………………………………………...
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG……………………………………………..
1. Tội mua bán trẻ em Điều 120 là tội phạm có CTTP vật chất hay CTTP

2
2
2

hình thức?..................................................................................................
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này?......................
3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải đồng phạm không? Tại sao?......
4. Giả sử V vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản



3
4
5

Điều 136, lại phạm tội mua bán trẻ em thì trường hợp phạm tội của V là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm?..................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………

Bảng từ viết tắt
BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

QHNQ

Quan hệ nhân quả

NỘI DUNG
CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÍ
ĐIỀU 120 BLHS
1

9



1. Khách thể của tội phạm: Tội phạm xâm hại quyền tự do thân thể của trẻ
em và quyền được quản lý, chăm sóc, giáo dục của trẻ em. Đối tượng của hành
vi mua bán trẻ em là trẻ em – người dưới 16 tuổi.
2. Mặt khách quan của tội phạm: Tội phạm được thể hiện ở các hành vi như
rủ rê, lôi kéo, lừa dối để trẻ em theo người phạm tội. Người phạm tội mua để
nuôi, mua để bán hoặc sử dụng vào mục đích khác.
3. Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm thực hiện do lỗi cố ý.
Điều luật không quy định động cơ và mục đích nên hành vi phạm tội với bất kì
động cơ hay mục đích nào thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội mua bán
trẻ em.
4. Chủ thể của tội phạm: Người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực TNHS.
Một số vấn đề cần lưu ý: Hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
người từ đủ 16 tuổi trở lên thì không phạm tội này.
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Tội mua bán trẻ em Điều 120 là tội phạm có CTTP vật chất hay
CTTP hình thức?
Trả lời: Tội mua bán trẻ em Điều 120 là tội phạm có CTTP hình thức.
Cấu thành tội phạm (CTTP) là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Căn cứ vào đặc
điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan (những biểu hiện ra bên
ngoài của tội phạm bao gồm: hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, mối QHNQ giữa hành vi và hậu quả cũng như những điều kiện
bên ngoài khác (công cụ, phương tiên, thời gian, địa điểm,…) để phân loại
CTTP có thể chia CTTP thành CTTP vật chất và CTTP hình thức:
- CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi,
hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. (VD: Tội cướp tài sản
– Điều 133,..)
2



- CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi
gây nguy hiểm cho xã hội. (VD: Tội cướp giật tài sản – Điều 136, Tội mua bán
người – Điều 119,… ). Trong CTTP hình thức không có dấu hiệu hậu quả cũng
như quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Ở tội phạm có CTTP hình thức, hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt
buộc, do vậy vấn đề thấy trước hậu quả không được đặt ra khi xem xét dấu hiệu
pháp lí của người phạm tội.
Đối với tội mua bán trẻ em, Điều 120 BLHS chỉ quy định một dấu hiệu của
mặt khách quan là hành vi mua bán trẻ em, đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội:
“Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kì hình thức
nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Hành vi mua bán trẻ em là hành vi
dùng tiền hoặc phương tiện thanh toán khác như vàng, ngoại tệ để trao đổi mua
bán trẻ em như thứ hàng hóa. Điều luật không quy định dấu hiệu hậu quả của tội
mua bán trẻ em cũng như quan hệ nhân quả giữa hành vi mua bán trẻ em và hậu
quả của hành vi đó. Có thể hiểu hậu quả xảy ra là đứa trẻ bị mua, bị bán đã rời
khỏi sự quản lý của cha, mẹ, gia đình, người thân và hậu quả này không phải là
dấu hiệu bắt buộc.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ
em đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm nên Điều 120 là tội
phạm có CTTP hình thức.
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này?
Trả lời: Hình thức lỗi của S và V trong vụ án này là lỗi cố ý trực tiếp.
Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi
cố ý hoặc vô ý.
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Khoản 1 Điều 9 BLHS).
Xét về hình thức lỗi của S và V trong trường hợp này:
3



Về lí trí người phạm tội nhận thấy trước được tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình và nhận thấy trước được hậu quả cuả hành vi đó. Còn về ý chí
người phạm tội mong muốn hậu quả đó xảy ra. Nhưng như đã xác định ở ý 1,
tội mà S và V đã phạm là tội phạm có CTTP hình thức nên hậu quả không phải
là dấu hiệu bắt buộc. Cũng không cần xét đến vấn đề ý chí của S và V, chỉ cần
xác định S và V có nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi do mình gây
ra không mà vẫn thực hiện hành vi đó.
Vậy về lí trí hai đối tượng S và V này thấy được hành vi lừa bán cháu T
sang Trung Quốc là nguy hiểm cho xã hội, pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố
ý thực hiện và mong muốn sự việc đó xảy ra để có tiền mua ma túy sử dụng nên
hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này lỗi cố ý trực tiếp.
3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải đồng phạm không? Tại sao?
Trả lời: Nếu S mới 15 tuổi thì S và V vẫn là đồng phạm.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 20 BLHS: “ Đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Theo dữ kiện đề bài, hành vi của S và V đã cấu thành tội phạm theo khoản 2
Điều 120 BLHS: “Phạm tội thuộc một trong các tội sau đây thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a)Có tổ chức;
b)Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Vì động cơ đê hèn;
d) Đối với nhiều trẻ em;
đ) Để lấy bộ phận cơ thể nạn nhân;
e) Để đưa ra nước ngoài;
g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo;
h) Để sử dụng vào mục đích mại dâm;
i) Tái phạm nguy hiểm;
k) Gây hậu quả nghiêm trọng.”

Mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng cho tội tại khoản 2 là tù chung
thân. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS về tội đặc biệt nghiêm trọng: “tội đặc
4


biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất đối với tội ấy là trên mười lăm năm, tù chung thân hoặc tử hình. Vậy tội
phạm mà S và V phạm phải là tội đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình
sự: “ Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”. Như vậy, S 15 tuổi và tội mà S phạm phải là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng nên S vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Phân tích trên cho thấy, trong vụ án này có hai người là S và V cùng thực
hiện một tội phạm trong đó S 15 tuổi, cả hai đều phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
với lỗi cố ý trực tiếp cùng thực hiện hành vi lừa bán T sang Trung Quốc. Do vậy
S và V là đồng phạm trong vụ án này và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã
phạm.
Trong luật hình sự, đồng phạm là trường hợp phạm tội đặc biệt. Hậu quả là
kết quả chung do hoạt động của tât cả những người tham gia vào thực hiện tội
phạm đưa lại. Hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp làm phát
sinh hậu quả còn hành vi của những người khác ( tổ chức, xúi giục, giúp sức )
thông qua hành vi của người thực hành mà gây ra hậu quả.
4. Giả sử V vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản
Điều 136, lại phạm tội mua bán trẻ em thì trường hợp phạm tội của V là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Thứ nhất, đối với tội mua bán trẻ em thì tội phạm mà V đã phạm phải là
tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, V vừa chấp xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản theo
Điều 136, lại phạm tội mua bán trẻ em theo Điều 120. Ta cần xác định loại tội

phạm mà V phạm phải đối với tội cướp giật tài sản.
Theo khoản 1 Điều 136: “ Người nào cướp giật tài sản của người khác thì
bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Xét theo khoản 3 Điều 8 quy định về tội
nghiêm trọng thì “ tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã
5


hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là bảy năm tù”. Vậy
theo khoản 1 Điều 136 thì V thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.
Theo khoản 2 Điều 136: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây
thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) có tổ chức;
b) có tính chất nguy hiểm;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khẻo của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 11% đến 30%;
g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 quy định về tội rất nghiêm trọng thì “ tội phạm
rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là mười lăm năm tù”. Vậy nếu theo khoản 2
Điều 136 thì V thuộc tội phạm rất nghiêm trọng.
Thứ ba, về trường hợp xóa án tích, theo quy định tại Điều 64, BLHS:
“Những người sau đây đương nhiên được xóa án tích:
1. Người được miễn hình phạt.
2. Người bị kết án không phải vì các tội quy định tại chương XI và
chương XXIV của bộ luật này, nếu từ khi chấp hành song bản án hoặc từ khi hết

thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong trường hợp hình phạt tù dến 3 năm;
c) Năm năm trong trường hợp hình phạt tù từ trên năm năm đến mười
lăm năm.
d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt tù trên mười lăm năm.”
6


Vì V vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản, lại phạm
tội, V cũng không phải là người được miễn hình phạt nên đương nhiên V chưa
được xóa án tích.
Thứ tư, căn cứ vào Điều 49 quy định về tội tái phạm, tái phạm nguy hiểm:
“1.Tái phạm trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm
tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý;
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
Vậy ta cần xét trong hai trường hợp:
* Trường hợp thứ nhất: Đối với tội mua bán trẻ em, V phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng. Mà V đã bị kết án về tội cướp giật tài sản, mới ra tù chưa được
xóa án tích lại phạm tội do cố ý và tội phạm phải là tội đặc biệt nghiêm trọng
nên trong trường hợp phạm tội này V tái phạm theo khoản 1 Điều 49.
* Trường hợp thứ hai: Như đã nói ở trên V phạm tội cướp giật tài sản và
nếu theo khoản 2 Điều 136 thì V phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, vừa ra tù
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mua bán trẻ em theo khoản 2 Điều 120,
thuộc tội phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo điểm a khoản 2 Điều

49 thì trường hợp của V là tái phạm nguy hiểm.
Tóm lại, trong trường hợp này do hành vi phạm tội của V thuộc vào nhiều
loại tội phạm khác nhau nên việc xác định trường hợp phạm tội của V là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm thì chúng ta phải tùy thuộc vào từng trường hợp,
dựa vào loại tội phạm mà V phạm tội thuộc loại tội gì, loại tội mà V đã bị kết án
trước đó, loại tội mà V vừa vi phạm và còn phải căn cứ vào việc đã được xóa án
tích hay chưa. Theo đó thì:
* V tái phạm nếu trong trường hợp phạm tội do cố ý, chưa được xóa án
tích.
7


* V tái phạm nguy hiểm nếu trong trường hợp V đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng.

8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam ( tập 1)
NXB CAND - 2007

2.

Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009)

9




×